Và như vậy, trong một sự so sánh tương đối
với truyện cổ tích của người Việt, chúng ta có
thể thấy sự đan cài yếu tố hoang đường, kỳ
diệu với yếu tố hiện thực, giữa tín ngưỡng,
niềm tin tâm linh với đời sống thực tế trong
truyện các dân tộc thiểu số được thể hiện cao
hơn, rõ rệt hơn.
Từ việc khảo sát đặc điểm một loại nhân vật
trong kiểu truyện người con riêng các dân tộc
thiểu số miền núi phía Bắc, chúng ta có thể
nhận thấy dấu ấn của tín ngưỡng nguyên thủy
còn khá nguyên vẹn trong quan niệm và suy
nghĩ đồng bào các dân tộc, bên cạnh đó chất
liệu, hình ảnh của cuộc sống hiện thực cũng
vô cùng nồng đượm trong những truyện kể
mà mọi xung đột đều vẫn được giải quyết
“trong cõi thần kỳ và bằng cái thần kỳ”.
7 trang |
Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 514 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhân vật trợ giúp trong truyện cổ tích về người con riêng của một số dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 50
NHÂN VẬT TRỢ GIÚP TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH VỀ NGƯỜI CON RIÊNG CỦA
MỘT SỐ DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở MIỀN NÚI PHÍA BẮC VIỆT NAM
Nguyễn Thị Minh Thu*
Trường Đại học Sư phạm - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Bài báo tìm hiểu về đặc điểm nhân vật trợ giúp trong truyện cổ tích về người con riêng của một số
dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc. Hai dạng xuất hiện độc đáo của loại nhân vật này là: người mẹ
cùng các dạng hóa thân của người mẹ và con hổ. Đặc điểm này thể hiện sự chi phối mạnh mẽ của
tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, vật tổ và tô tem giáo nguyên thủy đối với những chủ nhân của các
truyện kể. Ngoài ra, đứng về phương diện xã hội học, sự trở lại của người mẹ chính là sự khẳng
định tinh thần đấu tranh, khát vọng được sống, được có vị trí trong gia đình của những người vợ cả
bất hạnh trong chế độ xã hội phụ hệ, đồng thời thể hiện tiếng nói chia sẻ, bênh vực của các tác giả
dân gian với những con người này. Qua đó, chúng ta có thể khẳng định sự đan cài giữa yếu tố
hoang đường kỳ ảo với hiện thực, giữa yếu tố tín ngưỡng nguyên thủy với đời sống thực tế là một
nét đặc trưng trong truyện cổ tích về người con riêng của các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc.
Từ khóa: nhân vật trợ giúp, kiểu truyện cổ tích về người con riêng, truyện cổ dân tộc thiểu số, văn
học dân gian, văn hóa dân gian
Kiểu truyện về người con riêng (hay còn gọi
là kiểu truyện Tấm Cám) là một trong những
kiểu truyện cổ tích thần kỳ phổ biến trong kho
tàng cổ tích các dân tộc Việt Nam cũng như
trên thế giới. Hầu như dân tộc nào cũng lưu
giữ được trong kho truyện kể của mình ít nhất
một cốt truyện về số phận người con riêng,
một kiểu nhân vật bất hạnh điển hình trong
chế độ xã hội đã có sự phân hóa giàu nghèo,
sự phân biệt giai cấp. Một trong những đặc
