Mười bảy tuổi, với tập Điêu tàn,Chế Lan Viên xuất hiện giữa làng
thơ Việt Nam như một “niềm kinh dị”(Hoài Thanh). Từ đó cho đến cuối đời
ông đã có nhiều tập thơ, bài thơ in dấu vàolòng bạn đọc nhiều thế hệ như Ánh
sáng và phù sa (1960), Hoa ngày thường – Chim báo bão (1967), Những bài thơ
đánh giặc (1972), Đối thoại mới( 1973), Hoa trước Lăng Người (1976) Hái theo
mùa(1977), Hoa trên đá (1984), Ta gửi cho mình ( 1986).
Chế Lan Viên là một nhà thơ có phong cách. Ông đã tạo được gương
mặt riêng của thơ mình trong lịch sử văn học.Đó là phong cách của một hồn
thơ mang vẻ đẹp của trí tuệ, của chất suy tưởng. Thơ ông đầy những triết luận,
những chiêm nghiệm về người, về đời. Có khinhững triết luận ấy trở thành
chất chính luận như trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ.
20 trang |
Chia sẻ: phanlang | Lượt xem: 12416 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhà văn và phong cách, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LÊ TIẾN DŨNG
NHÀ VĂN
VÀ PHONG CÁCH
TP. HCM-2007
Hội đồng khoa học cấp Trường :
1. PGS TS Huỳnh Như Phương
2. PGS TS Đoàn Lê Giang
3. TS Nguyễn Công Lý
4. PGS TS Nguyễn Thị Thanh Xuân
5. TS Nguyễn Thị Loan
Đã đọc duyệt và thông qua
MỤC LỤC
1.Nhà văn
1.1. Nhà văn trong lịch sử
1.2. Vậy nhà văn là ai ?
2. Phong cách nghệ thuật của nhà văn
2.1.Các quan niệm khác nhau
2.2. Phong cách nghệ thuật
2.3. Phong cách nghệ thuật của nhà văn và phong cách sống
2.4. Biểu hiện của phong cách nghệ thuật của nhà văn
2.5. Phong cách và các phạm trù khác của khoa nghiên cứu văn học
3. Phong cách một số nhà văn
3.1. Phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu
3.2. Phong cách nghệ thuật thơ Xuân Diệu
3.3. Phong cách nghệ thuật của Nam Cao
1
1. NHÀ VĂN:
1.1.Nhà văn trong lịch sử:
- Có văn học thì phải có người sáng tạo ra nó. Đó là nhà văn. Hay nói
cách khác nhà văn là người sáng tạo ra các tác phẩm văn học. Cũng như nói
họa sĩ là người sáng tạo ra các tác phẩm hội họa, nhạc sĩ là người sáng tạo ra
các tác phẩm âm nhạc... Những tên gọi khác nhau tùy vị trí của những người
sáng tạo văn học như : thi nhân, văn nhân, thi sĩ, văn sĩ, đại văn hào, đại thi
hào... đều là những thuật ngữ để trỏ nhà văn, những nghệ sĩ ngôn từ.
- Trong lịch sử văn học không phải lúc nào cũng có thể xác định nhà
văn một cách cụ thể.
+) Trong buổi đầu của văn học, nhà văn đó là một tập thể. Bắt đầu ai đó
xướng lên một câu ca, một câu chuyện kể, rồi được lưu truyền và sửa chữa...
Tác giả tập thể đã làm nên bộ phận văn học đầu tiên của nhân loại : văn học
dân gian. Trong văn học dân gian có nụ cười và nước mắt, có nỗi buồn và niềm
vui. Nhưng đó là nỗi buồn, niềm vui, nụ cười, nước mắt của con người nói
chung chứ không phải cái nhìn một cá nhân cụ thể nào đó. Cho nên chưa nói
đến phong cách cá nhân, cá tính sáng tạo, hay một nhà văn cụ thể trong văn
học dân gian.
+) Lại không ít tác phẩm văn học đã từng do một nhà văn cụ thể nào đó
sáng tác. Nhưng vì những lí do nào đó đã không ghi tên tác giả. Những tác
phẩm nay được gọi là vô danh hay khuyết danh. Văn học Việt Nam đã từng biết
đến những tác phẩm khuyết danh khá nổi tiếng như Nhị độ mai, Phan Trần,
Thạch Sanh, Trê Cóc...
+) Cùng với chữ viết ra đời, tên tuổi của các nhà văn mới được ghi dấu
thật sự lên tác phẩm của mình. Lịch sử văn học đã ghi nhận nhà văn với tư
cách một người sáng tác văn học chuyên nghiệp chỉ xuất hiện giai đoạn sau
của văn học. Các tên tuổi trong văn học Việt Nam chẳng hạn, vai trò nhà văn
xuất hiện kèm theo một chức danh khác trong đời.
1.2. Vậy nhà văn là ai ?
- Đã có không ít những công trình nghiên cứu công phu và nghiêm túc
nhằm trả lời câu hỏi nhà văn là ai. Có ý kiến đã tuyệt đối hóa họ như thánh
thần. Người Hi Lạp cổ đại cho rằng nàng thơ cũng như các nữ thần nghệ thuật
khác nhập vào ai thì người đó thành nhà thơ. Thần thoại Ấn Độ lại khẳng định
thần Brakhma đã từng dạy cho nhà thông thái Bratimuni biết làm thơ. Cho đến
ngay cả nhà triết học cổ đại Hi Lạp nổi tiếng là Platon vẫn cho rằng có được tài
năng nghệ thuật là do thần trợ. Và A. S. Pushkin, nhà thơ Nga vĩ đại ở thế kỉ
2
XIX, được xem là “mặt trời của thi ca Nga” đã không ngần ngại tuyên bố rằng
sáng tạo được là nhờ “trời đến gần ta”.
Lại có quan niệm về nhà văn có phần đơn giản. Rằng do chỗ mỗi người
đều mang trong mình mầm móng nghệ sĩ nên cứ rèn luyện bền bỉ và lâu dài
đều có thể thành nhà văn.
Hình như ở cả hai cách hoặc là đơn giản hóa nhà văn, hoặc là thần thánh
hóa nhà văn đều có thể gây cản trở để không lĩnh hội đầy đủ ý nghĩa của
những con người trong ngành sáng tạo đặc biệt này.
- Có thể nói nhà văn trước hết là một người có năng khiếu về văn học,
cũng như họa sĩ phải có năng khiếu về hội họa, nhạc sĩ phải có năng khiếu về
âm nhạc. Nếu không có năng khiếu văn học thì khó mà trở thành nhà văn
được. Ông Phạm Văn Đồng đã từng có ý kiến xác đáng về vấn đề này : "Làm
văn nghệ phải có khiếu, có tài... Tôi nghĩ hoạt động trong lĩnh vực đặc biệt
này, lĩnh vực văn học nghệ thuật mà không có tài, có khiếu, thì khó khăn lắm.
