Trên nền tảng mặt trận thống nhất chống Mỹ của toàn thể dân tộc ta,
Đảng chủtrương mởrộng và củng cốMặt trận thống nhất nhân dân ba nước
Đông Dương và Mặt trận thống nhất thếgiới ủng hộnhân dân ta chống Mỹ.
Phong trào ủng hộViệt Nam, lên án mạnh mẽhành động xâm lược của đế
quốc Mỹdấy lên không những ở ba nước Đông Dương, ởtrên thếgiới mà ở
ngay trong nước Mỹ. Trên thực tế, đây là loại hình mặt trận thống nhất quốc
tếrộng lớn, với các hình thức, màu sắc và hành động khác nhau, nhưng tất cả
đều đứng vềphía nhân dân Việt Nam, phản đối cuộc chiến tranh xâm lược
Việt Nam của đếquốc Mỹ. “Mặt trận này tuy chưa xây dựng vềhình thức,
nhưng thực tế đã hình thành bằng hành động và tinh thần. Nhân dân Mỹ
đánh từ trong ra, nhân dân ta đánh từngoài vào. Hai bên giáp công mạnh mẽ,
thì đế quốc Mỹ nhất định sẽ thua, nhân dân Việt - Mỹ nhất định sẽ thắng”
1
.
439 trang |
Chia sẻ: phanlang | Lượt xem: 2056 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nhiệm vụ Trung ương giao lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam Tập II (1954-1975), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t trong chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc.
Chúng ta vẫn càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng to hơn về quân sự
và chính trị"1.
Ngày 16-1-1966, tại Hội nghị cán bộ cao cấp nghiên cứu Nghị quyết
Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khoá III), Chủ tịch Hồ
Chí Minh phát biểu nhấn mạnh: việc Mỹ đưa quân viễn chinh vào miền Nam
Việt Nam là sự bộc lộ khó khăn của chúng trên chiến trường và ngay trong
lòng nước Mỹ. “Bây giờ Mỹ có 20 vạn quân ở miền Nam, chúng có thể đưa
thêm vào hơn nữa đến 30, 40, 50 vạn quân. Ta vẫn thắng, nhất định thắng”.
Nhưng Người cũng nhấn mạnh, việc Mỹ ồ ạt đưa quân vào miền Nam, cuộc
chiến đấu của nhân dân ta ở cả hai miền sẽ gay go ác liệt hơn. Chủ tịch Hồ
Chí Minh cũng chỉ rõ những vấn đề mà cán bộ và nhân dân cần chú ý để hoàn
thành tốt nhiệm vụ trong tình hình mới:
- Phải cảnh giác trước những hoạt động tuyên truyền lừa bịp của giới
1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, H, 2003, t 27, tr 112.
401
cầm quyền Mỹ và nhận thức rõ đế quóc Mỹ là kẻ xâm lược miền Nam, đang
đẩy mạnh cuộc chiến tranh xâm lược, mọi hoạt động tuyên truyền về thương
lượng hoà bình của họ đều là giả dối, lừa bịp.
- Lực lượng vũ trang và nhân dân các địa phương phải rút kinh nghiệm
trong các cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, chhú ý làm tốt công tác
phòng không, sơ tán.
- Vừa chiến đấu, vừa duy trì sản xuất tốt. Mọi hoạt động đều phải
chuyển mạnh sang thời kỳ có chiến tranh nhất là hoạt động của các cơ quan
và cán bộ lãnh đạo các bộ, ban, ngành ở Trung ương.
- Phải làm tốt công tác phòng gian, giữ bí mật 1.
Từ ngày 16 đến 23-10-1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự Hội nghị Bộ
Chính trị bàn về tình hình miền Nam và những biện pháp đấu tranh chính trị,
ngoại giao. Người đã góp nhiều ý kiến về chỉ đạo phong trào cách mạng miền
Nam và cho rằng việc huy động sự đóng góp của nông dân vào cuộc kháng
chiến là rất cần thiết, nhưng làm sao phải giảm nhẹ sự đóng góp của nông dân.
Trong phong trào đấu tranh chính trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ phải có
ngay những khẩu hiệu rõ ràng, dứt khoát đòi hoà bình và độc lập dân tộc, gắn
hoà bình và độc lập dân tộc với việc đòi Mỹ rút quân. Người cũng nhắc nhở
các cấp lãnh đạo phải luôn chú ý đến vấn đề dân tộc và tôn giáo ở miền Nam.
Về phương châm kết hợp giữa đấu tranh quân sự, chính trị và ngoại
giao, Người cho rằng: “Ta đánh là chính, vừa đánh vừa đàm để chia rẽ địch,
đàm là để phục vụ cho đánh. Phải kết hợp giữa đàm phán và tiến công quân
sự sao cho uyển chuyển, trước hết phải giành thế mạnh về quân sự mới có
điều kiện đàm phán được, trong đàm phán tránh mơ hồ, mất cảnh giác. Người
nhắc Bộ Chính trị chỉ đạo cách mạng miền Nam phải khéo léo trong các mối
quan hệ quốc tế" 2.
Cũng tại Hội nghị Bộ Chính trị tháng 10-1966, căn cứ vào tình hình
mới, Bộ Chính trị chủ trương, trong khi tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh quân sự
và đấu tranh chính trị, cần đẩy mạnh đấu tranh ngoại giao, “tích cực chủ động
1 Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Biên niên Xứ uỷ Nam bộ và Trung
ương Cục miền Nam (1954-1975), Nxb CTQG, HN, 2002, Tr. 524 -525.
2 Nguồn: Lưu tại kho Lưu trữ Trung ương Đảng.
402
và tích cực tạo điều kiện vận dụng sách lược vừa đánh vừa đàm, vừa đàm vừa
đánh, nhằm mục đich tranh thủ dư luận thế giới, cô lập đế quốc Mỹ, gây thêm
khó khăn cho địch, làm cho chúng bị động, lúng túng và nội bộ mâu thuẫn hơn
nữa, góp phần làm tan rã nguỵ quân, nguỵ quyền và đẩy mạnh phong trào đấu
tranh ở các đô thị”. Dựa trên tư tưởng chiến lược tiến công và từ thực tiễn cuộc
chiến đấu trong năm qua, Bộ Chính trị đã chính thức thông qua 6 phương thức
tác chiến chiến lược do Quân uỷ Trung ương đề ra từ tháng 2-1966.
Phong trào đấu tranh chính trị chống Mỹ và tay sai ở các đô thị miền
Nam đang rầm rộ dâng cao. Những yếu tố mới có lợi cho ta và bất lợi cho
địch ngày càng bộc lộ rõ:
Mâu thuẫn giữa đế quốc Mỹ và tay sai với quần chúng nhân dân kể cả
nguỵ quân, nguỵ quyền ngày càng lan rộng, kể cả tầng lớp trên và nhân viên
nguỵ quân, nguỵ quyền với đạo quân xâm lược Mỹ.
Phong trào đấu tranh ở đô thị miền Nam, nhất là ở Sài Gòn có xu
hướng phát triển mạnh như: phong trào đấu tranh của công nhân lao động đã
đi đầu trong nhiều cuộc tổng đình công, bãi công, các phong trào học sinh,
sinh viên chống Mỹ lan rộng châm ngòi nổ cho các phong trào bãi khoá, bãi
thị khắp nơi.
Để trực tiếp đánh vào hậu phương của địch, ngày 12 tháng 12 năm
1966, Trung ương Cục chủ trương phát động một phong trào đấu tranh chính
trị chống Mỹ, tay sai Thiệu - Kỳ nhằm khoét sâu mâu thuẫn của địch, chủ
động đưa phong trào đấu tranh của quần chúng ở các đô thị, góp phần bẻ gẫy
kế hoạch bình định nông thôn của địch, phối hợp hoạt động quân sự trong
đông xuân của ta. Nội dung chỉ đạo phong trào gồm:
Gây dư luận rộng rãi chống Mỹ và tay sai, khoét sâu mâu thuẫn trong
nội bộ địch.
Nêu cao đoàn kết dân tộc, đòi dân chủ và chủ quyền chống Mỹ-Thiệu-
Kỳ, đòi lật đổ Kỳ-Thiệu đi tới lập một chính phủ thật sự đại diện cho các tầng
lớp nhân dân, đòi chủ quyền dân tộc, đòi dân chủ, dân sinh.