sắc của truyện cổ tích thần kỳ nói chung,
trong đó có truyện về người con riêng là sự
xuất hiện thường xuyên của nhân vật, lực
lượng trợ giúp thần kỳ. Mỗi khi nhân vật
người con riêng gặp khó khăn và cần phải
vượt qua thử thách thì nhân vật thần kỳ lại
xuất hiện để bày cách hoặc ban cho một vật
màu nhiệm nào đó trợ giúp các nhân vật. Tuy
nhiên, xem xét loại nhân vật này ở các nhóm
truyện kể về người con riêng ở các dân tộc ở
các vùng miền khác nhau chúng ta có thể
nhận ra nhiều nét tương đồng và không ít
những điểm khác biệt. Về điều này, tác giả
Đinh Gia Khánh cũng đã nhận xét “Trong
cuộc đấu tranh chống lại mụ gì ghẻ, cô gái
được những thế lực siêu nhiên giúp đỡ. Thế
lực siêu nhiên này cũng tùy theo từng nước
Tel: 0982810816; Email: thuntm@tnu.edu.vn
mà thay đổi” [3, tr 37]. Tác giả Đường Tiểu
Thi trong luận án tiến sĩ “So sánh kiểu truyện
Cô Lọ Lem của một số dân tộc miền Nam
Trung Quốc với kiểu truyện Tấm Cám của
Việt Nam” cũng có những mục, đoạn viết về
vấn đề này. Tác giả khẳng định “Sự xuất hiện
“người trợ giúp” trong truyện Cô Lọ Lem
nói riêng và trong kho tàng truyện cổ tích nói
chung là một nhu cầu tự nhiên của tâm lý loài
người và là “những phương pháp không thể
thiếu để đạt cân bằng tâm lý và bù đắp tâm
lý”. Nhưng người trợ giúp xuất hiện với bộ
mặt nào thì điều đó lại có quan hệ mật thiết
với tôn giáo tín ngưỡng của nơi mà bản kể đó
lưu truyền “Người trợ giúp thần kỳ” là sự
kết hợp giữa nhu cầu tâm lý chung và tôn
giáo tín ngưỡng riêng của từng địa phương”
[4, tr 87-88]. Chúng tôi nhận thấy đây là ý
kiến xác đáng, có thể coi là cơ sở khoa học
đáng tin cậy để tiếp tục khảo sát, phân tích
vấn đề này trong những trường hợp cụ thể.
Thông qua khảo sát 19 truyện kể về kiểu
truyện người con riêng trong kho tàng truyện
kể các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc
(qua 9 tập truyện), chúng tôi nhận thấy chỉ có
một truyện không xuất hiện nhân vật này (Chị
em Vùi và Lu (dân tộc Lô Lô)) số truyện còn
lại có nhân vật trợ giúp người con riêng xuất
hiện ở hai dạng: nhân vật trực tiếp là người
Nguyễn Thị Minh Thu Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 73(11): 50 - 54
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 51
mẹ (hoặc là hóa thân của người mẹ) và nhân
vật là con hổ - một loại động vật đặc trưng
của miền núi, trong đó, 14/18 truyện nhân vật
trợ giúp liên quan đến người mẹ (77,8%).
Dưới đây là bảng thống kê cụ thể về loại nhân
vật này:
STT Tên truyện Dân tộc Nguồn truyện
Nhân vật
trợ giúp
1
Chang Boong
Nheng
Mường
Truyện cổ Mường Hà Sơn Bình, Bùi Thiện,
Đặng Văn Tu, Nguyễn Hữu Thức, Bùi Minh
Chức st và bs, Sở VHTT Hà Sơn Bình, tr140
Người mẹ
hóa bà lão
2 Con Côi Mường
Truyện cổ các dân tộc Việt Nam, Tập 2, Nxb
Đà Nẵng, 1999, tr 200
Người mẹ
3 Mẹ con nàng Hổ Thái
Truyện cổ dân tộc Thái, Ty thông tin văn hóa
Sơn La xb, tr 127.