Làm các nghề khác, không có tài cũng có thể làm được việc... Nếu không có
tài năng gì đặc biệt thì anh nên đi làm việc khác, chứ làm văn nghệ, khổ lắm".
+) Nói tới năng khiếu là nói tới khả năng đặc biệt về một lĩnh vực nào
đó. Năng khiếu văn học là khả năng đặc biệt về sáng tạo văn học. Năng khiếu
nhiều nhà văn bộc lộ từ rất sớm. Chẳng hạn G. Boccacio mới lên 6 tuổi đã sáng
tác. Bảy tuổi N.Nekrasov đã ứng tác được một bài thơ châm biếm. Tám tuổi A.
Pushkin đã nghĩ ra một vở hài kịch. Ở ta, từ nhỏ Mạc Đỉnh Chi đã được xem là
một thần đồng trong thơ văn. Lê Quí Đôn, Cao Bá Quát sáu tuổi đều đã biết
làm thơ. Trần Đăng Khoa làm thơ từ khi bảy tuổi.
+) Ngược lại không ít nhà văn khả năng văn học lại bộc lộ khá muộn.
W. Shakespeare sau khi đã trải qua nhiều nghề, ở tuổi 26 mới bắt đầu sáng tác.
J. Rousseau gần tuổi bốn mươi mới nghĩ rằng mình có thể trở thành nhà văn. L.
Tolstoi cũng ở tuổi 40 mới hình thành con người văn học...
- Năng khiếu văn học là gì?
+) Nói tới năng khiếu là nói tới một khả năng đặc biệt có ở một người
nào đó về một lĩnh vực nào đó. Có người có năng khiếu về toán, có người có
năng khiếu về ngoại ngữ. Lại có người có năng khiếu về tranh, về viết chữ, về
thể thao, hay chỉ đơn giản là công nghệ nào đó... Chính nhờ năng khiếu này mà
con người ta có thể trở thành tài năng trên lĩnh vực mình có năng khiếu.
+) Nhà văn có năng khiếu, tức là cũng có khả năng đặc biệt trong lĩnh
vực văn học. Loại năng khiếu đặc biệt này thường được bộc lộ trên các mặt sau
đây :
3
Thứ nhất, người có năng khiếu văn học cũng như năng khiếu nghệ thuật
nói chung thường là những người rất nhạy cảm. Nhà văn là người mà mọi chấn
động của xã hội, của con người anh ta đều nắm bắt được.
Nhà phê bình Hoài Thanh, đã hình dung ra Nguyễn Du là “người lặng
lẽ, ít nói, ít cười, ít cởi mở với đời nhưng tâm hồn thì lộng gió mười phương,
không chuyển động nào bên ngoài lại không vang sâu trong đó” (14; tr. 237 ).
Chính sự nhạy cảm này tác phẩm của ông nói được “những điều trong
thấy mà đau đớn lòng”. N. A. Gulaiev cũng nhận xét : “Điều làm cho người
nghệ sĩ thực thụ có tài năng khác với người thường là sự mẫu cảm đặc biệt, tính
xúc động về mặt cảm xúc cao. Những tình cảm vui buồn chiếm lĩnh toàn bộ
con người anh ta" (4; tr. 195)
Nghệ sĩ là một tâm hồn nhạy cảm với nỗi buồn vui cuộc đời. Nghệ sĩ,
nhà văn khi phản ánh hiện thực khách quan vào trang viết, vào tác phẩm của
mình không thể không thể hiện một cách thờ ơ lạnh lùng mà thể hiện bằng cả
tâm hồn. Nhà thơ Tố Hữu đã viết rằng : "Bài thơ hay làm cho người ta không
còn thấy câu thơ, chỉ còn cảm thấy tình người. Quên rằng đó là tiếng nói của
ai, người ta thấy nó như tiếng ca từ lòng mình, như là của mình vậy” (6; tr.
444).
Người nghệ sĩ khi thể hiện lên trang giấy, nhiều khi rút từ đời mình ra.
Nên mỗi câu mỗi chữ, đều phập phồng nhịp đập của trái tim nhà văn.
Bà Trần Thị Sen, vợ nhà văn Nam Cao, kể lại, truyện ngắn Mua nhà của
Nam Cao là một chuyện xảy ra thực trong đời của nhà văn. Lần đó, vợ nhà văn
mua nhà của một người vợ chết, hay đánh bạc. Nam Cao biết, rầy la mãi về
chuyện này "Tính anh nhân hậu, rất thương người, nên xảy ra chuyện mua nhà
như vậy lòng anh ray rứt mãi" (Gặp gỡ bà Trần Thị Sen, vợ nhà văn Nam Cao,
Tạp chí Văn học, số 5. 1987, tr. 138). Điều ray rứt này sau đã được thể hiện
trong truyện ngắn Mua nhà của ông.
Tiễn con đi bộ đội, bà mẹ nói : “Ừ thì con đi đi”, nếu là người bình
thường, dễ dàng bỏ qua chữ “thì”. Nhưng với sự mẫn cảm đặc biệt của trái tim
thi sĩ, Nguyễn Khoa Điềm đã nhận ra nỗi dùng dằng của lòng mẹ nơi một chữ
thì chia ly này. Ông viết:
Có phải là thưa mẹ
Cho buổi con lên đường
Giao con làm chiến sĩ
Mẹ chỉ giữ chữ “thì”
Nối căn phòng mẹ ở
Với chân trời con đi
4
Nguyễn Khoa Điềm – Thưa mẹ con đi
Với trái tim giàu xúc động, nhà văn đã cất lên tiếng nói đúng lúc cần
thiết nhất. Và tình cảm của nhà văn càng chân thành, tha thiết bao nhiêu thì
càng rung động người đọc bấy nhiêu. Còn ở những trang viết thờ ơ, nhạt nhẽo,
dĩ nhiên là khó có thể tìm được tri âm.
Thứ hai, nhà văn có một trí tưởng tượng phong phú
Tưởng tượng là một phẩm chất tất yếu của bất cứ con người nào. Mác đã
từng cho rằng sự khác nhau giữa một người kiến trúc sư và con ong là chỗ khi
làm một cái nhà, bao giờ người kiến trúc sư cũng đã hình dung, tưởng tượng ra
trước ở trong đầu. Còn con ong thì làm tổ theo bản năng giống loài của nó.
Lênin cũng khẳng định : “Trong mọi sự khái quát dù đơn giản nhất trong một ý
niệm dù sơ đẳng nhất cũng có một mẫu của tưởng tượng” (Bút ký triết học).
