Nhà của Người Tà Ôi

Bài viết được đánh vi tính lại từ Tạp chí Huế xưa và Nay. Đây là bài nghiên cứu chuyên sâu, của tác giả, nhà giáo trẻ: Trần Nguyễn Khánh Phong Một phần bài viết: Nhà, nhà ở và các loại nhà nhỏ khác là một bộ phận quan trọng trong di sản văn hóa vật chất của người Tà Ôi ở Việt Nam. Cho đến nay, chúng tôi đã khảo sát về mặt kiến trúc và phân loại giá trị sử dụng của các loại nhà mà người Tà Ôi đang sở hữu theo từng dạng sau: TT Tên gọi Tiếng Tà Ôi Công dụng Vật liệu 1 Nhà sàn Dung Klang Nơi ở của gia đình Gỗ, tre, nứa, lá mây, tranh, mây, lồ ô . 2 Nhà dài Dung taradat Nơi ở của gia tộc Gỗ, mây, lá mây 3 Nhà công cộng Ròong Nơi hội họp của bản làng Gỗ, lá mây, tre, lồ ô . 4 Chòi Sâu xu/ Arơơp Nghỉ tạm thời khi đi làm nương rẫy Tranh, tre, nứa, lá và lồ ô 5 Lán Kot/xu/Toong Dành cho người canh lúa ở rẫy Tre, tranh 6 Kho Trul/Tinong Cất lúa khô Gỗ, tre, tranh 7 Nhà mồ Ping Nơi chôn cất người chết Gỗ, lồ ô 8 Lều ma Nhap Kâm mooch Tiến hành lễ dời mả Tre, nứa, lồ ô

doc10 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2742 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhà của Người Tà Ôi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NHÀ CỦA NGƯỜI TÀ ÔI TRÁƯN NGUYÃÙN KHẠNH PHONG(*) Giáo viên trường THPT A Lưới, Thừa Thiên Huế. N hà, nhà ở và các loại nhà nhỏ khác là một bộ phận quan trọng trong di sản văn hĩa vật chất của người Tà Ơi ở Việt Nam. Cho đến nay, chúng tơi đã khảo sát về mặt kiến trúc và phân loại giá trị sử dụng của các loại nhà mà người Tà Ơi đang sở hữu theo từng dạng sau: TT Tên gọi Tiếng Tà Ơi Cơng dụng Vật liệu 1 Nhà sàn Dung Klang Nơi ở của gia đình Gỗ, tre, nứa, lá mây, tranh, mây, lồ ơ... 2 Nhà dài Dung taradat Nơi ở của gia tộc Gỗ, mây, lá mây 3 Nhà cơng cộng Rịong Nơi hội họp của bản làng Gỗ, lá mây, tre, lồ ơ... 4 Chịi Sâu xu/ Arơơp Nghỉ tạm thời khi đi làm nương rẫy Tranh, tre, nứa, lá và lồ ơ 5 Lán Kot/xu/Toong Dành cho người canh lúa ở rẫy Tre, tranh 6 Kho Trul/Tinong Cất lúa khơ Gỗ, tre, tranh 7 Nhà mồ Ping Nơi chơn cất người chết Gỗ, lồ ơ 8 Lều ma Nhap Kâm mooch Tiến hành lễ dời mả Tre, nứa, lồ ơ Qua đĩ cho chúng ta thấy rằng, nhà khơng chỉ sử dụng , phục vụ cho con người khi cịn sống cũng như trong sản xuất mà cịn cĩ nhà mồ, lều ma khi con người đã đi vào cõi chết. Đấy chính là một trong những nét đặc trưng văn hĩa của người Tà Ơi. I. CƠNG VIỆC LÀM NHÀ CỦA NGƯỜI TÀ ƠI Trong năm, người Tà Ơi thường tổ chức làm nhà trong khoảng từ tháng 6 đến tháng 9, cụ thể từng tháng được phân chia cơng việc như sau: - Tháng 6 (Xay Tupát): Trỉa lúa muộn, làm rào rẫy, đặt bẫy, đi rừng, lấy củi, hái nấm. Trong đĩ việc đi rừng là dành cho đàn ơng, họ đi rừng chủ yếu 2 việc: lấy mật và chọn gỗ để dùng làm nhà. - Tháng 7 (Xay Tupol): Chăm sĩc lúa, thu hoạch hoa màu trên rẫy cũ, làm kho lúa, đặt bẫy, đánh cá, hái măng... trong đĩ việc làm kho lúa là cơng việc của đàn ơng và họ chuẩn bị cho một mùa thu hoạch sắp đến. - Tháng 8 (Xay Tikal): Làm cỏ lúa, đi săn, đánh cá, đan lát, sửa nhà... Trong đĩ việc sửa nhà là dấu hiệu để nhận biết chim tutot kêu, thời