Người mẹ
hóa Con hổ
4
Nàng Khao,
nàng Đăm
Thái
Truyện cổ các dân tộc ít người Việt Nam, Tập
4, Nxb Văn học, 1994, tr 244
Người mẹ
hóa Con hổ
5
Nàng Trắng
nàng Đen
Thái
Truyện cổ dân tộc Thái, Ty thông tin văn hóa
Sơn La xb,tr 45
Người mẹ
hóa quái
vật
6 Ý ưởi - Ý noọng Thái
Truyện cổ các dân tộc Việt Nam, Tập 2, Nxb
Đà Nẵng, 1999, tr 351
Con hổ
7
Cầu nồ, cầu
sênh
Dao
Chiếc sừng nai, Sở Văn hóa thông tin Hà Tuyên
xb, 1987, tr 31
Người mẹ
hóa bò
8
Mùi Mụi, Mùi
Nái
Dao
Truyện cổ Dao, Doãn Thanh, Lê Trung Vũ,
Trần Nguyên, Nguyễn Hà st và bs, Nxb Văn
hóa, H, 1985, tr 189
Người mẹ
hóa bà lão
9
Người dì ghẻ
độc ác
Dao
Truyện cổ Dao, Doãn Thanh, Lê Trung Vũ,
Trần Nguyên, Nguyễn Hà st và bs, Nxb Văn
hóa, H, 1985tr 120
Con hổ
10 Con trâu hoa Mông
Truyện cổ các dân tộc Việt Nam, Tập 2, Nxb
Đà Nẵng, 1999, tr 63
Người mẹ
11 Gầu na Mông
Truyện cổ các dân tộc Việt Nam, Tập 2, Nxb
Đà Nẵng, 1999, tr 84
Mẹ hóa bò
12
Tua Tềnh, Tua
Nhì
Tày
Truyện cổ Bắc Kạn, Tập 2, Sở VHTT TT Bắc
Kạn, 2000, tr 195.
Mẹ hóa bà
lão
13 Nhị và Tươi
Tày,
Nùng
Chiếc sừng nai, Sở Văn hóa thông tin Hà Tuyên
xb, 1987tr 3
Mẹ hóa bà
lão và con
hổ
14
Tua Gia, Tua
Nhi
Tày
Truyện cổ Việt Bắc, Đỗ Thiện, An Ly, Nxb Văn
hóa, 1963
Mẹ hóa bà
lão
15
Nàng Bjoóc
Rồm
Tày
Truyện cổ Bắc Kạn, Tập 3, Sở VHTT TT Bắc
Kạn, 2000tr 108
Linh hồn
người mẹ
16 Người con riêng Tày
Truyện cổ Bắc Kạn, Tập 2, Sở VHTT TT Bắc
Kạn, 2000, tr 208
Con hổ
17
Dì ghẻ con
chồng
Tày
Truyện cổ tích miền núi, Nxb Văn hóa, H,
1958, tr 78
Con hổ
18 Inh và Ính Pu Péo
Lê Trung Vũ, Truyện cổ Pu Péo, Nxb Văn hóa
dân tộc, H, 1988, tr 88
Người mẹ
19
Chị em Vùi và
Lu
Lô Lô
Lò Giàng Páo, Hoàng Nam, Truyện cổ Lô Lô,
Nxb Văn hóa dân tộc, H,1983, tr 90
Không xuất
hiện
Sự xuất hiện với tỉ lệ cao nhân vật trợ giúp-
người mẹ (hoặc các dạng biến hóa khác của
người mẹ) hẳn bắt nguồn từ tâm lý, tín
ngưỡng của đồng bào các dân tộc. Đó là tín
ngưỡng thờ cúng vật tổ, thờ cúng tổ tiên, tô
tem giáo của người nguyên thủy. Họ tin rằng
ông bà, cha mẹ chết đi trở nên linh thiêng và
thường tìm cách phù trợ cho con cháu, đặc
biệt là người mẹ. Cơ sở của tín ngưỡng thờ tổ
tiên là niềm tin về sự bất tử của linh hồn sau
khi con người đã chết và mối quan hệ giữa
linh hồn người đã chết với những người còn
sống. Điều này đã chi phối mạnh mẽ và được
thể hiện rõ nét trong những truyện kể về
người con riêng bất hạnh.