Trung ương Cục yêu cầu các khu, tỉnh vừa nắm vững công tác cơ bản ở
đô thị, vừa liên hiệp mở rộng mặt trận, phát động cao trào chống Mỹ-Thiệu-
403
Kỳ rộng rãi trong các vùng đô thị miền Nam 1.
Nhân dịp Tết Đinh Mùi (năm 1967), Thường vụ Trung ương Cục ra
Chỉ thị cho ngừng tiến công quân sự 7 ngày. Tuy nhiên, trong thời gian đó
Trung ương Cục Chỉ thị phải tăng cường đấu tranh chính trị, binh vận, xây
dựng lực lượng với khẩu hiệu: Tết đoàn kết, quyết chiến, quyết thắng giặc Mỹ
xâm lược. Đẩy mạnh tuyên truyền, xây dựng tinh thần đoàn kết, lòng tin vào
thắng lợi của cách mạng, căm thù giặc Mỹ xâm lược và tay sai bán nước, vạch
trần những luận điệu bịp bợm của địch.
Tại các vùng do địch kiểm soát, Trung ương Cục phát động phong trào
đấu tranh đòi địch ngừng bắn, đòi những quyền lợi thiết thân như nghỉ Tết,
tiền Tết…
Tại các vùng nông thôn tranh chấp và giải phóng, ta tranh thủ thời gian
này để hoàn thành những công việc mà ngày thường không có điều kiện thuận
lợi để thực hiện như: gặt lúa, cất giấu, vận tải, chuyển quân, xây dựng công sự
v.v…Để tạo không khí phấn khởi sôi nổi trong nhân dân, các địa phương, đơn
vị tổ chức mừng công, đón Huân chương của Mặt trận, thăm hỏi các gia đình
cách mạng…các lực lượng vũ trang và nhân dân ta không ngừng nâng cao
cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, tránh bị địch khiêu khích, tích cực chống chiến
tranh tâm lý của chúng.
Đề cương báo cáo tại Hội nghị Trung ương ngày 23-1-1967, Về đẩy
mạnh công tác ngoại giao chủ động tiến công chính trị, vận dụng sách lược
vừa đánh vừa đàm, vừa đàm vừa đánh chỉ rõ: Đế quốc Mỹ ngày càng thất bại,
lúng túng bị động về quân sự và chính trị. Trong khi ta đã bước đầu đánh bại
chiến lược chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ, giành được những thắng lợi to
lớn về quân sự và chính trị. Trên thế thắng lợi đó, hiện nay tình hình đang trở
nên thuận lợi cho việc ta chủ động vận dụng sách lược vừa đánh vừa đàm,
vừa đàm vừa đánh.
Tiếp đó, ngày 23-1-1967 Bộ Chính trị có Điện mật số 00, Về tiếp tục
đấu tranh ngoại giao bảo vệ lập trường của ta trong thời gian tới gửi Trung
ương Cục, Khu V.
1 Lịch sử Biên niên Xứ uỷ Nam bộ và Trung ương Cục miền Nam (1954-1975), Nxb CTQG, HN,
2002, Tr. 565-566.
404
Bức điện khẳng dịnh: “dư luận nói chung ủng hộ lập trường 4 điểm và
5 điểm của ta, lên án Mỹ xâm lược Việt Nam, đòi Mỹ ngừng ném bom miền
Bắc, rút quân khỏi miền Nam, công nhận Mặt trận. Gần đây, sau khi Mỹ leo
thang ném bom miền Bắc, nhất là đánh phá Hà Nội, từ chối yêu cầu của U
Than1, không chịu kéo dài ngừng ném bom trong mấy ngày lễ, thì dư luận lại
càng phân vân với Mỹ, lo ngại Mỹ leo thang và lên án mạnh việc Mỹ ném
bom miền Bắc”.
Bộ Chính trị nhận định “tình hình trước mắt rất thuận lợi cho ta bước
đầu vẫn dùng sách lược, chủ động đưa ra vấn đề: Mỹ chấm dứt ném bom vĩnh
viễn và không điều kiện thì Việt Nam Dân chủ cộng hoà và Mỹ có thể nói
chuyện. Mục đích của ta nhằm tranh thủ dư luận gây sức ép với Mỹ, làm cho
chúng lúng túng, bị động, đẩy mạnh phong trào đòi ngừng và chấm dứt ném
bom miền Bắc, làm cho chúng khó khăn, lừng chừng trong việc leo thang.
Tiến thêm một bước, ta đẩy mạnh đấu tranh trên dư luận, phối hợp với những
thắng lợi trên chiến trường miền Nam, thì đến một lúc nào đó ta có thể buộc
Mỹ phải ngừng ném bom trên thực tế để tiếp xúc với ta. Đại diện ta sẽ tiếp
Mỹ theo yêu cầu của chúng và sẽ nói cho Mỹ biết phía Mỹ phải ngừng ném
bom miền Bắc thì Việt Nam Dân chủ cộng hoà và Mỹ mới có thể nói chuyện
với nhau. Sau đó Bộ trưởng Ngoại giao ta sẽ trả lời phỏng vấn nói rõ ý chủ
yếu đó”. Bức điện nêu rõ: “Một mặt ta phải tiếp tục đấu tranh mạnh với địch,
chống thái độ ngoan cố của chúng. Mặt khác tuy dư luận thế giới rất hoan
nghênh ta, ta cần phải đấu tranh với khuynh hướng sai lầm ảo tưởng về đàm
phán hoà bình. Trong nội bộ, cần phải uốn nắn những nhận thức và tư tưởng
lệch lạc” 2.
Bộ Chính trị dự kiến:
“ a) Trước khi đưa ra vấn đề, ta đẩy mạnh tuyên truyền:
- Lên án Mỹ tăng cường chiến tranh xâm lược và tội ác của chúng ở hai
miền.
- Vạch trần những thủ đoạn hoà bình bịp bợm của chúng.
- Nêu rõ Mỹ rất lúng túng bị động, có nhiều mâu thuẫn, khó khăn,
1 Tổng thư ký Liên Hợp quốc.
2 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, H, 2003, t. 28, tr. 86.
405
chúng ngày càng bị cô lập.
- Đẩy mạnh thông điệp của Giôn xơn gửi Quốc hội Mỹ.
- Đề cao chính nghĩa quyết tâm, thắng lợi của ta.
b) Sau khi công bố trả lời phỏng vấn của Bộ trưởng Ngoại giao ta, cần
có kế hoạch tuyên truyền rộng rãi, các đại diện ta ở nước ngoài gặp chính phủ
sở tại để giải thích rõ lập trường và nêu thiện chí của ta.
c) Mặt trận cần tỏ thái độ; tỏ quyết tâm và yêu cầu của Mặt trận, đồng
thời nêu rõ sự đoàn kết nhất trí giữa hai miền, tán thành lời tuyên bố của Bộ
trưởng Ngoại giao ta dưới hình thức trả lời phỏng vấn.
d) Cần làm tốt công tác tư tưởng, giải thích sâu rộng trong nội bộ cán
bộ và nhân dân, đề phòng và khắc phục những nhận thức và tư tưởng lệch lạc,
cần nhấn mạnh vấn đề quyết định là đấu tranh chính trị và quân sự trên chiến
trường, địch rất ngoan cố, đây chỉ là bước tấn công ngoại giao làm cho địch
cô lập thêm một bước.
đ) Có kế hoạch đẩy mạnh đấu tranh chính trị, nhất là trong các đô thị phối
hợp với hoạt động ngoại giao của ta và đẩy mạnh công tác địch nguỵ vận”1.
Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành Trung ương Khoá III, từ ngày 23
đến ngày ngày 27-1-1967 đã ra Nghị quyết Về đẩy mạnh đấu tranh ngoại
giao, chủ động tiến công địch, phục vụ sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của
nhân dân ta. Sau khi phân tích tình hình giữa ta và địch trên chiến trường, Hội
nghị đã dự đoán những âm mưu, thủ đoạn của đế quốc Mỹ trong thời gian tới
và nhận định: “năm 1967-1968, đặc biệt là năm 1967, cuộc chiến đấu giữa ta
và địch sẽ diễn ra rất gay go, quyết liệt. Địch cố giành thắng lợi quân sự và
mong tạo cái thế vững vàng cho chúng để làm hậu thuẫn cho một giải pháp
chính trị đi đến kết thúc chiến tranh một cách có lợi cho chúng, đồng thời
chuẩn bị điều kiện để khi cần thì kéo dài chiến tranh”2. Trước tình hình đó,
“Chủ trương của Đảng ta là trên cơ sở nắm vững phương châm đánh lâu dài,
cần phải động viên và tập trung lực lượng của cả nước, cố gắng cao độ, đập
tan âm mưu của địch, giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối
ngắn; đồng thời tích cực chuẩn bị sẵn sàng đánh thắng địch trong trường hợp
1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, t. 28, Sđd, tr. 86-87.