Với nhà văn, tưởng tượng càng đặc biệt quan trọng. Pautovsky cho rằng
“Tưởng tượng là cội nguồn sáng tạo của nghệ thuật, là vầng thái dương vĩnh
cửu và là chúa Trời của nó”, “là đất đai mang vàng bạc đến cho thơ văn” (13;
tr.117). Còn Senysevsky xem “Cái chủ yếu trong tài năng nghệ thuật đó là cái
được gọi là sự tưởng tượng sáng tạo” (Dẫn theo 8; tr. 118). Pautovsky trong
Bông hồng vàng đã kể lại rằng : “Một lân giữa đám bạn bè E. Zola nói rằng
nhà văn không cần đến trí tưởng tượng. Công việc nhất thiết chỉ được dựa trên
sự quan sát chính xác. Như ở ông. Ở E. Zola. Maupassant có mặt lúc đó vặn lại
: “Thế cái việc ông viết những cuốn tiểu thuyết lớn chỉ dựa trên những tin đăng
báo và hàng tháng trời không bước ra khỏi nhà thì giải thích sao đây ?”. Zola
nín lặng. Maupassant cầm lấy mũ và ra đi. Việc bỏ về của ông có thể coi là
một cử chỉ nhục mạ, nhưng ông không sợ điều đó. Ông không cho phép ai, kể
cả Zola, phủ nhận trí tưởng tượng” (13; tr.176).
Nhà văn không thể sáng tạo được nếu không có tưởng tượng. Nhờ có
tưởng tượng mà Trần Đăng Khoa nhìn mặt trời và gió thổi như những con người
: "Ông mặt trời đạp xe qua đỉnh núi. Cô gió chăn mây trên đồng"... Tưởng tượng
đã giúp cho nhà văn Nguyễn Công Hoan viết ra "những chuyện bịa có thật" ở
nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám.
Trí tưởng tượng giúp nhà văn xâm nhập vào cuộc sống xung quanh, đi
sâu vào tâm hồn người khác, đặt ra trong óc mình bao tình huống có thể xảy ra
dựa trên kinh nghiệm sống mà mình đã trải qua, đã chiêm nghiệm. Từ đó mà
tìm lời giải đáp hay gởi gắm khát vọng của mình nơi những con người và cảnh
vật mà mình miêu tả. Tưởng tượng giúp nhà văn nhập thân, hóa thân vào con
người sự kiện mà nhà văn xây dựng. G. Flaubert tâm sự khi viết Bà Bovary :
“Hôm nay tôi là một người đàn ông và một người đàn bà cùng một lúc hai
5
người đang yêu. Tôi cưỡi ngựa đi dạo trong vườn, sau bữa ăn, mùa thu, và tôi là
những cành đầy lá vàng, là những chiếc lá, là gió, là tiếng nói và ánh nắng mặt
trời, ở đó mỗi tế bào của thân thể tôi đều chìm ngập trong hạnh phúc tình yêu
(Dẫn theo 1; tr. 284). Chính nhờ sự nhập thân này mà nhà văn có thể đưa đến
cho người đọc những nhân vật, hình tượng như nó đang tồn tại.
Nhà văn chỉ có thể tưởng tượng được phải dựa trên cơ sở thực tế. “Nếu
không có thực tế thì tưởng tượng cũng không thể tồn tại” (13; tr.178). B.
Xuscov cũng cho rằng : “Ngay khi người nghệ sĩ bịa đặt và vẽ vời một điều gì
đó mà anh ta cho là ở ngoài biên giới thực tại, thì anh ta chẳng qua cũng chỉ tái
tạo những bộ phận của cái chỉnh thể được gọi là thực tế” (18; tr. 13). Bụt,
tiên... trong văn học dân gian chẳng hạn, là những nhân vật hoang đường nhưng
nó cũng có những cơ sở thực tế của nó không chỉ ở chỗ thể hiện những khát
khao về lẽ phải, công bằng của con người mà chính ở những hình tượng ấy
mang những nét của con người.
Tưởng tượng nhà văn mang ý nghĩa thẩm mỹ. Nói là tưởng tượng nhưng
bao giờ cũng dựa trên niềm tin, chứ không nó sẽ thành trò chơi vô vị của trí óc :
Tố Hữu nói : "Văn chương là sáng tạo, là tưởng tượng, nhưng đừng nói dối, bịa
đặt những điều mình không nghĩ, không cảm chân thật”. (6; tr. 425).
Khi Chế Lan Viên viết: “Cho tôi được làm sóng dưới thân tàu đưa tiễn
Bác” thì chúng ta biết là tác giả tưởng tượng, vì câu chuyện Bác đã tìm đường
cứu nước đã lùi vào dĩ vãng, nhưng chúng ta vẫn xúc động, vì đó là cảm xúc
chân thành của nhà thơ đối với Bác khi tìm đường cứu nước.
Thứ ba : nhà văn có một khả năng quan sát tinh tế.
Với một tâm hồn nhạy cảm, giàu trí tưởng tượng, nhà văn còn phải là
người có khả năng quan sát tinh tế. Tô Hoài từng cho rằng : “Không phải tôi
riêng đề cao sự quan sát cần thiết hơn tư tưởng và từng trải. Nhưng quả là
muốn viết được phải biết lối quan sát để ấn sâu thêm trí nhớ, giúp cho sức
tưởng tượng” (5; tr.172). Pautovsky gọi khả năng quan sát ở nhà văn là “nghệ
thuật nhìn thế giới”. Người có khả năng quan sát là nhìn ra ở những sự vật
những điều mà người khác không thấy. Nhà điện ảnh Dovzenco nói rằng “Hai
người nhìn xuống, một người thấy vũng nước, người kia thấy những vì sao” là
cũng để nói lên vai trò quan sát đối với sáng tạo.
Nhờ khả năng quan sát tinh tế, mà Trần Đăng Khoa nhìn thấy ở loài
kiến có cả một thế giới riêng biệt với những đặc điểm riêng. Bài thơ Đám ma
bác Giun là sự cảm nhận đó:
Bác Giun đào đất suốt ngày
Trưa nay chết dưới bóng cây sau nhà
6
Họhàng nhà Kiến kéo ra
Kiến Con đi trước, Kiến Già theo sau
Cầm hương Kiến Cụ bạc đầu
Khóc than Kiến Cánh khoác màu áo tang
Kiến Lửa đốt đuốc đỏ làng
Kiến Kim chống gậy, Kiến Càng nặng vai
Đám ma đưa đến là dài
Qua những vườn chuối, vườn khoai, vườn cà
Kiến Đen uống rượu trong nhà
Đầy trời Kiến Gió bay ra chia buồn
Trần Đăng Khoa – Đám ma Bác Giun
Trần Đăng Khoa biết lắng nghe và phân biệt, được tiếng lá rơi nghiêng
(Ngoài thềm rơi cái lá đa. Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng...).Thấy được
nỗi đau ngày Bác mất đã biến cụ già thành trẻ nhỏ và trẻ nhỏ nghiêm trang
như cụ già (Trẻ con nghiêm trang như cụ già. Cụ già khóc như trẻ nhỏ).
Quan sát giỏi là nhà văn phải thấy ra được những nét chính, những đặc
điểm riêng của sự vật con người. Một nhà văn Pháp nói rằng : “Một trăm thân
cây bạch dương giống nhau cả trăm, một trăm ánh lửa giống nhau cả trăm .
