1. Nguyễn Hữu Huân được biết nhiều với danh hiệu Thủ Khoa Huân, là một sĩ phu yêu nước, một lãnh tụ khởi nghĩa chống thực dân Pháp ở các tỉnh Miền Đông Nam Kỳ, Việt Nam.
Ông sinh 1830 tại làng Mỹ Tịnh An, huyện Kiến Hưng, tỉnh Định Tường; nay là xã Hòa Tịnh, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang.
Thuở nhỏ ông rất thông minh và học giỏi. Năm 1852 (triều Tự Đức), ông dự thi Hương (kỳ thi xác định học vị Cử nhân) và đỗ đầu, nên được gọi là Thủ Khoa Huân. Sau đó, ông được bổ nhiệm làm Giáo thụ huyện Kiến Hưng, tỉnh Định Tường.
Khi Pháp xâm lược ba tinh miền Đông Nam kỳ (trong đó có tỉnh Định Tường quê ông), cũng giống như nhiều nhà nho yêu nước ở Nam kỳ, ông đã từ bỏ dạy học, cầm vũ khí đứng lên chống Pháp (năm 1860).
Năm 1861, ông cùng nghĩa quân hoạt động trên địa bàn từ Tân An đến Mỹ Tho. Đầu năm 1862, bị Pháp đánh úp, bắt và giải ông về Sài Gòn. Lựa lúc đối phương sơ hở, ông trốn thoát được. Đầu năm sau, ông cùng Võ Duy Dương chiêu mộ nghĩa binh để khởi nghĩa lần thứ hai.
Tháng 6 năm 1863, lúc ban đêm Pháp bất ngờ đem quân càn quét căn cứ Thuộc Nhiêu (Cai Lậy , Định Tường), ông chuyển về vùng Thất Sơn, An Giang tiếp tục đấu tranh. Pháp rất lo ngại nên gửi tối hậu thư, buộc Tổng đốc An Giang là Phan Khắc Thân phải giao nộp Thủ Khoa Huân cho họ làm tội, viện lẽ ông Huân không tuân theo hòa ước 1862. Án sát Phạm Hoàng Đạo hay tin tâu lên vua Tự Đức, xin đưa ngay Nguyễn Hữu Huân về Huế. Thế nhưng do áp lực của người Pháp, tháng 7 năm 1864, Tổng đốc Thân đã phớt lờ lệnh vua, bắt ông giao nộp cho thực dân [1]
6 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2426 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhà thơ chiến sĩ Nguyễn Hữu Huân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nhà thơ chiến sĩ Nguyễn Hữu Huân
Tượng Thủ Khoa Huân tại thành phố Mỹ Tho
1. Nguyễn Hữu Huân được biết nhiều với danh hiệu Thủ Khoa Huân, là một sĩ phu yêu nước, một lãnh tụ khởi nghĩa chống thực dân Pháp ở các tỉnh Miền Đông Nam Kỳ, Việt Nam.
Ông sinh 1830 tại làng Mỹ Tịnh An, huyện Kiến Hưng, tỉnh Định Tường; nay là xã Hòa Tịnh, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang.
Thuở nhỏ ông rất thông minh và học giỏi. Năm 1852 (triều Tự Đức), ông dự thi Hương (kỳ thi xác định học vị Cử nhân) và đỗ đầu, nên được gọi là Thủ Khoa Huân. Sau đó, ông được bổ nhiệm làm Giáo thụ huyện Kiến Hưng, tỉnh Định Tường.
Khi Pháp xâm lược ba tinh miền Đông Nam kỳ (trong đó có tỉnh Định Tường quê ông), cũng giống như nhiều nhà nho yêu nước ở Nam kỳ, ông đã từ bỏ dạy học, cầm vũ khí đứng lên chống Pháp (năm 1860).
Năm 1861, ông cùng nghĩa quân hoạt động trên địa bàn từ Tân An đến Mỹ Tho. Đầu năm 1862, bị Pháp đánh úp, bắt và giải ông về Sài Gòn. Lựa lúc đối phương sơ hở, ông trốn thoát được. Đầu năm sau, ông cùng Võ Duy Dương chiêu mộ nghĩa binh để khởi nghĩa lần thứ hai.