2 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, H, 2003, t 28, tr 173.
406
chiến tranh kéo dài hoặc mở rộng ra cả nước”1. Đồng thời Hội nghị xác định:
“Đi đôi với đấu tranh quân sự và chính trị ở miền Nam, ta cần tiến công địch
về mặt ngoại giao, phối hợp với hai mặt đấu tranh đó để giành thắng lợi to lớn
hơn nữa”. Hội nghị đã vạch rõ vị trí của từng hình thức đấu tranh: “đấu tranh
quân sự và đấu tranh chính trị ở miền Nam là nhân tố chủ yếu quyết định
thắng lợi trên chiến trường, làm cơ sở cho thắng lợi trên mặt trận ngoại giao.
Chúng ta chỉ có thể giành được trên bàn hội nghị những cái mà chúng ta đã
giành được trên chiến trường. Tuy nhiên, đấu tranh ngoại giao không chỉ đơn
thuần phản ánh cuộc đấu tranh trên chiến trường, mà trong tình hình quốc tế
hiện nay với tính chất cuộc đấu tranh giữa ta và địch, đấu tranh ngoại giao giữ
một vai trò quan trọng, tích cực và chủ động”2.
Hội nghị khẳng định: “Chúng ta tiến công địch về ngoại giao bây giờ là
đúng lúc, vì ta đã và đang thắng địch, thế của ta là thế mạnh”. Hội nghị nêu
lên ba phương châm của đấu tranh ngoại giao cần phải nắm vững là: phát huy
thế mạnh, thế thắng của ta; chủ động tiến công địch; giữ vững tính độc lập,
đồng thời phối hợp chặt chẽ với các nước xã hội chủ nghĩa anh em.
Hội nghị đề ra mục đích cuộc tiến công ngoại giao của ta lúc này là
nhằm tố cáo mạnh hơn nữa những tội ác dã man của bọn xâm lược Mỹ, vạch
trần thủ đoạn “hoà bình” bịp bợm của chúng; đề cao lập trường 4 điểm của
Chính phủ ta và bản Tuyên ngôn 5 điều của Mặt trận dân tộc giải phóng; làm
sáng tỏ lập trường chính nghĩa và thế tất thắng của ta; tranh thủ sự đồng tình
ủng hộ và giúp đỡ mạnh mẽ hơn nữa của nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa
anh em, của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, của phong trào giải
phóng dân tộc, của nhân dân các nước tư bản chủ nghĩa, nhất là nhân dân Mỹ
và mọi lực lượng yêu chuộng hoà bình và công lý trên toàn thế giới, lập một
mặt trận của nhân dân thế giới chống đế quốc Mỹ xâm lược.
Phương châm đấu tranh ngoại giao của ta cũng được Hội nghị lần thứ
13 chỉ rõ: “Trên cơ sở kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ…cần vận dụng sách lược ngoại giao một cách linh hoạt,
khôn khéo, nhằm khoét sâu thêm mâu thuẫn giữa Mỹ và các nước đế quốc
1 Sđd, tr. 173-174
2 Sđd, tr. 174.
407
khác, phân hoá nội bộ bọn cầm quyền Mỹ, cô lập bọn hiếu chiến ngoan cố
nhất, làm tan rã tinh thần nguỵ quân, nguỵ quyền và làm hoang mang tinh
thần quân Mỹ, quân chư hầu, tạo thêm điều kiện thuận lợi cho đấu tranh quân
sự và đấu tranh chính trị của ta ở miền Nam ginàh thắng lợi lớn. Chúng ta cần
ra sức phấn đấu để tranh thủ hơn nữa dư luận thế giới ủng hộ những mục tiêu
phấn đấu của ta là bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, tiến tới thống nhất
Tổ quốc”1. Hội nghị chủ trương: “Trước mắt, chúng ta cần tập trung vào
khẩu hiệu đòi Mỹ phải chấm dứt không điều kiện, vĩnh viễn không ném bom
và mọi hành động khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà”.
Hội nghị nhấn mạnh: “Chúng ta không lúc nào được quên rằng thắng
lợi trên chiến trường là quyết định, cho nên trong bất cứ trường hợp nào, dù
đế quốc Mỹ ngừng ném bom hoặc không ngừng ném bom miền Bắc, chúng ta
cũng phải kiên quyết đẩy mạnh đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị ở
miền Nam và đẩy mạnh cuộc chiến đấu bảo vệ miền Bắc theo quyết tâm chiến
lược của ta theo Nghị quyết Hội nghị lần thứ 12 của Trung ương”2.
Hội nghị đã chỉ rõ những công việc cụ thể: Cần phải có sự phối hợp
chặt chẽ giữa miền Bắc và miền Nam, cần làm cho các nước xã hội chủ nghĩa
và các đảng anh em, trước hết là Liên Xô và Trung Quốc hiểu rõ quyết tâm
chiến lược, khả năng chiến thắng và việc vận dụng sách lược của ta, do đó
càng đồng tình và ủng hộ ba mặt đấu tranh quân sự, chính trị và ngoại giao
của ta, tích cực giúp đỡ ta về vật chất và phối hợp tốt với ta về đấu tranh
ngoại giao; cần tăng cường công tác tư tưởng trong nội bộ, làm cho toàn
Đảng, toàn quân và toàn dân ta tăng cường đoàn kết nhất trí, quyết tâm đẩy
mạnh sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến toàn thắng. Hội nghị
kêu gọi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân hãy tăng cường đoàn kết chặt chẽ,
tuyệt đối tin tưởng vào đường lối đúng đắn của Đảng, phấn khởi và anh dũng
tiến lên, kiên quyết làm tròn nhiệm vụ lịch sử đánh thắng giặc Mỹ xâm lược,
bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Dưới ánh sáng Nghị quyết Hội nghị lần thứ 13 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng, cuộc đấu tranh trên mặt trận ngoại giao của ta ngày càng
1 Sđd, tr. 175.
2 Sđd, tr. 176
408
mở rộng, phối hợp chặt chẽ và phục vụ tích cực cho cuộc đấu tranh chính trị
và quân sự, góp phần rất quan trọng vào thắng lợi của sự nghiệp chống Mỹ,
cứu nước.
Tiếp theo Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, ngày
28-1-1967, Bộ Ngoại giao ta ra tuyên bố, khẳng định lại lập trường trước sau
như một của nhân dân ta: kiên quyết chiến đấu để bảo vệ độc lập, tự do. Về
điều kiện cho việc đàm phán giữa Việt Nam Dân chủ cộng hoà và Mỹ, tuyên
bố của Bộ Ngoại giao ta nêu rõ phía Mỹ phải chấm dứt không điều kiện việc
ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ
cộng hoà. Chỉ sau khi Mỹ thực hiện điều này thì Việt Nam Dân chủ cộng hoà
và Mỹ mới có thể nói chuyện được. Mở ra hướng tiến công mới, kết hợp chặt
chẽ giữa đấu tranh ngoại giao với tiến công quân sự và đấu tranh chính trị.
Đảng và Nhà nước ta đã triển khai nhiều hoạt động ngoại giao, tranh
thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của các quốc gia, của nhân dân thế giới và nhân dân
Mỹ, đồng thời tiếp tục lên án tội ác chiến tranh của đế quốc Mỹ và vạch trần
bản chất giả dối lừa bịp của chính quyền Giônxơn được che đậy bằng luận
điệu “thương lượng hoà bình”.
Lời tuyên bố của Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh đã hé mở
khả năng đàm phán nếu Mỹ chấm dứt không điều kiện cuộc chiến tranh phá
hoại miền Bắc, nhưng chính quyền Giônxơn vẫn chủ trương leo thang chiến
tranh, “đàm phán trên thế mạnh” và đòi miền Bắc chấm dứt tăng viện cho
miền Nam. Trong thư trả lời Tổng thống Mỹ Giônxơn ngày 15 tháng 2 năm
1967, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kiên quyết bác bỏ những luận điểm trên của
Mỹ và khẳng định: “Chính phủ Mỹ đã gây ra chiến tranh xâm lược Việt Nam
thì con đường đưa đến hoà bình ở Việt Nam là Mỹ phải chấm dứt xâm lược.