Mới trông tưởng thế, nhưng trông kỹ thì cây bạch dương nào cũng khác nhau,
ngọn lửa nào cũng khác nhau”.
Không chỉ giỏi quan sát bên ngoài, nhà văn nhạy bén trong việc tự quan
sát. Họ lắng nghe những xúc động trong tâm hồn rồi thể hiện nói lên trang viết.
Khi Hữu Thỉnh viết
Một mình một mâm cơm
Ngồi bên nào cũng lệch...
là khi tác giả không chỉ hóa thân, mà còn lắng nghe được nỗi xúc động sâu xa
của người vợ xa chồng. Trong đó vừa cô đơn, vừa thủy chung và cũng rất đau
xót.
Chỉ có thể lắng nghe được tiếng nói bên trong mới quan sát bên ngoài
tinh tế được. Chỉ quan sát bên ngoài thì mới bộc lộ được thế giới bên trong của
mình.
Thứ tư, nhà văn cũng là người có trí nhớ tốt.
Trí nhớ là phẩm chất chung của con người. Nhờ có trí nhớ mà con người
ta ghi nhớ được những kinh nghiệm, những tri thức đã đạt được để tiến hành
các hoạt động của mình. Cũng nhờ có trí nhớ mà con người có thể tiến lên đạt
được những tri thức mới.
7
Đối với nhà văn, trí nhớ đặc biệt quan trọng. K. G. Paustovsky viết rằng
: “Một trong những yếu tố cơ bản để viết văn là trí nhớ tốt”. “Trí nhớ là cái rây
thần để cho cát bụi lọt qua nhưng giữ lại những vụn vàng” (13; tr.109, 222)
Nhiều nhà văn có trí nhớ rất đặc biệt. Gaida thuộc lòng cả truyện dài
Chú bé đánh trống (Theo 13; tr.140). H. Balzac nhớ rành rọt tên họ và cả tiểu
sử của hai nghìn nhân vật do ông xây dựng. J. W. Goethe có thể nhắc lại rành
rọt nội dung một tác phẩm định viết dở dang từ hơn ba mươi năm trước... Nhờ
có trí nhớ nhà văn sáng tác được. M. Gorky nói rằng : “Sáng tác chính là hoạt
động của trí nhớ một cách căng thẳng đến mức rút ra trong vốn tri thức ấn
tượng của nhà văn những việc, những cảnh, những tình tiết nổi bật”.
Trí nhớ của nhà văn chủ yếu ghi lại những ấn tượng, cảm xúc những
việc, những cảnh, những người, những ấn tượng đọng lại trong nhà văn thành
những kỷ niệm da diết, rồi một lúc nào đó mà vụt lên thành những hình tượng
tác phẩm. Hồi ức về con sông quê hương bỗng ùa dậy mãnh liệt giúp cho Tế
Hanh viết thành công bài thơ Nhớ con sông quê hương.
Thứ năm, nhà văn là người có trí tuệ sắc bén.
Đã không ít người xem có một trí tuệ sắc bén là có hại đối với sáng tạo
nghệ thuật. Nhưng thật sự đã là một nhà văn phải có năng lực trí tuệ. Tầm tư
tưởng cao sẽ là tầm nhìn của nhà văn về con người và cuộc đời. Nhờ đó mà
nhà văn có thể nhìn ra được những nét bản chất nhất của hiện thực, lý giải và
cắt nghĩa được bản chất của nó.
Nhà tư tưởng thường đi đôi với nhà văn. Một mặt họ vừa phải là con
người giàu xúc động, nhưng mặt khác trí tuệ phải sắc bén. Tố Hữu đá có lần
nói : “Đốt cháy trái tim đến thành trí tuệ, đó là Hitmét. Đốt cháy trí tuệ đến
thành trái tim, là Brêch đây rồi” (Tạp chí Văn học số 1.1973). Đó cũng là mối
quan hệ giữa tình cảm và lý trí trong bản thân con người nhà văn.
Thứ sáu,sáng tạo văn học bao giò cũng ghi đậm dấu ấn cá tính sáng tạo
của nhà văn.. Mỗi nhà văn có tài đều có một giọng văn riêng, không dễ gì lẫn
với ai. Đọc văn Nguyễn Tuân ta thấy một lối văn cẩn trọng, tỉ mỉ mà pha chút
khinh bạc. Còn lời văn của Xuân Diệu bao giờ cũng ào ạt, mãnh liệt, tuôn trào
cảm xúc. Văn của Nam Cao đầy những triết luận lại pha chút đắng cay, chua
xót. M.B.Khravtsenco cho rằng: "Những người sành sõi về văn học có thể căn
cứ vào những đặc điểm về giọng điệu của một đoạn văn tự sự nhất định mà họ
chưa hề biết hoặc căn cứ vào mấy dòng của một bài thơ mới lạ để xác định tác
giả của những tác phẩm ấy". Ở một chỗ khác, ông cho rằng: "Với tư cách là một
hiện tượng phong cách, ngôn ngữ nghệ thuật thực hiện một chức năng phức tạp,
nó tạo ra hệ thống giọng điệu của tác phẩm". Vì thế mà qua lời văn nghệ thuật
8
có thể nhận xét giọng văn của từng người, cho giọng văn của người này lạnh
lùng, giọng văn của người kia đằm thắm trữ tình v.v... Tác giả không tạo được
giọng văn riêng thì khó mà trở thành nhà văn thực sự. Đúng như A.Tsekhov đã
nhận xét: "Nếu tác giả không có lối nói riêng của mình thì người đó không bao
giờ là nhà văn cả... Nếu anh ta không có giọng riêng, anh ta khó trở thành nhà
văn thực thụ".
Nhà văn sáng tạo ra tác phẩm đồng thời sáng tạo ra lời văn của mình,
tạo nên "hơi văn", văn khí" hay nói như bây giờ là tạo nên "giọng văn" của
mình. Cảm nhận được cá tính sáng tạo là một cơ sở quan trọng để hiểu nhà
văn.
Có năng khiếu là quan trọng, nhưng đó chỉ mới là yếu tố “cần” chứ chưa
“đủ”. Từ năng khiếu đến tài năng nghệ thuật còn là một quá trình rèn luyện
lâu dài và gian khổ của nhà văn. Nhà văn phải tích lũy thêm vốn sống, vốn
chính trị, vốn nghề nghiệp, vốn văn hóa...Đó là những yếu tố hết sức cần thiết
để trở thành một tài năng văn học. Nhà văn chỉ trở thành một tài năng nghệ
thuật thật sự khi tạo được cho mình một phong cách nghệ thuật độc đáo.
CÂU HỎI HƯỚNG DẪN HỌC TẬP:
1. Nhà văn là ai?
2. Nhà văn có những phẩm chất gì?
3. Năng khiếu văn học là gì? Hãy phân tích năng khiếu của một nhà văn cu
thể mà anh (chị) biết.
1
2. PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT CỦA NHÀ VĂN
2.1. Các quan niệm khác nhau về phong cách nghệ thuật của nhà văn là gì ?
Có nhiều người hiểu phong cách khác nhau.