Tháng 6 năm 1863, lúc ban đêm Pháp bất ngờ đem quân càn quét căn cứ Thuộc Nhiêu (Cai Lậy , Định Tường), ông chuyển về vùng Thất Sơn, An Giang tiếp tục đấu tranh. Pháp rất lo ngại nên gửi tối hậu thư, buộc Tổng đốc An Giang là Phan Khắc Thân phải giao nộp Thủ Khoa Huân cho họ làm tội, viện lẽ ông Huân không tuân theo hòa ước 1862. Án sát Phạm Hoàng Đạo hay tin tâu lên vua Tự Đức, xin đưa ngay Nguyễn Hữu Huân về Huế. Thế nhưng do áp lực của người Pháp, tháng 7 năm 1864, Tổng đốc Thân đã phớt lờ lệnh vua, bắt ông giao nộp cho thực dân [1].
Vợ Thủ Khoa Huân là Lê Thị Lộc đã làm đơn kiện viên quan đầu tỉnh An Giang về việc đã không tuân theo chiếu chỉ, đồng thời đòi Pháp phải thả ngay chồng mình. Ở Sài Gòn, dù Pháp đem mọi thứ ra dụ dỗ nhưng ông vẫn kiên quyết chối từ. Cuối cùng, vào ngày 22 tháng 8 năm 1864, ông bị kết án 10 năm tù khổ sai và bị đày đi Cayenne, là một thuộc địa của Pháp ở Nam Mỹ.
Về sự việc này, Định Tường Thủ Khoa Huân tiểu truyện có đoạn: Năm Giáp Tý, chính quyền Pháp kết án Nguyễn Hữu Huân mười năm khổ sai, đày ra biển cả ở Nam Mỹ châu, tục gọi Cai Danh (tức Cayenne, thuộc Guyane). Trong Hồ sơ cá nhân Đỗ Hữu Phương cũng cho biết tương tự: Thủ Khoa Huân, dính líu trong một vụ phiến loạn, từng bị đày đi Cayenne[2].
Sau 5 năm tù, ngày 4 tháng 2 năm 1869, Pháp cho lệnh ân xá và đưa ông về quản thúc tại nhà Tổng đốc Đỗ Hữu Phương, đồng thời cử ông làm giáo thọ dạy bảo "sinh đồ" ở Chợ Lớn với hy vọng lôi kéo ông về phía họ. Nguyễn Hữu Huân lợi dụng điều kiện đi dạy học, liên lạc với các sĩ phu yêu nước và hội kín Hoa kiều Trường Phát, nhờ mua vũ khí để chuẩn bị khởi nghĩa.
Trong khi cuộc khởi nghĩa đang được chuẩn bị khẩn trương, nhờ do thám nên Pháp bắt được thuyền chở vũ khí. Trước tình hình bất lợi đó, ông ra lệnh giải tán, bí mật tìm đường về lại Mỹ Tho họp cùng Âu Dương Lân tiến hành khởi nghĩa lần thứ 3. Lần này dân chúng theo ông rất đông,trong số đó có cả một số hương chức, hội tề, địa chủ... địa bàn kháng chiến của ông kéo dài từ Mỹ Tho đến Mỹ Quý-Cai Lậy.
Đầu năm 1875, thất trận ở Bình Cách, Thủ Khoa cùng tùy tùng là Đốc binh Hương về Chợ Gạo, dự định quá giang thuyền buôn ra Bình Thuận cầu viện. Nhưng đốc binh Hương bị Trần Bá Lộc mua chuộc, đã dẫn quân bắt Nguyễn Hữu Huân ở Chợ Gạo ngày 15 tháng 05 năm 1875, rồi đem giam ông tại Mỹ Tho.
Sau bốn ngày dùng mọi mưu chước chiêu hàng không thành, Pháp kết án tử hình Nguyễn Hữu Huân. Trước khi thụ hình, ông nhắn vợ con tế sống mình trong một tuần và xin vải viết bài thơ tuyệt mệnh và hai câu đối để thờ.