tiết bắt đầu thay đổi, mưa nắng thất thường và họ sửa nhà, gia cố nhà để chuẩn bị đĩn mùa đơng về. - Tháng 9 (Xay Tikiay): Làm cỏ lúa lại, đi săn, đánh cá... vào tháng này bắt đầu cĩ mưa dày, khí hậu chớm lạnh và nhiều gia chủ trước đĩ cịn bận nhiều việc nên tháng này bắt đầu đan lát, sửa lại nhà cửa để đĩn mùa đơng. Để cĩ nguyên vật liệu cho bất cứ loại nhà nào thì người Tà Ơi phải chuẩn bị cho mình một hành trình đi rừng lấy gỗ, chặt mây, thu gom lá mây, tranh, tre, nứa, lồ ơ... cơng việc này chủ yếu do người đàn ơng đảm nhận. Nếu như làm nhà ở, nhà kho thì cơng việc do gia đình bàn bạc sắp xếp. Cịn nếu làm nhà dài thì phải cĩ sự bàn bạc của cả gia tộc và nhà của làng thì cộng đồng làng phải cĩ những cuộc họp chung, bầu ra đội ngũ những người khỏe mạnh, giỏi giang gánh vác cơng việc hệ trọng của làng. Sau khi cĩ đầy đủ nguyên vật liệu và tiền bạc, gia chủ sẽ tìm đất và làm lễ cúng đất để làm nhà, ở đây chủ yếu là làm nhà ở và nhà cơng cộng. Trong tâm thức của người Tà Ơi, nhất cử nhất động mọi cơng việc đều cĩ lễ cúng thần. Khi đau ốm hoặc rủi ro nhỏ thì cúng Giàng Sĩh, Giàng Dak (thần Suối, thần Sơng). Trong nơng nghiệp cầu được mùa thì cúng Giàng Tro (thần Lúa), đi buơn bán đổi chác thì cúng Giàng Panuơn (thần Buơn bán), làm nhà hoặc các lễ hội khác thì cúng Giàng CuTéh, Giàng Koh (thần Đất, thần Núi)(1) Xem thêm Huỳnh Đình Kết: Tục thờ thần ở Huế, Nxb Thuận Hĩa, Huế 1997, tr. 152 - 153 - 154 - 155. . Khi làm nhà thì việc cúng tế thường do cộng đồng họ tộc (nhà ở) hoặc do làng bản tổ chức, nghi thức bao gồm lễ tế phải cĩ đầu lợn, hai con gà, trầm hương, rượu, cơm hoặc xơi. Tất cả được đưa lên bàn cúng, gia chủ hoặc già làng sẽ khấn vái trời đất xin cho được làm nhà (nhà ở) thuận hịa vợ con sum vầy, của cải dồi dào, cuộc sống ấm no hạnh phúc, tránh được những hiểm họa bệnh tật, mất mát... hoặc nhà cơng cộng thì chủ làng cầu khấn trời đất, núi rừng, sơng suối cho cộng đồng, làng bản nơi mọi thành viên đồn kết, giúp đỡ nhau cùng sản xuất, săn bắn, cĩ cuộc sống ấm no. Sau lễ cúng, mọi người cùng hưởng ứng ra sức đào mĩng dựng trụ cột tượng trưng lấy ngày rồi sau đĩ ăn uống nghỉ sức chuẩn bị cho cơng việc ngày mai. Người Tà Ơi cĩ lối sống mang tính cộng đồng cao cho nên khi làm thường cĩ sự giúp đỡ của tầng lớp thanh niên trong thơn bản. Một ngơi nhà thường hồn tất sau một tuần lễ. Cái khĩ nhất khi làm nhà là sự nối ráp các sườn, vì kèo lại với nhau, những điều đĩ sẽ được giải quyết nhanh chĩng và đơn giản đối với nhà ở. Riêng đối với loại nhà rơng thì khĩ khăn và phức tạp hơn. Trước tiên là phải huy động lớp trai tráng vào rừng khuân vác gỗ tập kết về làng, cơng việc này thường cĩ trâu phụ giúp kéo gỗ. Một bộ phận là các vị cao tuổi thì chọn đất, chọn hướng dựng nhà, một số người chuyên về chạm trổ, điêu khắc thì phác họa những kiểu thức trang trí lên những bộ phận nhỏ lẻ cĩ sẵn để khi ngơi nhà rơng lên khung là lắp ráp vào. Cịn các chị em phụ nữ, các bà già thì lo việc cơm, rượu hằng ngày. Thời gian làm ngơi nhà cho cộng đồng làng bản thường mất vài tháng nhưng vẫn nằm trong chu kỳ từ tháng 