Chính phủ Mỹ phải chấm dứt vĩnh viễn và không điều kiện việc ném bom và
mọi hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà;
phải rút hết quân Mỹ và quân chư hầu ra khỏi miền Nam Việt Nam…nhân
dân Việt Nam quyết không khuất phục trước vũ lực và quyết không nói chuyện
trước sự đe doạ của bom đạn” 1. Qua nhiều cuộc tiếp xúc với giới ngoại giao
Mỹ và những nhân vật trung gian, các nhà lãnh đạo và cán bộ ngoại giao nước
1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, H, 2003, t 27, tr 182.
409
ta đã tiến công đế quốc Mỹ và tranh thủ sự ủng hộ của dư luận thế giới.
Hoạt động ngoại giao của Nhà nước ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh góp
phần quan trọng xây dựng mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam và lên án đế quốc Mỹ xâm
lược. Năm 1967 đã dấy lên nhiều hình thức hoạt động tích cực và sáng tạo
của nhiều chính phủ và phong trào chống đế quốc Mỹ xâm lược, ủng hộ cuộc
đấu tranh của nhân dân ta, trong số đó có toà án quốc tế xét xử tội ác chiến
tranh của đế quốc Mỹ ở Việt Nam do Béctơrăng Rútxen, nhà khoa học và nhà
hoạt động xã hội nổi tiếng người Anh lập ra.
Hơn 2 năm tăng cường đánh phá miền Bắc và tiến hành các hoạt động
ngoại giao thăm dò, đế quốc Mỹ không đạt được các mục tiêu đề ra, chúng
phải cay đắng thú nhận: “Chưa có một dấu hiệu nào chứng tỏ việc ném bom
làm giảm ý chí đề kháng của Hà Nội hoặc khả năng tiếp viện cho miền Nam
những thứ hàng cần thiết. Hà Nội không tỏ ra một dấu hiệu nào muốn chấm
dứt cuộc chiến tranh quy mô và khuyên Việt cộng rút vào rừng…Người Bắc
Việt tin rằng họ đúng…họ tin thế giới ủng hộ họ” 1. Để lừa bịp dư luận, chính
quyền Giônxơn rêu rao “miền Bắc xâm lược miền Nam” và mở cuộc vận
động “ngoại giao hoà bình”, đòi “miền Bắc đình chỉ thâm nhập người và dụng
cụ chiến tranh vào miền Nam, rút quân khỏi miền Nam” và ““đàm phán
không điều kiện với Mỹ”
Tháng 12-1967, Bộ Chính trị họp, ra Nghị quyết về tổng công kích và
tổng khởi nghĩa, để chỉ đạo toàn bộ công tác chuẩn bị và thực hành tổng công
kích, tổng khởi nghĩa, Bộ Chính trị đề ra nhiệm vụ cụ thể cho toàn Đảng, toàn
quân, toàn dân ta ở cả hai miền Nam, Bắc. Theo đó trên mặt trận ngoại giao,
Bộ Chính trị chỉ rõ, cần có phương pháp và hình thức thích hợp để tiến công
địch trong lúc chúng đang lúng túng, bị động, “phải mở đường cho địch đi
vào thương lượng theo hướng có lợi nhất cho ta”.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân miền Nam trong Tết
Mậu Thân năm 1968 cùng với thắng lợi của miền Bắc đánh bại chiến tranh
phá hoại đã làm lung lay ý chí xâm lược của Mỹ. Đêm 31-3-1968, phát biểu ý
kiến trên đài truyền hình Mỹ, Tổng thống Giônxơn thừa nhận thảm bại trong
1 Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ, t. 2, tr 233.
410
Tết Mậu Thân và thông báo, đã ra lệnh chấm dứt mọi cuộc tiến công bằng
máy bay và tàu chiến chống miền Bắc Việt Nam, trừ khu vực phía bắc khu
phi quân sự. Ông ta còn cam kết “sẵn sàng đi bước đầu tiên trên con đường
xuống thang” và không ra tranh cử tổng thống thêm một nhiệm kỳ nữa.
Trong tình thế đã thay đổi có lợi cho ta, bằng một đòn tiến công ngoại
giao mới, ta chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán với Mỹ.
Ngày 3-4-1968, Chính phủ ta ra tuyên bố vạch rõ: Chính phủ Mỹ chưa
đáp ứng nghiêm chỉnh và đầy đủ đòi hỏi chính đáng của Chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà, của dư luận tiến bộ Mỹ và dư luận thế giới. Về phía
mình, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tuyên bố sẵn sàng cử đại diện
của mình tiếp xúc với đại diện Mỹ nhằm xác định với phía Mỹ việc Mỹ chấm
dứt không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và có thể bắt đầu cuộc nói chuyện. Bản
tuyên bố trên là đòn tấn công rất kịp thời của Đảng và Nhà nước ta mà đế
quốc Mỹ không thể dự liệu trước và đành phải chấp nhận đàm phán với Chính
phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Với tuyên bố ngày 3-4-1968, ta mở ra cục
diện vừa đánh vừa đàm, được thế giới đồng tình và hoan nghênh, tiếp đó sau
một tháng tranh chấp về địa điểm dự họp.
Ngày 8-4-1968, Bộ Chính trị điện gửi Trung ương Cục miền Nam về
đẩy mạnh hoạt động ngoại giao phục vụ chiến trường, giành thắng lợi lớn. Bộ
Chính trị nêu rõ: thắng lợi đầu Xuân Mậu Thân của ta ở miền Nam đã tạo ra
một cục diện mới, đẩy địch vào thế phòng ngự bị động, khoét sâu những mâu
thuẫn trong nội bộ Mỹ, nội bộ giữa Mỹ và nguỵ. Đặc biệt đưa nội bộ nước
Mỹ bước vào thời kỳ khủng hoảng trong năm bầu cử tổng thống.
Trong bối cảnh Mỹ – nguỵ bị thất thế ở cả trong nước và trên trường
quốc tế, Bộ Chính trị đã có chủ trương tăng cường hoạt động ngoại giao, liên
tục tiến công địch về chính trị nhằm phục vụ cho chiến trường đánh mạnh,
giành thắng lợi to lớn.
Mục tiêu của hoạt động đấu tranh ngoại giao nhằm:
Tranh thủ dư luận thế giới ủng hộ ta đánh mạnh, ủng hộ thiện chí của
ta, đồng thời cô lập địch cao độ.
Phân hoá thêm nội bộ Mỹ, nhất là trong năm tổng tuyển cử làm cho
411
chúng gặp nhiều khó khăn, thất bại.
Tích cực đấu tranh làm tan rã nguỵ quân, nguỵ quyền tay sai.
Tạo điều kiện thuận lợi cho các bước đấu tranh ngoại giao tiếp theo.
Cần tỏ thái độ thiện chí của ta trước dư luận thế giới để đẩy mạnh hơn
nữa phong trào nhân dân thế giới chống chiến tranh xâm lược Việt Nam,
trước hết là đòi Mỹ phải chấm dứt không điều kiện việc ném bom và mọi hoạt
động chiến tranh khác trên toàn bộ lãnh thổ nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà.
Mọi hoạt động đấu tranh ngoại giao đều phải nhằm phục vụ yêu cầu
của chiến trường làm cho địch thêm khó khăn, nội bộ chúng mâu thuẫn, mơ
hồ gây tác động lớn tới tinh thần binh lính địch, nhất là binh lính sĩ quan.
Bộ Chính trị cũng dự kiến hoạt động đấu tranh ngoại giao gồm 2 bước:
a. Bước tiếp xúc cấp đại sứ giữa đại diện ta và đại diện Mỹ.
b. Bước nói chuyện chính thức cấp Bộ giữa hai bên.
Bộ Chính trị nhận định: “Quá trình đấu tranh ngoại giao trong giai đoạn
này chắc chắn sẽ gay go, phức tạp, cần có phương án đấu tranh trong và ngoài
cuộc gặp gỡ và trong trường hợp nào địch cũng sẽ ép buộc, đòi ta xuống
thang ở miền Nam và mau tiến đến Hội nghị để giải quyết vấn đề miền Nam
một cách trọn gói”. Do đó, quá trình đấu tranh ngoại giao giữa miền Bắc và
Mỹ phụ thuộc và gắn chặt với yêu cầu của chiến trường, ta cần tính bước đi
cho sát, phối hợp nhịp nhàng với đấu tranh trên chiến trường.