Nguyễn Thị Minh Thu Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 73(11): 50 - 54
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 52
Trong truyện cổ tích Tấm Cám của người
Việt, chúng ta không nhận thấy rõ biển hiện
này trong tín ngưỡng tổ tiên. Tuy vậy, vẫn có
thể tìm thấy biểu hiện ấy ở một vài chi tiết
khác như “ngày giỗ bố”Lý giải điều này tác
giả Đinh Gia Khánh đã chú thích: “Chúng tôi
nghĩ rằng xưa kia ở truyện Tấm Cám của ta
cũng có đoạn kể rằng mẹ cô gái sau khi chết
đi đã biến thành cá và cô gái đã vớt cá về
nuôi. Dần dần về sau, người ta bỏ đoạn đó đi.
Từ khi việc thờ cúng tổ tiên nhuốm màu sắc
Nho giáo thì người ta không thể tin rằng cha
mẹ chết đi lại hóa ra loài vật như tín ngưỡng
của tô tem giáo nguyên thủy. Và chính có lẽ vì
thế mà truyện Tấm Cám của dân tộc Kinh đã
bỏ đoạn kể rằng mẹ cô gái sau khi chết thì
biến thành cá bống chăng?” [3, tr 38]. Đó
mới chỉ là một giả thiết. Xuất hiện quen thuộc
trong truyện người Việt là nhân vật ông Bụt
hiền từ, luôn hiện lên đúng lúc để cứu giúp
những con người nghèo khổ trong đó có cô
Tấm. Nhân vật Bụt có nguồn gốc từ Phật giáo
nhưng đó đã là đức Phật được dân gian hóa.
Như vậy, nhân vật trợ giúp là một mô típ
chung trong kiểu truyện về người con riêng
nhưng diện mạo cụ thể của nhân vật thì mỗi
dân tộc, mỗi vùng miền lại thể hiện khác
nhau. Đó trước hết là kết quả của sự ảnh
hưởng bởi những quan niệm tín ngưỡng, tôn
giáo khác nhau.
Xem xét từ phương diện xã hội học, chúng tôi
thấy có thể lý giải điều này như sau: Khi chế
độ công xã nguyên thủy tan rã, xã hội phong
kiến bắt đầu hình thành gắn với sự phân hóa
giai cấp, sự hình thành gia đình phụ quyền thì
trong đời sống các dân tộc thiểu số, người đàn
ông có quyền lấy nhiều vợ hoặc lấy vợ lẽ khi
người vợ cả mất. Vị trí người vợ cả trong gia
đình bị hạ thấp, thậm chí bị hắt hủi, xua đuổi
và chấp nhận một bi kịch là ra đi hoặc mất
sớm. Đứa con của người vợ cả ở cùng cha và
phải sống chung cùng dì ghẻ, chịu đựng xung
đột, áp bức từ phía dì ghẻ. Các tác giả dân
gian muốn bênh vực và thể hiện sự thương
xót với những người mẹ, người vợ bất hạnh
đó nên họ đã để cho nhân vật trở lại trợ giúp
cho những đứa con côi của mình dưới các
hình thức khác nhau.
Ở một số truyện, người mẹ không chết mà
chỉ thay đổi hình dạng, thường là trở thành
một bà già mang trên mình dấu tích của sự
hiểu lầm dẫn đến bị người chồng đánh, chém
hoặc đuổi đi. Khi đứa con bị đẩy vào tình thế
khốn khổ, hoặc là bị mẹ kế đuổi đi vào rừng
hoặc là bị cha đẻ buộc lòng phải đưa vào rừng
sâu cho thú dữ ăn thịt thì tưởng như rất ngẫu
nhiên (mà hoàn toàn không phải là ngẫu
nhiên), những đứa con lại gặp được chính
người mẹ của mình. Đây là chi tiết mấu chốt
giải quyết mọi mâu thuẫn, xung đột cơ bản
của kiểu truyện này. Từ đây, người con riêng
có một điểm tựa vững chắc để có thể vươn lên
vượt qua mọi khó khăn, thử thách giành
quyền sống và hạnh phúc, đồng thời có thể
đấu tranh chống lại cái ác.