-) Raxun Gamzatov trong cuốn Đaghestan của tôi, (NXB Cầu vồng,
Matxcova, 1984), mục Bút pháp đã cho rằng:
“Dù bài thơ thể hiện ý tứ dộc đáo đến đâu, nó cũng nhất thiết phải đẹp.
Không chỉ đơn là đẹp mà còn đẹp một cách riêng. Đối với nhà thơ, tìm cho ra
bút pháp của mình và thấy được mình- nghĩa là trở thành nhà thơ”. (Sđd,
tr.166).
“Giờ đây, khi tôi đã ngoài 40 tuổi, tôi ngồi trước 40 cuốn sách của tôi,
lật lật xem qua và thấy rằng trên cánh đồng gieo lúa mì của tôi đã có những
thứ cây từ cánh đồng lan sang, những thú cây mà tôi không gieo”(Sđd, tr.166).
-) Trong Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học (NXB Tác
phẩm mới, H. 1978) B. Khrapchenco đã đưa ra nhiều định nghĩa về phong cách
tiêu biểu cho nhiều quan niệm khác nhau. Chẳng hạn D. Likhachev, A.
Grogorian, V. Turbin, V. Jirmunsky, V. Kôvalev, L. Novichenco, V. Dneprov,
Ya. Elsberg, R. Yakobson...Khrapchenco cho rằng các định nghĩa này xòe ra
như một cái nan quạt mà một phía thì thừa nhận phong cách là một phạm trù
lịch sử-thẩm mĩ rộng nhất, bao quát nhất, nhưng một phía khác lại coi phong
cách như một đặc điểm riêng của từng tác phẩm văn học.
Khrapchenco viết: “Hiện đang tồn tại một số lượng rất lớn những định
nghĩa khác nhau về phong cách văn học. Những định nghĩa này xoè ra như cái
quạt giữa sự thừa nhận phong cách là một phạm trù lịch sử – thẩm mỹ rộng
nhất, bao quát nhất và sự nhìn nhận nó như những đặc điểm của những tác
phẩm văn học riêng lẻ. Nếu như chỉ giới hạn ở những ý kiến về vấn đề đó,
những ý kiến chủ yếu được nêu lên vào thời gian gần đây thì phải thừa nhận
rằng có rất nhiều sắc thái trong sự bất đồng ý kiến”.
Cuối cùng, Khrapchenco cũng nêu lên định nghĩa khái quát: “Nếu như dùng
một công thức vắn tắt thì phong cách cần phải được định nghĩa như thủ pháp
biểu hiện cách khai thác hình tượng đối với cuộc sống, như thủ pháp thuyết phục
và thu hút độc giả”.
-) Phương Lựu đưa ra khái niệm về phong cách trong bộ sách Lý luận
văn học. Sau đó ông viết lại trong sách Từ điển văn học, NXB KHXH .
H.1984,tập II như sau:
“Phong cách là chỗ độc đáo mang phẩm chất thẩm mỹ cao được kết tinh
trong sự sáng tạo của nhà văn. Không phải bất cứ nhà văn nào cũng tất yếu có
2
phong cách, mặc dù nói cho cùng nhà văn nào cũng có đặc điểm. Song đặc
điểm mờ nhạt chưa đủ, phải là chỗ thật độc đáo không thể thay thế được mới
làm nên phong cách. Chỉ cần lặp đi lặp lại đã gọi là đặc điểm, nhưng phong
cách, tuy cũng đòi hỏi sự bền vững, không chấp nhận sự chóng phai mờ, nhưng
phải là sự lặp đi lặp lại một cách đổi mới”(Sđd, tr.214).
-) Trong Từ điển thuật ngữ văn học (NXB Giáo dục, Hà Nội, 1992) các
tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên đã định nghĩa:
“Phong cách nghệ thuật là một phạm trù thẩm mĩ, chỉ sự thống nhất
tương đối ổn định của hệ thống hình tượng, của các phương tiện biểu hiện nghệ
thuật,nói lên cái nhìn độc đáo trong sáng tác của một nhà văn, trong tác phẩm
riêng lẻ, trong trào lưu văn học hay văn học dân tộc. Phong cách khác phương
pháp sáng tác ở sự thực hiện cụ thể trực tiếp của nó: các dấu hiệu phong cách
dường như nỗi lên trên bề mặt tác phẩm, như là một thể thống nhất hữu hình và
có thể tri giác được của tất cả mọi yếu tố cơ bản của hình thức nghệ thuật.
Trong nghĩa rộng, phong cách là nguyên tắc xuyên suốt trong việc xây dựng
hình thức nghệ thuật, đem lại cho tác phẩm một tính chỉnh thể có thể cảm nhận
được, một giọng điệu và sắc thái thống nhất.Với ý nghĩ này người ta phân biệt
các “phong cách lớn”, hay còn gọi là “phong cách thời đại”, các phong cách
của các trào lưu và dòng văn học, phong cách dân tộc, phong cách cá nhân của
tác giả”(Sđd, tr.70, 71).
-) Oâng Lại Nguyên Aân trong Từ điển văn học (bộ mới) NXB Thế giới, Hà
Nội, 2005), đã định nghĩa như sau:
“Khái niệm chỉ những nét chung, tương đối bền vững của hệ thống hình
tượng, của các phương thức biểu hiện nghệ thuật, tiêu biểu cho bản sắc sáng
tạo của một nhà văn, một tác phẩm, một khuynh hướng văn học, một nền văn
học dân tộc nào đó (Sđd, tr. 1472).
- ) Ông Phan Ngọc trong cuốn Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong
truyện Kiều, (NXB Thanh niên tái bản,2003), đã khẳng định : “Phong cách là
một cấu trúc hữu cơ của tất cả các kiểu lựa chọn tiêu biểu, hình thành một cách
lịch sử và chứa đựng một giá trị lịch sử có thể cho phép ta nhận diện một thời
đại, một thể loại, một tác phẩm, hay một tác giả” (Sđd, tr.31).
Tóm lại, mỗi người đã đưa ra một khác nhau, nhưng nhìn chung vẫn
điểâm chung. Đó là nét sáng tạo độc đáo mà ta sẽ phân tích ở mục sau.
2.2. Phong cách nghệ thuật:
- Khái niệm phong cách có nguồn gốc từ thuật “stylos” (Hy lạp),
“stylus”(La Mã), “Style” (Pháp)…Lúc đầu thuật ngữ này được hiểu là “nét
chữ”, “bút pháp”. Sau đó mới có nghĩa là “phong cách”.
3
Phong cách nghệ thuật thường được hiểu theo hai nghĩa :
- Thứ nhất nói tới phong cách là nói tới đặc điểm sáng tạo, nói tới văn
phong của mỗi nhà văn. Theo nghĩa này nhà văn dù ít, dù nhiều đều có phong
cách.