Ngày 19 tháng 5 năm 1875 (âm lịch: 14 tháng 4 năm Ất Hợi), Pháp cho tàu chở ông xuôi theo dòng Bảo Định về Mỹ Tịnh An và hành quyết lúc 12 giờ trưa. Năm ấy ông 45 tuổi.
2. Tác phẩm
Chân dung Nguyễn Hữu Huân
Không rõ Thủ Khoa Huân có làm nhiều thơ hay không[3], nhưng chỉ bấy nhiêu bài còn lại sau đây, bài nào cũng bộc lộ được tinh thần bất khuất, kiên cường, dám xả thân vì nước Việt của ông.
Cho nên, Nguyễn Hữu Huân được ghi nhận là "một hiện tượng đặc sắc của văn học yêu nước thế kỷ 19 của Việt Nam: hiện tượng nhà thơ - chiến sĩ."[4]
Bài thơ chữ Hán dưới đây, ông làm trước khi bị chém, nay được tạc nơi bia mộ ông. Sau đây là bản dịch của Phan Bội Châu:
Ruổi dong vó ngựa trả thù chung
Binh bại cho nên mạng phải cùng.
Tiết nghĩa vẫn lưu cùng vũ trụ,
Hơn thua xá kể với anh hùng.
Nổi xung mất vía quân Hồ lỗ[5]
Quyết thác không hàng, rạng núi sông.
Tho thuỷ[6] ngày rày pha máu đỏ,
Đảo Rồng[7] hiu hắt ngọn thu phong.
Và:
Hai bên thiên hạ thấy hay không?
Một gánh cương thường, há phải gông.
Oằn oại hai vai quân tử trúc,
Long lay một cổ trượng phu tòng.
Sống về đất Bắc, danh còn rạng
Thác ở thành Nam, tiếng bỏ không
Thắng bại, doanh thâu trời khiến chịu
“Phản thần”,“đéo ỏa”[8] đứa cười ông!
Bài thơ ông làm nghe tin vợ dám đi kiện quan đầu tỉnh An Giang, và đòi Pháp thả chồng:
Xem qua thư gửi rất kinh hoàng
Nhi nữ chà chà cũng lớn gan
Đơn bẩm cuối lòn loài bạch quỷ,
Sân quỳ vất vả phận hồng nhan
Bán mình đâu nệ phiền lòng sắt,
Chuộc tội thà xin trọn nghĩa vàng
Tiết khí dưới trần coi ít mặt,
Cang thường càng chuộng gánh giang san.
Ông làm trước khi bị đày đến Cayenne (thủ phủ của Guyane thuộc Pháp):
Muôn việc cho hay số bởi trời
Chiếc thân chìm nổi biết bao nơi
Mấy hồi tên đạn ra tay thử,
Ngàn dặm non sông dạo gót chơi.
Chén rượu Tân đình nào luận tiệc
Vần thơ cố quốc chẳng ra lời.
Cương thường bởi biết mang nên nặng,
Hễ đứng làm trai trả nợ đời.
Nhân nhà Tổng đốc Phương có tiệc, ông làm bài này để đọc cho mọi người nghe:
Nghĩ thẹn râu mày với nước non
Nhìn nay tùng, cúc bạn xưa còn.
Miếu đường cách trở niềm tôi chúa,
Gia thất riêng buồn nỗi vợ con.
Áo Hán nhiều phen thay vẻ lạ,
Rượu Hồ một mặt đắm mùi ngon
Giang Đông nổi tiếng nhiều tay giỏi,
Cuốn đất kìa ai, dám hỏi đon!
Qua hình ảnh “cây bắp”, để tỏ bày tấm lòng cùng khát vọng của ông:
Luống chịu ba trăng trấn cõi bờ,
Hiềm vì thương chút chúng dân thơ.
Nương oai tích lịch[9] ôm con đỏ,
Vâng lịnh nam phong phất ngọn cờ.
Miễn đặng an nhà cùng lợi nước
Chỉ nài dãi gió với dầm mưa.
''Biển hồ dầu lặng, tằm kình bặt
Giải giáp một phen chúng thảy nhờ.