Bộ Chính trị cũng chủ trương cần đẩy mạnh hoạt động quốc tế của cách
mạng miền Nam và đã đến lúc miền Nam phải chủ động tiến công địch về
ngoại giao. Vì vậy, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam cần
chuẩn bị thật sẵn sàng về giải pháp chính trị cho vấn đề miền Nam, khi cần thì
công bố trong nước và thế giới.
Ngày 3-5-1968, Bộ Ngoại giao ta ra tuyên bố về vấn đề cấp bậc đại
biểu, địa điểm, thời gian của cuộc đàm phán chính thức giữa Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà và Mỹ.
Phái đoàn đàm phán của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà do đồng chí
Xuân Thuỷ, Bí thư Trung ương Đảng, Bộ trưởng Phủ Chủ tịch làm trưởng
412
đoàn. Đồng chí Lê Đức Thọ, Uỷ viên Bộ Chính trị làm cố vấn đặc biệt trong
cuộc đấu tranh ngoại giao trực diện với phía Mỹ.
Phái đoàn Mỹ do Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Hariman, người đã từng
tham dự nhiều hội nghị quan trọng của đồng minh trong Chiến tranh thế giới
thứ hai tại Têhêran và Yanta, làm trưởng đoàn. Venxơ, Thứ trưởng Bộ Quốc
phòng Mỹ, làm phó đoàn.
Qua gần một tháng đấu tranh về địa điểm, cuộc nói chuyện tay đôi giữa
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Mỹ được mở ra ở Pari từ ngày 13-5-1968.
Ngày 13-5-1968, Tổng thống Mỹ Giônxơn buộc phải chấp nhận đàm
phán với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại Pari, tạo ra bước ngoặt
quyết định cho cuộc kháng chiến chống Mỹ. Từ đây, mặt trận ngoại giao đã
hình thành trên thực tế, mở ra cục diện “vừa đánh, vừa đàm”, kết hợp có hiệu
quả đấu tranh quân sự - chính trị - ngoại giao để giành thắng lợi. Tuy phải đàm
phán với Chính phủ ta trong thế suy yếu, nhưng trên bàn Hội nghị, Chính phủ
Mỹ cố tình dây dưa, kéo dài thời gian, trong khi trên chiến trường chúng ráo
riết thực hiện “phòng ngự bề sâu”, lập các tuyến phòng thủ xung quanh các
thành phố, thị xã, căn cứ quân sự, mở các cuộc hành quân càn quét xung quanh
Sài Gòn và các tỉnh nhằm làm ta suy yếu để ép ta phải nhượng bộ.
Để có thể thực hiện chủ trương chống Mỹ trên mặt trận ngoại giao với
điểm trung tâm là Hội nghị Pari, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta đã triển
khai nhiều hoạt động đối ngoại nhằm giải quyết nhiều mối quan hệ quốc tế
khác phức tạp đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân
Việt Nam. Bằng cách giải thích và thuyết phục, Đảng và Chính phủ ta đã
tranh thủ tới mức cao nhất sự đồng tình, ủng hộ của bạn bè quốc tế đối với
cuộc đấu tranh ngoại giao của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước
Ngày 14-5-1968, Bộ Chính trị chỉ thị: “Mục đích đấu tranh của ta giai
đoạn này là tố cáo, lên án địch một cách mạnh mẽ, dẫn chúng đến chỗ cụt lý,
phải gục trước lý lẽ đanh thép của ta…”
Ngày 20-7-1968, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi đồng bào chiến
sĩ cả nước. Người khẳng định: “Ngày nào đế quốc Mỹ chấm dứt chiến tranh
xâm lược nước ta, chấm dứt ném bom, bắn phá miền Bắc, rút hết quân Mỹ và
413
chư hầu ra khỏi miền Nam Việt Nam để dân ta tự do giải quyết công việc nội
bộ của mình, thì ngày đó hoà bình sẽ lập lại ngay. Đó là nguyện vọng của
nhân dân ta, mà cũng là nguyện vọng của nhân dân tiến bộ Mỹ và nhân dân
yêu chuộng hoà bình và công lý trên thế giới. Cách duy nhất để lập lại hoà
bình là quân Mỹ và quân chư hầu phải rút hết về nước! Nước Việt Nam của
người Việt Nam!” 1.
Ngày 17-8-1968, Bộ Ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã công
bố bị vong lục nhân dịp 14 năm Hội nghị Giơnevơ về Việt Nam (1954-1968),
nhắc lại cam kết của đại diện Mỹ trong phiên bế mạc hội nghị đó và hành
động thực tế của Mỹ ở Việt Nam trong 14 năm qua.
- Ngày 10-10-1968, Điện của Bộ Chính trị gửi Trung ương Cục miền
Nam chủ trương tiếp tục kéo Mỹ xuống thang và lập trường đấu tranh ngoại
giao của ta.
Từ 13-5-1968, cuộc đàm phán giữa Việt Nam Dân chủ cộng hoà và Mỹ
bắt đầu tại Pari và gần 6 tháng sau đi đến thoả thuận về việc Mỹ chấm dứt
mọi hành động chiến tranh chống nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà từ ngày
31-10-1968, đồng thời thoả thuận về việc triệu tập tại Pari một hội nghị để
bàn việc chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam gồm các bên: Việt
Nam Dân chủ cộng hoà, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam, Mỹ và chính
quyền Sài Gòn.
Ngày 25-1-1969, Hội nghị Pari về Việt Nam họp phiên đầu tiên, mở ra
giai đoạn “vừa đánh vừa đàm” đúng như dự kiến của Hội nghị lần thứ 12 và
13 của Trung ương Đảng: “đến một thời gian nào đó, ta có thể áp dụng sách
lược vừa đánh vừa đàm để hỗ trợ cho đấu tranh quân sự…”.
Thực hiện chủ trương chống Mỹ trên mặt trận ngoại giao với trung tâm
điểm là Hội nghị Pari, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã triển khai nhiều
hoạt động đối ngoại nhằm giải quyết nhiều mối quan hệ quốc tế phức tạp đối
với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta.
Trong gần 6 tháng của giai đoạn một, Hội nghị Pari, cuộc đấu tranh
ngoại giao của ta diễn ra 27 phiên họp chính thức, 21 cuộc gặp riêng, bí mật
1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 2002, t.12, tr 371.
414
kèm theo nhiều hoạt động ngoại giao bên ngoài hội nghị như họp báo và các
cuộc gặp gỡ giữa phái đoàn ta với các đoàn thể nhân dân, tổ chức chính trị, xã
hội, văn hoá Pháp, Mỹ và nhiều nước khác.
Trong quá trình đấu tranh, phái đoàn ta luôn luôn nêu cao tính chất
chính nghĩa của cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta, lên án tội ác chiến
tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trên hai miền Nam, Bắc Việt Nam và hành
động của Mỹ phá hoại Hiệp định Giơnevơ; đòi đế quốc Mỹ phải rút quân Mỹ
và quân chư hầu về nước, phải chấm dứt hoàn toàn và không điều kiện việc
ném bom miền Bắc Việt Nam, phải từ bỏ nguỵ quyền Sài Gòn, phải đáp ứng
lập trường 4 điểm của Việt Nam Dân chủ cộng hoà và lập trường 5 điểm của
Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Phái đoàn ta kiên quyết bác
bỏ những yêu sách vô lý của đế quốc Mỹ đòi Việt Nam Dân chủ cộng hoà
phải chấp nhận những điều kiện của chúng đưa ra khi chúng ngừng ném bom
miền Bắc, đòi Việt Nam Dân chủ cộng hoà và Mỹ cùng rút quân khỏi miền
Nam Việt Nam.
Trước những quan điểm đúng đắn, thái độ kiên quyết của phái đoàn ta,
trước chiều hướng phát triển chung của chiến trường và tình hình nội bộ nước
Mỹ trước ngày bầu cử tổng thống, đế quốc Mỹ phải từng bước thay đổi yêu
cầu từ đòi “có đi có lại” đến “cho biết điều gì sẽ xảy ra sau khi chấm dứt ném
bom miền Bắc Việt Nam” . Đến giữa tháng 10-1968, đế quốc Mỹ ngừng yêu
sách về quân sự như cùng xuống thang, cùng rút quân khỏi miền Nam Việt
Nam và yêu cầu phía ta chấp nhận đại diện chính quyền Sài Gòn tham gia
đàm phán, coi đó là yếu tố quan trọng thuận lợi cho việc Mỹ tạm ngừng ném
bom miền Bắc Việt Nam.