- Thứ hai nói tới phong cách là nói tới những nét riêng, độc đáo mới lạ
nổi bật của nhà văn, giúp cho người đọc nhận ra diện mạo sáng tạo của nhà văn
không lẫn với các nhà văn khác. Nét riêng này tạo nên phẩm chất thẩm mĩ
nghệ thuật của nhà văn. Nét riêng, độc đáo này phải “được lặp đi lặp lại”, tạo
nên “tính ổn định” trong phong cách của nhà văn. Mặt khác nét riêng đó cũng
phải luôn luôn được đổi mới không lặp lại, không sáo mòn. Do đó đòi hỏi phải
có tính nghệ thuật cao. Theo nghĩa này, thì không phải nhà văn nào cũng có
phong cách. Chỉ những nhà văn thực sự có tài, thực sự có bản lĩnh nghệ thuật
cao mới có phong cách.
Ở đây chú ý biểu hiện của phong cách:
+) Mỗi nét phong cách phải một điểm độc đáo, mới lạ, không hề lẫn với
ai. Ví dụ Xuân Diệu có một nét rất độc đáo là một khát vọng sống mãnh liệt,
nồng nàn.
+) Nhưng nét độc đáo phải ổn định, ở tác phẩm nào cũng có, thống nhất.
Yếu tố giúp chúng ta nhận ra nét chủ yếu của phong cách nhà văn. Chẳng han
khát vọng sống vọng sống của Xuân Diệu ở tác phẩm nào cũng phải mãnh liệt,
nồng nàn.
+) Cái ổn định phải luôn luôn đổi mới. Nghĩa là, cái ổn định trong nó
phải có cái mới, không lặp lại.
+) Phong cách mang phẩm chất thẫm mĩ, nó phải mang tới cho người đọc
một sự hưởng thụ mĩ cảm cao.
Như vậy, có thể nói phong cách của nhà văn là những đặc điểm tư tưởng
nghệ thuật độc đáo của nhà văn có ý nghĩa thẩm mĩ và có tính chất ổn định tạo
ra diện mạo tính thần riêng của nhà văn đó.
Ta có thể nói tới phong cách nghệ thuật của Nguyễn Du, Hồ Xuân
Hương, Cao Bá Quát, của Nam Cao, Xuân Diệu, Nguyễn Tuân, Vũ Trọng
Phụng... Ở những nhà văn này đã có những đặc điểm nghệ thuật người đọc có
thể hình dung ra được chân dung nghệ thuật của họ. Hơn thế nữa, tiếp nhận sự
độc đáo của họ như tiếp nhận một phẩm chất thẩm mĩ - nghệ thuật.
2.3. Phong cách nghệ thuật của nhà văn và phong cách sống.
- Phong cách nghệ thuật của nhà văn không đồng nghĩa với phong cách
sống. Phong cách nghệ thuật không phải là lối sống, là đặc điểm về thế giới
quan, thói quen... của nhà văn ở ngoài đời. Nhưng nhân tố này là những nhân
4
tố hình thành nên phong cách hoặc ảnh hưởng đến phong cách chứ không phải
bản thân phong cách.
- Lịch sử văn học nhân loại đã chứng minh nhiều nhà văn phong cách
văn học rất khác với phong cách sống. Đó là hai phạm trù khác nhau, có tác
động lẫn nhau, chứ không thể nói là đồng nhất với nhau. Trường hợp Vũ Trọng
Phụng là một ví dụ tiêu biểu.
2.4. Biểu hiện của phong cách nghệ thuật của nhà văn
Phong cách nghệ thuật của nhà văn chỉ được xem xét qua tác phẩm. Nó
bộc lộ trong toàn bộ các yếu tố của tác phẩm. Nó bộc lộ từ việc dùng từ đặt
câu cho tới việc xây dựng nhân vật, cách kể chuyện, từ việc lựa chọn các chi
tiết cho tới việc tổ chức cốt truyện, từ hệ thống vấn đề cho tới nội dung tư
tưởng của tác phẩm... Ở phương diện nào nhà văn cũng có thể chứng tỏ dấu ấn
cá tính sáng tạo của mình, tức là bộc lộ phong cách nghệ thuật.
- Người ta có thể nói tới phong cách ở cái cảm xúc rào rạt, mạnh mẽ của
Xuân Diệu mà cũng có thể nói tới phong cách dùng từ rất dụng công của
Nguyễn Tuân. Người ta có thể nói phong cách ở thể tài chính trị của thơ Tố
Hữu hay ở cái "hồn thơ" ở các nhà Thơ mới như Hoài Thanh đã tổng kết :
"Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ rộng mở như
Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng
như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kỳ
dị như Chế Lan Viên... và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu...” (15;
tr 17. ).
Có thể nói không một yếu tố nào trong tác phẩm lại không bộc lộ phong
cách. Nghiên cứu phong cách nghệ thuật của nhà văn là qua tác phẩm chứ
không phải ở phong cách sống.
Nhà văn tạo cho mình có phong cách tức là đã tạo cho mình một chỗ
đứng trong văn học. Nền văn học càng phát triển thì các phong cách càng đa
dạng, phong phú. Nền văn học càng yếu kém là nền văn học không có phong
cách cá nhân. Trong những thời đại văn học phát triển, có nhiều phong cách
gần gũi nhau, mang dấu ấn thời đại “phong cách thời đại”.
Phong cách thể hiển ở nhiều yếu tố của tác phẩm như đề tài, chủ đề, kết
cấu, nhân vật, chi tiết, tình tiết, truyện, cốt truyện, ngôn từ, cách kể
chuyện…Chẳng hạn như đề tài nổi bật của thơ Tố Hữu là trữ tình chính trị, còn
đề khác không nổi bật như tình yêu. Ngược lại Xuân Diệu mạnh về đề tài tình
yêu, còn các đề tài không nổi bật được bao nhiêu.
2.5. Phong cách và các phạm trù khác của khoa nghiên cứu văn học.
5
2.5.1. Phong cách của tác phẩm văn học. Như đã trình ở trườc, tác phẩm
có bao nhiêu yếu tố thì có bấy nơi cho phong cách bộc lộ. Những yếu tố tạo
thành phong cách trong tác phẩm bao gồm: chủ đề, đề tài, ngôn ngữ, giọng
điệu…. Phong cách là sự thống nhất biện chứng giữa nội dung và hình thức của
tác phẩm.
Phân biệt phong cách tác phẩm và thi pháp tác phẩm cũng có điểm khác
nhau. Phong cách là chỉ những đặc điểm độc đáo của nhà văn. Còn thi pháp là
chỉ những nguyên tắc nghệ thuật của nhà văn đó. Thi pháp là hệ thống các
nguyên tắc sáng tạo của một nhà văn, một thời đại văn học hay một thể loại
văn học nào đó.
Điều này đã được nhiều nhà nghiên cứu khẳng định :
+) Như vậy thi pháp thực chất là hệ thống các nguyên tắc các phương
tiện biểu hiện nghệ thuật chi phối, quy định sáng tạo của tác giả hay của thời
đại văn học, thể loại văn học nào đó.