Hai câu đối do Nguyễn Hữu Huân làm trước khi bị thụ hình, hiện được treo trang trọng tại bàn thờ của ông.
Hữu chí nan thân, không uổng bách niên chiêu vật nghị,
Tuy công bất tựu, diệc tương nhất tử báo quân ân.
Tạm dịch:
Có chí khôn bày, không uổng trăm năm lời nghị chúng
Tuy công chưa thành, cũng đành một thác báo ơn vua.[10].
3. Di tích:
Trên đường từ TP. Hồ Chí Minh đi Mỹ Tho, khi đến ngã ba Tân Hiệp, rẽ trái, đi khoảng 5 cây số, sẽ đến Tịnh Hà. Gần chiếc cầu sắt Cai Lộc bắc qua rạch Bảo Định, rẽ trái, đi thêm một đoạn nữa, thì sẽ thấy đình thờ và phần mộ của Thủ Khoa Huân. Trước kia, nơi đây kéo dài ra cầu sắt Cai Lộc là bãi chợ Phú Kiết. Trở ra cầu Cai Lộc cạnh ngã tư (đường xuống Nhựt Tiên, đường ra Phú Kiết, đường về Tân An, đường Lên giồng Tân Hiệp) sẽ thấy một tấm bia mộ kỷ niệm nơi ông thọ án.
Mộ và đền Thủ Khoa Huân được xây dựng ngay tại quê nhà của ông. Ban đầu mộ được đấp bằng đất, đầu thế kỷ 20, cháu ngoại của ông là Trần Văn Thông xây lại bằng đá xanh. Trong đền thờ có nhiều hoành phi và câu đối ca ngợi khí tiết của Thủ Khoa Huân.
Bùi Thụy Đào Nguyên, giới thiệu.
Chú thích
Theo Nguyễn Văn Hầu: Sau khi De la Grandière biết tin Thủ Khoa Huân lẫn trốn ở Thất Sơn, viên sĩ quan Pháp này buộc Tổng đốc An Giang phải bắt ông Huân, giao cho họ làm tội. Tổng đốc An Giang không thuận. Tức thời, Doudart de Lagrée được lệnh đem 500 quân cùng đại bác từ Oudong xuống huy hiếp Thành An Giang. Trước áp lự đó, Tổng đốc An Giang đành nhượng bộ (Nửa tháng trong miền Thất Sơn, NXB Trẻ, 2006,tr. 155).
Hồ sơ cá nhân Đỗ Hữu Phương: Dosier Individuel Do Huu Phương trong Sẻvices Locaux, ký hiệu SL. 312 tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia II, TP.HCM. Dẫn lại theo Người Việt đầu tiên đi đày ở Guyane? trong Nhà lao An Nam ở Guyane, Nxb trẻ, 2008, tr. 116.
Thơ Nguyễn Hữu Huân không có tựa đề, đa phần các sách dựa vào nội dung để đặt tên cho bài. Và trong thơ của ông, ở một vài câu chữ cũng không tránh khỏi dị bản. Người soạn dựa vào các nguồn sau, so sánh rồi chọn ra những câu chữ tạm cho là phù hợp hơn cả: Hợp Tuyển Thơ Văn VN 1858-1920 (Huỳnh Lý chủ biên, NXB Văn Học, 1984); Thủ Khoa Nguyễn Hữu Huân (không ghi tên người soạn, NXB Trẻ, tháng 10 năm 2007) và thơ Nguyễn Hữu Huân ở web Thi Viện.
Từ điển Văn học Việt Nam, bộ mới, NXB Thế giới, 2004, tr. 1154.
Quân mọi rợ, ám chỉ giặc ngoại xâm.
Sông Mỹ Tho.
Là nơi Thủ Khoa Huân bị chém.
Tiếng chửi ở miền Nam, sách Nguyễn Hữu Huân của NXB Trẻ ghi: đéo mẹ.
Oai sấm sét.
Có dị bản: Duy công bất tựu diệt quyên bất tử báo quân ân, nghĩa là: Dầu công không đạt được, cũng liều một chết báo ơn vua.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nhà thơ chiến sĩ Nguyễn Hữu Huân.doc