Để thúc đẩy cuộc đàm phán phát triển theo hướng đạt tới mục tiêu mà
Đảng và Nhà nước ta đã xác định, những ngày cuối tháng 10, phái đoàn ta
chính thức thông báo cho phía Mỹ biết ta đồng ý cho đại diện chính quyền Sài
Gòn tham gia đàm phán sau khi Mỹ chấm dứt hoàn toàn việc ném bom miền
Bắc, đòi Mỹ và chính quyền Sài Gòn phải đàm phán với Mặt trận dân tộc giải
phóng miền Nam Việt Nam, tán thành trung lập miền Nam và thành lập
Chính phủ liên hiệp.
Sau bốn năm tiến hành chiến tranh đẫm máu ở miền Nam, Bắc và sau
415
năm tháng Hội nghị Pari bế tắc, ngày 1-11-1968, Giônxơn xuất hiện trên vô
tuyến truyền hình liên bang, tuyên bố chấm dứt hoàn toàn việc ném bom,
bắn phá và mọi hành động chiến tranh khác chống Việt Nam Dân chủ cộng
hoà, chấp nhận họp Hội nghị Pari để giải quyết vấn đề chiến tranh Việt
Nam, thừa nhận đại diện chính thức của Mặt trận dân tộc giải phóng miền
Nam Việt Nam trong hội nghị. Quyết định đó chứng tỏ sự thất bại không
sao cưỡng lại được của đế quốc Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt
Nam, “đánh dấu một thắng lợi to lớn của nhân dân Việt Nam ở cả hai
miền. Đó cũng là thắng lợi to lớn củat phe xã hội chủ nghĩa, của phong
trào giải phóng dân tộc và phong trào hoà bình, một thắng lợi của nhân
dân toàn thế giới trong đó có nhân dân tiến bộ Mỹ” 1.
Ngày 3-11-1968, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi cả nước tiến
lên đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Lời kêu gọi có đoạn: “Đế quốc Mỹ tưởng
lầm với sức tàn phá dã man của bom đạn, chúng có thể làm suy yếu miền Bắc,
ngăn chặn sự ủng hộ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn và làm giảm
sút sức chiến đấu của miền Nam”. Người nhấn mạnh: “Sự thật là, càng chiến
đấu chống giặc Mỹ, miền Bắc càng vững mạnh về mọi mặt và luôn luôn hết
lòng hết sức ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng của đồng bào miền Nam anh
hùng. Càng chiến đấu chống giặc Mỹ, đồng bào miền Nam càng đoàn kết chặt
chẽ, sức càng mạnh, thắng càng to” 2. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở:
“Chúng ta đã đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền
Bắc. Song đó mới chỉ là thắng lợi bước đầu. Đế quốc Mỹ rất ngoan cố và xảo
quyệt… Chúng nói “hoà bình”, “thương lượng” nhưng vẫn chưa chịu từ bỏ dã
tâm xâm lược của chúng”…Vì vậy, nhiệm vụ thiêng liêng của toàn dân ta lúc
này là phải năng cao tinh thần quyết chiến quyết thắng, quyết tâm giải phóng
miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc. Hễ còn
một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu, quét sạch
nó đi…Chúng ta tin rằng: sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta
ngày càng được sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ to lớn của nhân dân các nước
anh em và nhân dân toàn thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ Mỹ”. Lời kêu gọi
của Người còn khẳng định:
1 Tuyên bố ngày 2-11-1968 của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà.
2 Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.10, Nxb CTQG, H, 2002, tr. 406.
416
“Chúng ta kiên quyết đòi:
Chính phủ Mỹ phải chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam. Phải
vĩnh viễn từ bỏ mọi hành động xâm phạm chủ quyền và an ninh của nước
Việt Nam Dân chủ cộng hoà.
Phải rút hết quân Mỹ và quân chư hầu ra khỏi miền Nam Việt Nam.
Công việc nội bộ của miền Nam phải do nhân dân miền Nam tự giải
quyết theo Cương lĩnh chính trị của Mặt trận dân tôc giải phóng, nước ngoài
không được can thiệp vào.
Công việc thống nhất nước Việt Nam phải do nhân dân hai miền Nam,
Bắc tự giải quyết, nước ngoài không được can thiệp vào.
Đồng bào và chiến sĩ yêu quý, trước mắt chúng ta còn nhiều gian khổ
hy sinh, nhưng sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của nhân dân ta đang
tiến mạnh đến ngày thắng lợi. Tổ quốc đang kêu gọi chúng ta hăng hái tiến
lên đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược!” 1.
Chủ trương của Đảng tại Hội nghị bốn bên ở Pari: ép Hoa Kỳ xuống
thang chiến tranh, rút dần quân khỏi miền Nam Việt Nam.
Ngày 3-11-1968, đại diện Mỹ gặp đại diện Việt Nam Dân chủ cộng hoà
đề nghị bắt đầu cuộc họp trù bị từ ngày 6-11-1968. Từ ngày 2-11-1968, một
đoàn tiền trạm của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam do bà
Nguyễn Thị Bình, Uỷ viên Đoàn chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Dân
tộc giải phóng miền Nam Việt Nam làm trưởng đoàn, đến Pari. Trong khi đó
chính quyền Sài Gòn chần chừ và ngày 2-11-1968, Nguyễn Văn Thiệu tuyên
bố không cử người đi dự Hội nghị Pari vì quyết định chấm dứt ném bom miền
Bắc Việt Nam là hành động đơn phương của Mỹ. Tuy vậy, dưới sức ép của
dư luận, ngày 8-12, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu vẫn phải cử một phái
đoàn do Phạm Đăng Lâm- đại sứ Việt Nam Cộng hoà tại Pari dẫn đầu và
Nguyễn Cao Kỳ, Phó Tổng thống làm cố vấn đến Pari.
Ngày 10-12-1968, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam
quyết định cử đoàn đại biểu chính thức của Mặt trận do ông Trần Bửu Kiếm,
Uỷ viên đoàn chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận làm trưởng đoàn, bà
1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.10, Sđd, tr. 407- 408
417
Nguyễn Thị Bình và ông Trần Hoài Nam làm phó trưởng đoàn sang tham dự
Hội nghị Pari.
Tiến trình đến đây tưởng đã ổn, nhưng lại nảy sinh vấn đề về hình dáng
bàn họp và chỗ ngồi của các đoàn. Về vấn đề tên gọi hội nghị là bốn bên hay
hai phía, hai bên đã thoả thuận mỗi bên gọi theo cách của mình. Về bàn họp,
hai bên đưa ra hàng chục cách xếp, trước sau vẫn là theo hai phíá hay bốn
đoàn. Chỉ có thế thôi mà vấn đề kéo dài suốt 2 tháng cuối năm 1968 mặc dầu
nhà đương cục Pháp và đại diện Liên Xô phải can thiệp để quan điểm của các
bên xích lại gần nhau.
Cuối cùng, các đoàn nhận kiểu bàn tròn liền, không có giải phân cách,
hai bàn thư ký tách khỏi bàn họp: không có cờ, không có biển. Về thứ tự phát
biểu, Đoàn Việt Nam Dân chủ cộng hoà chủ động nhường cho Hoa Kỳ phát
biểu trước nhưng nói thêm rằng điều đó không có nghĩa là chấp nhận quan
điểm hai phía.
Về ngày họp, hai bên đã đồng ý bắt đầu ngày 18-1-1969, nhưng đoàn
chính thức của Sài Gòn đến chậm.. Đây là thủ đoạn của Nguyễn Văn Thiệu cố
tình kéo dài việc cử đoàn chính thức đến Pari để Giônxơn rời Nhà Trắng mà
vẫn không được biết hội nghị khai mạc.
Ngày 14-1, trong lúc chưa bàn xong vấn đề bàn họp, theo gợi ý của
phía Mỹ, Lê Đức Thọ và Xuân Thuỷ gặp Harriman. Harriman thông báo
trưởng đoàn Mỹ là Cabot Lodge – người bạn cũ của Tổng thống Nixon; ông
Walsh – một luật gia có tên tuổi làm phó trưởng đoàn. Harriman nêu ý kiến
thăm dò, ông ta cho rằng làm sao xuống thang chiến sự, tôn trọng khu phi
quân sự, cùng rút quân khỏi miền Nam Việt Nam; về chính trị, người Việt
Nam phải ngồi nói chuyện với nhau để tìm ra giải pháp.
