Nhân tế bào (nucleus) được Braw phát hiện vào năm
1831 và được xem là thành
phần bắt buộc của tất cả tế bào động vật cũng như
thực vật. Ở các tế bào Procaryota (vi
khuẩn) người ta không quan sát thấy nhân. Tuy nhiên
hiện nay với những phương pháp
nghiên cứu sinh hóa, hiển vi điện tử và di truyền vi
sinh vật đã chứng minh rằng trong các tế bào
Procaryota tồn tại phân tử AND (acid
deoxyribonucleic) nằm trong vùng “thể nhân” có
cùng chức năng tương tự như nhân của Eucaryota,
vì vậy thể nhân ở vi khuẩn có tên gọi là nucleoid
7 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2544 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhân tế bào (nucleus), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nhân tế bào (nucleus) được Braw phát hiện vào năm
1831 và được xem là thành
phần bắt buộc của tất cả tế bào động vật cũng như
thực vật. Ở các tế bào Procaryota (vi
khuẩn) người ta không quan sát thấy nhân. Tuy nhiên
hiện nay với những phương pháp
nghiên cứu sinh hóa, hiển vi điện tử và di truyền vi
sinh vật đã chứng minh rằng trong các tế bào
Procaryota tồn tại phân tử AND (acid
deoxyribonucleic) nằm trong vùng “thể nhân” có
cùng chức năng tương tự như nhân của Eucaryota,
vì vậy thể nhân ở vi khuẩn có tên gọi là nucleoid.
Như vậy ta có thể xem sự tiến hóa từ dạng AND
trần phân tán trong tế bào chất ở dạng nucleoid
(Procaryota) sang dạng AND liên kết với histon
thành các nhiễm sắc thể định khu, tách biệt bởi
màng nhân ở dạng nhân (nucleus) ở Eukaryota là sự
tiến hóa của bộ máy di truyền của sinh giới.
7.1. Hình dạng
Nhân tế bào có nhiều hình dạng khác nhau:
hình cầu, hình bầu dục,
hình hạt đậu, hình mái
chèo, hình nhiều thùy,
hình chia nhánh...
Hình dạng của
nhân thường phụ thuộc
vào hình dạng của tế
bào nhưng đôi khi cũng
có hình dạng khác hình
dạng tế bào (bạch cầu
với nhân múi, tế bào
tuyến cơ của tằm hình
khối vuông có nhân
hình phân nhánh). Hình
dạng của nhân có thể
biến đổi theo tuổi của tế bào và trạng thái chức năng
của chúng. Lúc tế bào hoạt động
mạnh nhân trở nên lớn hơn và có dạng chia nhánh
hoặc phân thùy.
7.2. Kích thước
Kích thước của nhân thay đổi tùy loại tế bào và phụ
thuộc vào kích thước của tế
bào cũng như trạng thái chức năng của tế bào. Mỗi
kiểu tế bào có một tỉ lệ kích thước
nhất định giữa nhân và bào tương. Sự thay đổi tỉ lệ
này dẫn đến sự phân bào h
Số lượng
Mỗi tế bào thường có một nhân. Đôi khi có nhiều hơn
như tế bào gan, tế bào
tuyến nước bọt của động vật có vú... Có tế bào không
có nhân như hồng cầu máu ngoại
vi động vật có vú. Những hồng cầu này không có
chức năng sinh sản.
7.4. Cấu trúc và chức năng của nhân tế bào
Các bộ phận chính của nhân tế bào là: màng nhân,
dịch nhân, nhiễm sắc thể và hạch
nhân.
7.4.1. Màng nhân
Hình hiển vi điện tử cho thấy màng nhân là một
màng kép gồm có màng nhân
ngoài và màng nhân trong. Xoang được giới hạn bởi
2 màng này gọi là xoang quanh
nhân.
* Màng nhân ngoài: là một màng sinh chất nội bào
kiểu như màng lưới nội sinh
chất có hạt, nó có hạt ribosom bám ở bề mặt ngoài
màng, phía bào tương. Màng ngoài
của nhân có độ
dày chừng 10nm.
Về thành phần hóa
học thì lại giống
với lưới nội chất
trơn nghĩa là
cholesterol chiếm
10% thành phần
lipit và các thành
phần lipit khác gần
giống như của lưới
nội chất trơn. Nó
kém lỏng linh
động hơn màng
lưới nội sinh chất
có hạt. Màng nhân
ngoài nối liền với
màng LNSC.
Về chức
năng nó phụ trách
việc tái tạo màng
nhân, tham gia
tổng hợp màng
LNSC và các
màng nội bào khác
kể cả màng tế bào
cùng với LNSC.
Cách làm của nó là gửi tới nơi cần những mảnh màng
mới tạm thời cuốn lại thành các
túi hình cầu giống như các túi vận tải nội bào.
* Xoang quanh nhân: xoang quanh nhân dày
khoảng10-20 nm. Xoang này thông
với lưới LNSC có hạt và thông ra ngoài tế bào. Vật
chất bên trong di chuyển theo hai
chiều giữa xoang quanh nhân và LNSC có hạt.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nhân tế bào (nucleus).pdf