+) Ở đây cần chú ý rằng đã nguyên tắc thì nguyên tắc đó phải trở thành
hệ thống mới gọi là thi pháp.
Có thể phân tích một số ví dụ để thấy rõ điều này. Chẳng hạn một trong
những đặc điểm quan trọng của thi pháp truyện cổ tích thần kỳ theo Nôvicôva
là : “xung đột trong truyện bao giờ cũng được giải quyết nhờ sự giúp đỡ của
các lực lượng thần kỳ, của những trợ thủ thần kỳ, còn nhân vật chính thì tư
tuởng đối thụ động” . Đặc điểm này tạo nên một nguyên tắc của truyện cổ tích
thần kỳ mà không có ở thể loại khác. Ví dụ như xung đột giữa anh trai cày và
lão phú ông trong cây tre trăm đốt thì do “ông lão đầu tóc bạc phơ” đứng ra
giải quyết. Còn anh trai cày thì rất thụ động chỉ biết “khóc”. Hành động tích
cực duy nhất là hô “khắc nhập, khắc xuất” thì cũng là hành động do lực lượng
thần kỳ trợ giúp. Truyện hiện đại không giải quyết xung đột theo kiểu này.
Không ai lại đi chờ một lực lượng siêu nhiên nào đó.
Nguyên tắc thời gian không định lượng và không định tính trong truyện
cổ tích cũng là một đặc điểm thi pháp quan trọng. Các thước đo thời gian cũng
chưa được áp dụng trong truyện cổ tích. Nhân vật truyện cổ tích không có tuổi.
Nào ai biết cô Tấm bao nhiêu tuổi, nào ai biết chàng hoàng tử, hay người đẹp
ngủ trong lâu đài bao nhiêu tuổi. Nếu ai đó sưu tầm truyện cổ mà kể rằng nàng
công chúa hai mươi tuổi, rằng mụ phù thủy tuổi trạc bốn mươi... thì sẽ thấy
buồn cười. Người ta chỉ có thể đoán biết họ qua tên gọi mà thôi. Đấy là một
mụ già, một ông lão, một cô gái, một chàng trai, một đứa trẻ... Chứ không ai
lại đi kể tuổi của nhân vật cổ tích.
Thước đo thời gian cũng không mấy khi áp dụng để diễn tả độ lâu và
khoảng cách giữa các sự kiện. Chẳng hạn từ khi Tấm vào cung cho đến ngày
6
về giỗ bố thời gian bao lâu không ai biết. Tấm sống bao lâu với bà lão hàng
nước thì gặp vua cũng không ai hay. Cho nên trong cách kể của truyện cổ tích,
chúng ta thấy rất nhiều trạng từ thời gian không xác định được sử dụng như :
một hôm, hôm ấy, bữa kia, ngày nọ, ít hôm sau, mấy hôm sau, một lần, lần nọ...
Chỉ ở những truyện khoảng thời gian trở thành một yếu tố của cốt truyện không
thể thiếu thì mới được xác định. Chẳng hạn như lời phán truyền : công chúa
ngủ trong một trăm năm thì có người đến thức dậy, sau nửa đêm nàng Lọ Lem
phải trở về, anh trai cày làm thuê cho lão nhà giàu ba năm, Lưu Nguyễn gặp
Tiên và sống với tiên giới bảy năm... Các truyện vừa kể thời gian có vai trò
như là một yếu tố xác định của cốt truyện, thiếu nó cốt truyện không lý giải
được. Còn ở các truyện khác nói chung thời gian ít xác định về mặt định lượng
cũng như định tính.
Cách kể dân gian khá quen thuộc của truyện cổ tích thường bắt đầu là
“ngày xửa, ngày xưa”, “ngày xưa” hay có vùng thì bắt đầu là “đời sơ, đời
sắc”... Chẳng hạn : “Ngày xưa có một anh chàng ngốc nghếch, đần độn...”
(Truyện Làm theo lời vợ dặn), “Xưa có một nhà hiếm hoi, sinh được một đứa
con thì lại là một con cóc” (Truyện Lấy vợ cóc)... Với cách kể này, truyện cổ
tích được quá khứ hóa, câu chuyện được đẩy lùi vào quá khứ xa xưa, tạo ra
khoảng cách khá xa giữa thời gian trần thuật và thời gian được trần thuật, góp
phần tạo nên tính chất cổ xưa của truyện. Do đó khi đọc truyện cổ tích, nếu
thấy được bắt đầu bằng “ngày xửa, ngày xưa” hay “xưa”, “ngày xưa”... thì
không nên xem đó như là một sáo ngữ, mà phải thấy đấy là một nét độc đáo
của thi pháp truyện kể dân gian, nhằm tạo dựng, ước định tính chất cổ xưa của
truyện, và vì thế mới gọi là “truyện cổ”. Trong một số sách sưu tầm truyện cổ
dân gian gần đây ở nhiều truyện người ta đã bỏ lối kể này, thay vào đó lối kể
hiện đại hơn. Về thực chất với lối kể đó đã đi xa đặc trưng thể loại, làm mất đi
tính cổ xưa vốn có của truyện.
- Thế thì tại sao không gọi là văn pháp mà gọi là thi pháp ? Có ý kiến đã
giải thích : “Thuật ngữ khoa học bao giờ cũng mang tính chất ước lệ. Chữ “thi”
ở đây chỉ toàn bộ văn học, dấu ấn của một thời xa xưa, khi không chỉ là thơ trữ
tình mà cả sử thi kịch đều viết bằng lời thơ”. (Trần Đình Sử, Thi pháp Thơ Tố
Hữu, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội, 1987, trang 10).
Còn phong cách cũng nghiên cứu các nguyên tắc nghệ thuật, nhưng chỉ
chú ý đến những nguyên tác độc đáo mà thôi. Chẳng hạn nghiên cứu Nguyễn
Minh Châu ta thấy thế giới nhân vật của ông là nhân vật dị thường. Thế giơi đó
tao nên một nét phong cách của ông.
7
2.5.2. Phong cách cá nhân được quy định bởi cá tính sáng tạo của nhà
văn và hình tượng tác giả. Hình tượng tác giả với tư cách là yếu tố chủ đạo
quyết định phong cách nhà văn và phong cách tác phẩm văn học.
2.5.3. Phong cách của trào lưu, trường phái và khuynh hướng văn học. Ví
dụ: phong cách của chủ nghĩa cổ điển, phong cách của chủ nghĩa lãng mạn…Ở
ta, phong cách tương đối phát triển như phong cách của phong trào Thơ mới,
thơ chống Mỹ…
Bên cạnh đó, khái niệm phong cách dân tộc và phong cách thời đại cũng
cần được chú ý. Trong văn học nước ngoài ta đã biết đến phong cách thời đại
Phục hưng, phong cách thế kỷ Aùnh sáng, phong tộc dân tộc Nga…
2.5.4. Nghiên cứu phong cách theo phương pháp loại hình. Vấn đề tính
cộng đồng loại hình về phong cách trong văn học là vấn đề cần nghiên cứu.