Đồng chí Lê Đức Thọ cho rằng khó khăn là do tập đoàn Thiệu-Kỳ-
Hương không muốn giải quyết vấn đề, do đó ngồi vào với nhau cũng khó giải
quyết. Việc cử Nguyễn Cao Kỳ làm cố vấn cho đoàn Sài Gòn là điều không
hay. Tình hình có thể phát triển theo ba khả năng:
Khả năng thứ nhất là đoàn Việt Nam Dân chủ cộng hoà và đoàn Mặt
trận dân tộc giải phóng miền Nam nghiêm chỉnh và có thiện chí, chính quyền
mới ở Mỹ và đoàn đại biểu mới của Mỹ ở Pari cũng nghiêm chỉnh và có thiện
418
chí thì có thể tiến lên giải quyết vấn đề.
Khả năng thứ hai là Mỹ dùng thế mạnh để ép Việt Nam Dân chủ cộng
hoà và Mặt trận dân tộc giải phóng và không coi trọng các quyền dân tộc cơ
bản của nhân dân Việt Nam thì khó có thể giải quyết vấn đề, cuộc đàm phán
sẽ kéo dài.
Khả năng thứ ba là Mỹ không muốn giải quyết mà muốn tiếp tục đánh
thì Việt Nam cũng sẵn sàng chiến đấu.
Harriman nói có thể gạt khả năng thứ ba, còn Nixon và Cabot Lodge sẽ
nhìn vấn đề theo khả năng thứ nhất và thứ hai.
Lúc 10 giờ 30, ngày 25-1-1969, Hội nghị đàm phán bốn bên về vấn đề
Việt Nam long trọng khai mạc.
Trong phiên họp đầu tiên, Trần Bửu Kiếm- Trưởng đoàn đại biểu Mặt
trận Dân tộc giải phóng miền Nam phát biểu đầu tiên, vạch rõ nguồn gốc của
tình hình miền Nam Việt Nam, lên án Mỹ xâm lược, vạch tội chhính quyền
Sài Gòn, nêu cao chính nghĩa của Mặt trận và khẳng định lại các nội dung nêu
trong Tuyên bố năm điểm của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt
Nam ngày 3- 11 -1968.
Suốt mấy tháng, hội nghị không tiến triển. Để phá vỡ bế tắc và mở cuộc
tấn công mới, trong phiên họp ngày 8-5-1969, Trần Bửu Kiếm đưa ra một đề
nghị hoà bình, gọi là Giải pháp toàn bộ mười điểm về vấn đề miền Nam Việt
Nam:
1. Tôn trọng các quyền dân tộc của nhân dân Việt Nam .
2. Rút hết quân Mỹ, nhân viên quân sự, vũ khí và dụng cụ chiến tranh
của Hoa Kỳ và các nước phe Mỹ, huỷ bỏ các căn cứ quân sự của Hoa Kỳ ở
miền Nam Việt Nam.
3. Vấn đề các lực lượng vũ trang ở miền Nam Việt Nam do các bên
Việt Nam cùng giải quyết.
4. Nhân dân miền Nam Việt Nam giải quyết công việc nội bộ của mình
không, không có sự can thiệp của nước ngoài, bầu ra quốc hội lập hiến, xây
dựng hiến pháp, thành lập chính phủ liên hiệp.
5. Thành lập chính phủ liên hiệp lâm thời trên nguyên tắc bình đẳng,
419
dân chủ và tôn trọng lẫn nhau nhằm thực hiện một miền Nam Việt Nam hoà
bình, độc lập, dân chủ, trung lập.
6. Miền Nam Việt Nam thực hiện chính sách ngoại giao hoà bình,
trung lập, thực hiện chính sách láng giềng tốt với Campuchia và Lào, lập quan
hệ với tất cả các nước.
7. Thực hiện từng bước thống nhất nước Việt Nam bằng phương pháp
hoà bình trên cơ sở bàn bạc giữa hai miền; trong khi chờ đợi thực hiện hoà
bình thống nhất nước Việt Nam, lập lại quan hệ bình thường về mọi mặt giữa
hai miền.
8. Hai miền Nam - Bắc, trong khi chờ thống nhất, cam kết không tham
gia liên minh quân sự nào, kông cho phép nước ngoài có căn cứ quân sự, quân
đội và nhân viên quân sự trên đất mình.
9. Giải quyết những hậu quả của chiến tranh: vấn đề tù binh, vấn đề
thiệt hại về chiến tranh ở Việt Nam.
10. Thoả thuận về sự giám sát quốc tế đối với việc rút vũ khí và dụng
cụ chiến tranh.
Trên cơ sở những nguyên tắc và nội dung trên đây, các bên sẽ đi đến ký
kết các hiệp định để chấm dứt chiến tranh ở miền Nam Việt Nam, góp phần
lập lại hoà bình ở Việt Nam1.
*
* *
Thắng lợi của nhân dân ta làm phá sản chiến lược “Chiến tranh cục bộ”
của đế quốc Mỹ, có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Đại hội lần thứ IV của Đảng nhận định, thắng lợi này đã làm “đảo lộn
thế chiến lược của địch, làm phá sản chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, làm
lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải xuống thang chiến
tranh và ngồi vào đàm phán với ta tại Hội nghị Pari”2.
Thực tế lịch sử ghi nhận, kể từ thất bại Mậu Thân (1968), Mỹ buộc phải
1 . Hồ sơ lưu trữ của Bộ Ngoại giao.
2 . Đảng Cộng sản Việt Nam: Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ IV: Sách đã dẫn, tr. 17-18
420
chấp nhận xu thế không thể đảo ngược: rút quân Mỹ về nước. Dù Nichxơn và
Pho có tìm mưu kiếm kế kéo dài chiến tranh thêm bảy năm nữa (1969-1975)
mới chịu thua hoàn toàn, nhưng nếu không có thắng lợi của những năm 1965-
1968 thì không thể có thắng lợi của thời kỳ sau buộc Nichxơn phải ký kết
hiệp định rút hết quân Mỹ về nước, cam kết chấm dứt mọi dính líu quân sự,
tạo tiền đề cho việc giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Làm nên thắng lợi đó, nhân dân ta phải trải qua bốn năm thử thách ác
liệt, hy sinh không nhỏ, cố gắng phi thường, vượt lên mọi khó khăn.
Đáp ứng nhu cầu lịch sử nóng bỏng của đất nước, Đảng ta đã trả lời
được câu hỏi “có đánh thắng được quân Mỹ không?”. Thực tế đã chứng minh,
chúng ta nhất định đánh thắng được quân đội xâm lược Mỹ và đã tìm ra cách
thắng chúng.
1. Quyết tâm đánh thắng đế quốc Mỹ của Đảng đã biến thành quyết tâm
của nhân dân cả nước, đã trở thành hiện thực lịch sử, dựa trên cơ sở biết phát
hiện và phân tích mâu thuẫn của Mỹ. Chỗ mạnh của Mỹ là lực lượng chiến
tranh khổng lồ hơn 600.000 quân Mỹ và chư hầu cộng với hơn 1.000.000
quân nguỵ, với cơ sở vật chất và phương tiện chiến tranh chưa từng có trong
lịch sử chiến tranh xâm lược của Mỹ. Chỗ mạnh ấy gây ra nhiều khó khăn cho
nhân dân ta, làm cho cuộc kháng chiến thêm gian khổ và kéo dài. Nhưng do
tiến hành một cuộc chiến tranh phi nghĩa, Mỹ đã vấp phải nhiều mâu thuẫn,
làm cho chúng không phát huy được sức mạnh. Trước hết, đó là mâu thuẫn
giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với bọn xâm lược và bè lũ tay sai; mâu thuẫn
giữa mong muốn tập trung binh lực để đối phó với chủ lực đối phương và
thực tế phải phân tán binh lực để đối phó với chiến tranh nhân dân; mâu thuẫn
giữa việc Mỹ dựa vào quân đội nguỵ và muốn nó trở thành một lực lượng tác
chiến quan trọng với thực trạng nó đang rệu rã vì thất trận trong “chiến tranh
đặc biệt”; mâu thuẫn giữa chiến lược thực dân mới với việc phải dùng lại con
bài thực dân cũ là quân đội viễn chinh Mỹ; mâu thuẫn giữa chiến lược, chiến
thuật và toàn bộ bài bản chiến tranh quy ước của Mỹ với thực tế chiến trường
Việt Nam; mâu thuẫn giữa Mỹ và chính quyền nguỵ; mâu thuẫn giữa tiến
hành chiến tranh giành quyền bá chủ thế giới và chính sách mị dân “vừa bơ
vừa súng” của chính quyền Giôxơn; mâu thuẫn giữa ý đồ lợi dụng bất đồng
421
Xô-Trung, hòng gây sức ép và cô lập Việt Nam với Mặt trận thống nhất quốc
tế ủng hộ Việt Nam ngày càng mở rộng. Muốn lợi dụng triệt để những mâu
thuẫn ấy, Đảng lãnh đạo phải bám sát thực tiễn, phát hiện kịp thời các mâu
thuẫn, tìm ra quy luật chiến tranh, quy luật đánh Mỹ và thắng Mỹ, từ đó mới
có đường lối, chủ trương đúng đắn, tổ chức thực hiện sắc bén, tạo ra lực
lượng mạnh và có quyết tâm cao.