Trong nhiều truyện, các tác giả dân gian đã sử
dụng yếu tố thần kỳ khi để cho người mẹ chết
đi và biến hóa thành một số dạng khác như
bà lão có phép tiên, hổ và đầu bò biết nói, biết
phân biệt kẻ xấu người tốtNhiều truyện,
người mẹ hiện về trong hình dạng của một bà
lão. Bà lão mang trên mình dấu tích của sự
hiểu lầm, sự hành hạ năm xưa. Đặc điểm này
lặp lại từ dạng xuất hiện thứ nhất đã nêu trên
càng nhấn mạnh niềm tin vào mối liên hệ
giữa người đã chết với người còn sống và
khát vọng được phù hộ, độ trì thánh thiện của
đồng bào các dân tộc.
Những truyện như vậy vừa lung linh sắc màu
kỳ diệu vừa ám ảnh người kể, người nghe về
vấn đề tình mẹ con sâu sắc. Người mẹ hiện
lên cũng tựa như bà tiên, ông Bụt hay đấng kỳ
diệu luôn dõi theo và có mặt bất cứ lúc nào
những đứa con bất hạnh cần sự trợ giúp. Về
điểm này, truyện cổ tích các dân tộc thiểu số
miền núi phía Bắc thể hiện mối liên hệ, sự
ảnh hưởng có tính chất tương đồng loại hình
với truyện cổ tích của dân tộc Kinh nhưng
vẫn chứa đựng những nét riêng nhất định.
Cá biệt có một truyện người mẹ hiện về trong
một hình thù đáng sợ là quái vật (Nàng
Trắng nàng Đen - dân tộc Thái). Một truyện
người mẹ hiện về giúp đỡ đứa con bằng sự
báo mộng của linh hồn qua những giấc mơ
(Nàng Bjoóc Rồm- dân tộc Tày). Đó cũng là
cách kỳ diệu hóa một điều rất hiện thực là kỳ
diệu hóa vai trò và tình yêu thương của người
mẹ với những đứa con côi.
Một dạng hóa thân đặc biệt của người mẹ là
hóa thành con hổ và con bò.
Nguyễn Thị Minh Thu Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 73(11): 50 - 54
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 53
Có hai truyện người mẹ hóa thân trong hình
dáng của một con hổ to lớn, khá dữ dằn
nhưng biết nói, thương người và biết phân
biệt kẻ xấu với người tốt. Cơ sở lý giải điểm
thú vị này vẫn bởi cơ sở tín ngưỡng nguyên
thủy kết hợp với tín ngưỡng thờ vật tổ cùng
với sự phản chiếu đời sống thực mà chúng tôi
sẽ nói kỹ ở dưới.
Có hai truyện người mẹ hóa thân vào hình
ảnh con bò lầm lũi, hiền lành biết xúc động
rơi nước mắt, luôn chấp nhận hy sinh thân
mình để cứu giúp đứa con tội nghiệp. Hình
ảnh này có nét tương đồng với hình ảnh con
bò trong một số truyện cổ dân tộc Chăm và
hình ảnh con trâu trong truyện kể một số dân
tộc ở miền Nam Trung Quốc. Con bò được kể
trước hết là hóa thân của người mẹ để giúp
chồng, con có vật cày, bừa. Đây là hình ảnh
nhân cách hóa dựa trên sự phản ánh hiện thực
về cuộc sống lao động của đồng bào các dân
tộc thiểu số. Về sau, nhân vật con bò dần
được thần kỳ hóa trở thành người trợ giúp cho
những đứa con riêng.