Một số loại hình phong cách trong văn học Việt Nam đã rõ. Khẳng định
loại hình về phong cách trong văn học Việt Nam; đồng thời nhấn mạnh tính
độc đáo không lặp lại của từng phong cách cá nhân. Nó thể hiện tính qui luật
của sự ổn định và thay đổi về phong cách trong văn học Việt Nam hiện
đại.Tiêu biểu cho phong cách vừa biến dổi, vừa ổn định là các nhà văn, nhà thơ
như Huy Cận, Nguyễn Tuân, Chế Lan Viên…
*) Vào những năm bốn mươi của thế kỷ hai mươi, khi đọc thơ Huy Cận,
nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã nhận xét rằng:“Huy Cận triền miên trong
cảnh xưa, trò chuyện với người xưa, luôn luôn đi về trên con đường thời gian vô
tận”. Hơn thế nữa, theo nhà phê bình, Huy Cận là người viết nên những vần
thơ ão não, là người đã“khơi lại cái mạch sầu mấy nghìn năm vẫn ngấm ngầm
trong cõi đất này”(15; tr. 137).
Những năm sau Cách mạng khi “trời mỗi ngày lại sáng” (Tên một tập
thơ của Huy Cận, 1958) hồn thơ Huy Cận không còn “sầu vạn kỉ” nữa, mà tươi
lại với “bài thơ cuộc đời”. Tuy vậy, hồn thơ ông vẫn nối mạch với thi cảm ngày
xưa, vẫn trò chuyện với người xưa.
*) Nguyễn Tuân đã trải qua nhiều thể loại như thơ, bút ký, truyện ngắn
trào phúng. Nhưng mãi đến đầu 1938 ông mới nhận thể tài của mình là truyện
ngắn và đặc biệt là tuỳ bút, bút ký.
-) Trước cách mạng tháng Tám, tác phẩm của ông tập trung vào ba đề tài
là chủ nghĩa xê dịch, vẻ đẹp vang bóng một thời và đời sống truỵ lạc.
+) Chủ nghĩa xê dịch chủ trương đi không mục đích, chỉ luôn luôn thay
đổi chỗ để tìm cảm giác mới lạ và thoát ly mọi trách nhiệm đối với gia đình và
xã hội. Nguyễn Tuân tìm đến lý thuyết này trong tâm trạng bất mãn và bất lực
trước thời cuộc. Nhưng viết về chủ nghĩa xê dịch, Nguyễn Tuân có dịp bày tỏ
tấm lòng thiết tha với cảnh sắc và phong vị đất nước.
8
+) Nguyễn Tuân là người đi vẻ đẹp của quá khứ mà ông gọi là vang
bóng một thời. Đó là thời phong kiến đã qua, nhưng dư còn vang vọng. Oâng
không viết về tư tưởng và đạo đức cũ, mà mô tả vẻ đẹp riêng của thời xa xưa
với những phong tục đẹp, những tiêu dao hưởng lạc lành mạnh và tao nhã...
+)Nguyễn Tuân cũng hay viết về đề tài đời sống truỵ lạc. Ở những tác
phẩm này, người ta thấy có một nhân vật tôi hoang mang, bế tắc, tìm cách
thoát ly trong đàn hát, trong rượu và thuốc phiện.Trong tình trạng khủng hoảng
tinh thần ấy, người ta thấy đôi khi vút lên từ cuộc đời nhem nhuốc, phàm tục,
niềm khát khao một thế giới tinh khiết, thanh cao được nâng đỡ trên đôi cánh
của nghệ thuật.
- )Sau cách mạng tháng Tám, tác phẩm của tập trung miêu tả hình tượng
nhân dân lao động và người chiến sĩ trên mặt trận vũ trang. Nhưng dưới ngòi
bút đầy tài hoa của ông hiện lên không chỉ là những con người dũng cảm, mà
còn là những con người tài hoa, nghệ sĩ.
Nguyễn Tuân có một phong cách rất độc đáo và sâu sắc. Phong cách ấy
có thể thâu tóm trong mấy chữ phóng túng, tài hoa và uyên bác. Oâng xứng đáng
là một nhà văn lớn của dân tộc ở thể kỷ XX.
*) Mười bảy tuổi, với tập Điêu tàn, Chế Lan Viên xuất hiện giữa làng
thơ Việt Nam như một “niềm kinh dị” (Hoài Thanh). Từ đó cho đến cuối đời
ông đã có nhiều tập thơ, bài thơ in dấu vào lòng bạn đọc nhiều thế hệ như Ánh
sáng và phù sa (1960), Hoa ngày thường – Chim báo bão (1967), Những bài thơ
đánh giặc (1972), Đối thoại mới( 1973), Hoa trước Lăng Người (1976) Hái theo
mùa(1977), Hoa trên đá (1984), Ta gửi cho mình ( 1986)...
Chế Lan Viên là một nhà thơ có phong cách. Ông đã tạo được gương
mặt riêng của thơ mình trong lịch sử văn học. Đó là phong cách của một hồn
thơ mang vẻ đẹp của trí tuệ, của chất suy tưởng. Thơ ông đầy những triết luận,
những chiêm nghiệm về người, về đời. Có khi những triết luận ấy trở thành
chất chính luận như trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ.
Con đường thơ của Chế Lan Viên gắn liền với những buồn vui, thăng
trầm của đất nước.Trước Cách mạng thơ ông đầy những buồn đau. Đó là nỗi
buồn đau của một con người “làm bóng ma Hời sờ soạng đêm mơ” khóc cho
những Tháp Chàm đổ nát và hoang vắng, để đau cho một dân tộc bị tiêu diệt.
Đó cũng là nỗi buồn đau của một con người muốn trốn chạy khỏi cuộc đời để
nương tựa vào “một tinh cầu giá lạnh, một vì sao trơ trọi cuối trời xa” để quên
đi những ưu phiền, đau khổ, buồn lo mà không được.
Những năm sau Cách mạng, hồn thơ Chế Lan Viên đã tươi lại với ánh
sáng của lí tưởng và phù sa của cuộc đời. Ông đã rời bỏ “tinh cầu giá lạnh” của
9
cái tôi cá nhân để đến với biển lớn nhân, ông đã đi từ thung lũng đau thương ra
cánh đồng vui và ông nhận ra mọi nơi trên mảnh đất của Tổ quốc đều cũng là
quê hương, máu thịt của mình đang gọi mọi người đi tới.
CÂU HỎI HƯỚNG DẪN HỌC TẬP:
1. Phong cách nghệ thuật của nhà văn là gì?
2. Biểu hiện của phong cách nghệ thuật của nhà văn ?
3. Yếu tố thẩm mỹ trong phong cách nghệ thuật của nhà văn được thể hiện
như thế nào? Cho một ví dụ minh hoạ.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nha_van_va_phong_cach_p1_6799.pdf
- nha_van_va_phong_cach_p2_9143.pdf