2. Cách đánh Mỹ và thắng Mỹ của ta là sự phát triển lên trình độ cao
những kinh nghiệm của chiến tranh nhân dân chống Pháp cùng những kinh
nghiệm mới của những năm đầu đánh Mỹ. Đó là kinh nghiệm bố trí thế trận
chủ động tiến công, ba thứ quân phát triển đều khắp, triển khai hợp lý trên
các chiến trường, kể cả nơi xung yếu; không cho địch đánh theo sở trường
của chúng, buộc địch đánh theo cách ta lựa chọn, bí mật, bất ngờ đánh vào
chỗ yếu, chỗ hiểm của địch; đánh giao thông, đánh ở các vành đai diệt Mỹ,
đánh hậu cần, lực lượng dự trữ và sở chỉ huy ; lấy cái mạnh tổng hợp của
chiến tranh nhân dân phối hợp quân sự, chính trị, binh vận, ngoại giao... làm
cho quân Mỹ - nguỵ đông mà không mạnh, mạnh mà thành yếu, bị những đòn
tiến công liên tiếp đi đến phải lui quân.
Cuộc đấu tranh ngoại giao với Mỹ được mở ra theo Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 13 của Trung ương Đảng là một đòn tiến công lợi hại, hỗ trợ cho
đấu tranh quân sự, chính trị, binh vận, mở đường cho Mỹ xuống thang chiến
tranh, tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân thế giới và loài người
tiến bộ.
3. Chiến đấu chống tên đế quốc đầu sỏ của chủ nghĩa đế quốc thế giới,
quy luật tất yếu là phải chiến đấu lâu dài gian khổ. Nhưng để đi đến thắng lợi
cuối cùng, phải biết tạo ra thắng lợi từng bước, phù hợp với lực lượng so sánh
cụ thể cho phép, chuẩn bị điều kiện cho bước phát triển tiếp theo.
Kinh nghiệm lớn của thời kỳ 1965-1968 chỉ rõ, kiềm chế địch và buộc
địch phải xuống thang chiến tranh, chấm dứt ném bom miền Bắc, chịu “phi
Mỹ hoá chiến tranh”, là mục tiêu thích hợp với lực lượng so sánh ta - địch.
Mục tiêu giải phóng hoàn toàn miền Nam hoặc đại bộ phận miền Nam chưa
có khả năng hiện thực lúc ấy.
Buộc địch xuống thang chiến tranh là kinh nghiệm lớn trong cuộc đọ
422
sức với cuộc chiến tranh leo thang của đế quốc Mỹ. Để giành được mục tiêu
đó, nhân dân cả nước ta phải đánh thắng chiến lược “tìm diệt” của Mỹ ở miền
Nam, đánh thắng chiến tranh phá hoại ở miền Bắc và đánh vào tận sào huyệt
của Mỹ - nguỵ.
4. Mục tiêu của Mỹ trong “Chiến tranh cục bộ” là vừa “bẻ gãy xương
sống Việt Cộng” nghĩa là tiêu diệt lực lượng vũ trang cách mạng ở miền Nam,
vừa đánh phá hậu phương miền Bắc, làm cho miền Bắc không đủ sức tăng
viện miền Nam và đẩy miền Bắc “trở về thời kỳ đồ đá”. Do đó, muốn đánh
thắng “Chiến tranh cục bộ”, thì việc đánh thắng chiến tranh phá hoại của Mỹ
ở miền Bắc, giữa vững hậu phương lớn, bảo đảm tăng cường lực lượng về
mọi mặt cho miền Nam bất kể tình huống nào là yêu cầu quan trọng song
song với việc đánh thắng quân Mỹ trên chiến trường miền Nam. Chống chiến
tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của Mỹ là một cuộc chiến tranh
mới, ta chưa có kinh nghiệm. Nhân dân và quân đội ta, do Đảng lãnh đạo, đã
sáng tạo ra cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại, đánh máy
bay và tàu chiến địch bằng cả ba thứ quân, ở mọi tâng cao, tầng vừa, tầng
thấp, bằng sự phối hợp các binh chủng, quân chủng và bằng lực lượng toàn
dân. Để đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại, mọi hoạt động của miền Bắc
phải chuyển hẳn sang thời chiến, lực lượng sản xuất và chiến đấu phải bố trí
lại, việc sơ tán nhân dân, xí nghiệp, trường học, bệnh viện phải được tổ chức
tốt, giao thông vận tải phải được bảo đảm thông suốt “địch phá, ta sửa, ta đi”,
“địch phá, ta cứ đi”.
Với sức tàn phá của gần 8 triệu tấn bom của Mỹ, miền Bắc vẫn vừa sản
xuất, vừa chiến đấu, ý chí quyết chiến quyết thắng không hề lay chuyển,
ngược lại, ý chí, quyết tâm đó ngày càng cao hơn, tăng viện cho miền Nam
không hề giảm sút mà còn bảo đảm cho tiền tuyến đánh thắng hai cuộc phản
công mùa khô của Mỹ và thực hiện cuộc tổng tiến công 1968.
5. Thắng lợi chống “Chiến tranh cục bộ” còn là thắng lợi của các mặt
trận thống nhất chống Mỹ: Mặt trận thống nhất ở trong nước, Mặt trận thống
Nhất ba nước Đông Dương, mặt trận thống nhất trên thế giới ủng hộ cuộc
kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam.
Từ khi đế quốc Mỹ đưa quân trực tiếp xâm lược miền Nam, mặt trận
423
thống nhất chống Mỹ của toàn thể dân tộc đã bao gồm không chỉ các giai cấp,
các đảng phải, cá nhân yêu nước tập hợp trong Mặt trận dân tộc giải phóng ở
miền Nam và Mặt trận Tổ quốc ở miền Bắc, mà còn bao gồm tất cả những lực
lượng, cá nhân không nằm trong Mặt trận kể cả số người trong chính quyền
nguỵ và trong quân đội nguỵ, tham gia cao trào chống Mỹ, cứu nước bằng
mọi hành động thiết thực.
Trên nền tảng mặt trận thống nhất chống Mỹ của toàn thể dân tộc ta,
Đảng chủ trương mở rộng và củng cố Mặt trận thống nhất nhân dân ba nước
Đông Dương và Mặt trận thống nhất thế giới ủng hộ nhân dân ta chống Mỹ.
Phong trào ủng hộ Việt Nam, lên án mạnh mẽ hành động xâm lược của đế
quốc Mỹ dấy lên không những ở ba nước Đông Dương, ở trên thế giới mà ở
ngay trong nước Mỹ. Trên thực tế, đây là loại hình mặt trận thống nhất quốc
tế rộng lớn, với các hình thức, màu sắc và hành động khác nhau, nhưng tất cả
đều đứng về phía nhân dân Việt Nam, phản đối cuộc chiến tranh xâm lược
Việt Nam của đế quốc Mỹ. “Mặt trận này tuy chưa xây dựng về hình thức,
nhưng thực tế đã hình thành bằng hành động và tinh thần... Nhân dân Mỹ
đánh từ trong ra, nhân dân ta đánh từ ngoài vào. Hai bên giáp công mạnh mẽ,
thì đế quốc Mỹ nhất định sẽ thua, nhân dân Việt - Mỹ nhất định sẽ thắng”1.
Ba tầng Mặt trận thống nhất chống Mỹ là nhân tố thắng lợi trong
“Chiến tranh cục bộ” đồng thời là nhân tố thắng lợi trong toàn bộ cuộc kháng
chiến chống Mỹ.
1 . Hồ Chí Minh:Sách đã dẫn, t.10, tr.194-197.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hiem_vu_trung_uong_giao_lich_su_dang_cong_san_viet_nam2_p1_5733.pdf
- hiem_vu_trung_uong_giao_lich_su_dang_cong_san_viet_nam2_p2_1035.pdf