Trong các truyện kiểu Tấm Cám của một số
dân tộc thiểu số khác ở Việt Nam và các dân
tộc ở các nước lân cận, người mẹ trợ giúp có
thể hóa thân thành những loài vật khác như
cá, rùa, chimTruyện Ú và Cao của dân tộc
Hrê, người mẹ chết đi vẫn trở về giúp đỡ đứa
con mặc dù không được kể rõ về hình dạng
nhưng ta có thể nhận thấy những thuộc tính
của loài cá. Truyện kể rằng mẹ Ú chết, vua
Thủy Tề thương là người hiền đức, bèn làm
phép cho sống lại và giữ luôn ở dưới nước
Khi Ú đến bờ sông, lăn khóc gọi thì mẹ Ú nổi
lên, cho con bú no Cha Ú quyết giết vợ lần
thứ hai liền rình ở bờ sông đợi khi mẹ Ú ngồi
nói chuyện với con liền ném móc câu vào
ngườiTruyện Con rùa của Mian ma lại kể
rằng mẹ Bé ngã xuống biển chết đuối biến
thành một con rùa. Truyện Ta Gia- Ta Luân
của dân tộc Choang ở Quảng Tây Trung
Quốc, mẹ cô gái đã hóa thành con chim khách
để giúp cô Ngoài ra, trong truyện Con cá
vàng của Thái Lan, người mẹ chết hóa thành
con cá vàng nhỏ
Điều này chủ yếu phản ánh tín ngưỡng thờ
vật tổ, một phương diện đặc trưng của tín
ngưỡng nguyên thủy. Nó có thể xuất phát từ
suy nghĩ coi trọng các con vật, khẳng định vai
trò của chúng trong việc sáng tạo thế giới,
giúp đỡ con người. Mỗi dân tộc thờ cúng một
vật tổ. Vật tổ thường là loài động vật quen
thuộc ở địa vực cư trú của các dân tộc. Có
những dân tộc thờ chim, rắn, rùa hay cá còn
với các DTTS miền núi phía Bắc, con hổ trở
thành vật linh thiêng phù trợ người tốt, trừng
phạt kẻ ác.
Dạng xuất hiện độc đáo nữa của loại nhân này
trong truyện cổ tích các dân tộc thiểu số ở
miền núi phía Bắc là nhân vật con hổ. Hổ vốn
là một loài động vật đặc trưng của miền núi
nói riêng và cũng khá quen thuộc với con
người nói chung. Nhân vật này còn xuất hiện
trong kho truyện kể các dân tộc thiểu số miền
núi phía Bắc ở một số thể loại và tiểu loại
khác như truyện cổ tích loài vật, truyện ngụ
ngôn Tuy vậy, khi xuất hiện ở những thể
loại ấy, nhân vật này được miêu tả cơ bản
thống nhất ở các đặc tính như to lớn, dữ dằn,
hống hách nhưng ngốc nghếch, ngu dốt. Đó là
con vật đáng sợ nhưng con người cũng như
một số con vật khác vẫn có thể chống lại bằng
trí thông minh và lòng dũng cảm. Trong kiểu
truyện người con riêng và một số truyện
thuộc những kiểu truyện khác của cổ tích thần
kỳ như truyện về người mồ côi, người em út,
nhân vật hổ được miêu tả qua sự nhân cách
hóa, thần kỳ hóa trở thành lực lượng thần kỳ
giúp đỡ, hỗ trợ người tốt mà bất hạnh và
trừng trị kẻ xấu xa, độc ác. Con hổ trong
truyện Dì ghẻ con chồng hay Người con
riêng của dân tộc Tày biết chia sẻ, đồng cảm
với tiếng van xin thống thiết của người con
riêng bất hạnh mà không phá lúa, phá rẫy,
không ăn thịt, biết cảm lòng tốt của nhân vật
mà nôn ra vàng giúp họ trở nên sung sướng.
Đến lượt đứa con của dì ghẻ độc ác vào rừng
bắt chước mong được giàu có, sung sướng thì
chính hổ lại là lực lượng xé xác trừng phạt vì
biết được tâm tính thực của chúng.
Như vậy, hình ảnh con hổ có một ý nghĩa rất
quan trọng trong truyện cổ tích các dân tộc
thiểu số miền núi phía Bắc. Theo chúng tôi,
nhân vật hổ xuất hiện phổ biến trong kiểu
truyện người con riêng và truyện cổ tích các
dân tộc nói chung trước hết là bởi mối liên hệ
thường xuyên giữa cuộc sống của đồng bào
các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc với
con vật này. Ngoài ra, thêm một lần nữa
chúng ta có thể khẳng định đây là sự chi phối
mạnh mẽ của tô- tem giáo nguyên thủy và tục
thờ cúng vật tổ đối với cách lựa chọn nhân vật
cho các truyện kể như đã lý giải ở trên.
Nguyễn Thị Minh Thu Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 73(11): 50 - 54
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 54
Và như vậy, trong một sự so sánh tương đối
với truyện cổ tích của người Việt, chúng ta có
thể thấy sự đan cài yếu tố hoang đường, kỳ
diệu với yếu tố hiện thực, giữa tín ngưỡng,
niềm tin tâm linh với đời sống thực tế trong
truyện các dân tộc thiểu số được thể hiện cao
hơn, rõ rệt hơn.
Từ việc khảo sát đặc điểm một loại nhân vật
trong kiểu truyện người con riêng các dân tộc
thiểu số miền núi phía Bắc, chúng ta có thể
nhận thấy dấu ấn của tín ngưỡng nguyên thủy
còn khá nguyên vẹn trong quan niệm và suy
nghĩ đồng bào các dân tộc, bên cạnh đó chất
liệu, hình ảnh của cuộc sống hiện thực cũng
vô cùng nồng đượm trong những truyện kể
mà mọi xung đột đều vẫn được giải quyết
“trong cõi thần kỳ và bằng cái thần kỳ”.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Chu Xuân Diên, “Về cái chết của mẹ con
người dì ghẻ trong truyện Tấm Cám” in trong
cuốn Nghiên cứu văn hóa dân gian phương
pháp, lịch sử, thể loại, Nxb Giáo dục, H,
2008, tr 500- tr 536.
[2]. Nguyễn Tấn Đắc, Truyện kể dân gian
đọc bằng Type và Motif, Nxb Khoa học xã
hội, H, 2001.
[3]. Đinh Gia Khánh, Sơ bộ tìm hiểu những
vấn đề của truyện cổ tích qua truyện cổ tích
Tấm Cám, Nxb Văn học, H, 1968.
[4]. Đường Tiểu Thi, So sánh kiểu truyện Cô
Lọ Lem của một số dân tộc miền Nam Trung
Quốc với kiểu truyện Tấm Cám của Việt Nam,
Luận án tiến sĩ văn học, 2008.
SUMMARY
THE SUPPORTING CHARACTER IN THE FAIRY TALES ABOUT STEPCHILD OF SOME
MINORITIES IN THE MOUNTAINOUS AREA OF NORTH VIET NAM
Nguyen Thi Minh Thu
College of Education - Thai Nguyen University
The paper explores the particular traits of the character who helps the stepchildren in fairy tales of a number of
ethnic minorities in mountainous area in the north. The two unique forms of this type of characters are the mother
and the incarnation of the mother and the tiger. This feature shows a strong effect of the ancestor worship faith,
primitive totem with the composers of these stories. Also, in terms of sociology, the return of the mother confirms
fighting spirit, the desire to live, to have a status in the family of unfortunate wives in the paternity society, and
expresses the authors’ voice to defend the truth with these people. Thereby, we can see that the mixture of mythical
fantasy elements and realistic elements, of ancient religious elements and the real life is actually a characteristic of
the fairy tales of northern ethnic minorities about stepchildren.
Keyword: Helping character, Type of fairy tales about stepchildren, folklore, folkliterature, fairy tales of ethnic
minorities
Nguyễn Thị Minh Thu Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 73(11): 50 - 54
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 55
Nguyễn Thị Minh Thu Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 73(11): 50 - 54
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 56
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- brief_32770_36610_22820121358365054_824_2052668.pdf