6 đến tháng 9 bởi 2 nguyên nhân: Một là đây đang trong thời gian rảnh rỗi, chờ chăm sĩc và thu hoạch lúa; hai là cĩ nhà mới sẽ đĩn cái tết Aza Acha (lễ hội mừng năm mới) - tết cổ truyền của người Tà Ơi đầy hứng khởi. Dù là nhà ở hay nhà cơng cộng, sau khi hồn tất cũng phải cúng Giàng, phần cúng cũng như khi bắt đầu làm nhà, song cũng cần bổ sung thêm nhiều lễ vật, nhất là sau khi đã thu hoạch lúa, nhiều giống lúa nấu cơm ngon, dẻo và thơm như Radư, Cuda, Pinhe được nấu chín dâng lên cúng Giàng. Đối với nhà của làng thì khi tạ cĩ sự xuất hiện của thầy cúng gọi là Nokru lo việc nghi lễ, đình đám... Sau khi tạ xong, mọi người cùng ăn uống linh đình và hịa lẫn vào đĩ xen kẽ một số tiết mục văn nghệ dân gian đặc sắc. II. ĐẶC ĐIỂM KIẾN TRÚC CÁC LOẠI NHÀ CỦA NGƯỜI TÀ ƠI 1. Nhà sàn: Cũng như các dân tộc anh em khác, ngơi nhà sàn của người Tà Ơi cĩ quy mơ tương đối lớn với kết cấu bộ sườn đơn giản, nguyên vật liệu chủ yếu để xây dựng là gỗ, tranh, tre, nứa, lá, lồ ơ và mây. Nhà sàn cĩ chiều dài chừng 12m, chiều rộng 4,5m. Bên trong nhà sàn khơng cĩ buồng ngăn mà chỉ là một khơng gian rộng rãi, cái bếp thường đặt phía cuối của sàn nhà. Đa phần ngơi nhà sàn của người Tà Ơi cĩ cầu thang lên ở phía cửa bên hơng nhà, cầu thang được làm rất đơn giản và thường cĩ 2 loại: - Một loại được làm bằng một khúc gỗ trịn, sau đĩ gia chủ đẽo thành từng bậc một và thường cĩ 3 bậc được đặt cố định từ mặt đất lên đến sàn nhà, dài 0,5m. - Một loại được làm giống như thang của người Việt, bằng 2 ống tre to, chắc, cũng cĩ 3 bậc thang, bằng các ống tre nhỏ, chắc và được buộc chặt bởi các sợi mây, loại thang này cũng dài 0,5m. Vách nhà sàn thường là lồ ơ đập dập đan vào nhau với hai mặt trái phải, mặt trái là ruột lồ ơ nên cĩ màu trắng, mặt phải là lưng lồ ơ nên cĩ màu xanh và sự xen kẽ xanh - trắng ấy là một mảng màu tự nhiên trong trang trí của họ. Cửa của nhà sàn Tà Ơi thường cĩ 2 cửa chính nằm ở hai đầu nhà, cịn mặt chính mặt phụ là sự bố trí 4 cửa sổ, là cửa thường được đẩy vào đẩy ra chứ khơng theo kiểu đĩng mở như nhiều nơi khác. Mái nhà thường lợp bằng tranh, hằng năm đều cĩ sự tu sửa mái nhà một lần cũng như gia cố thêm các chân sàn. Các chân nhà sàn làm bằng gỗ cĩ kích thước trung bình, thường được bố trí 8 cột chống đỡ được nối kết với nhau bởi các bộ khung chắc chắn. Dưới sàn nhà, người ta thường bỏ củi khơ hoặc các vật dụng phục vụ cho nơng nghiệp chứ khơng nuơi thả gia súc, gia cầm như trước đây. Nhìn chung, với một gia đình nhỏ ngơi nhà sàn là mái ấm của họ và là sự hạnh phúc của một chủ hộ khi họ thực sự là một tế bào của xã hội. Cho nên ngày nay mỗi gia đình Tà Ơi đều cĩ ít thành viên (do cĩ sự hiểu biết về pháp lệnh dân số) nên khơng gian sinh hoạt bên trong như ăn, ngủ, tiếp khách đều sử dụng chung một sàn nhà. 2. Nhà dài: là nơi sinh hoạt trong đời sống thường nhật và là nơi hội tụ nghĩa gia tộc của người Tà Ơi. Cho nên, xét trên phương diện kiến trúc và văn hĩa, nhà dài của người Tà Ơi cĩ tầm quan trọng đặc biệt. Nhà dài bao gồm nhiều gian nối với nhau và kéo dài hơn 100m. Sàn cột, xà nhà đều được làm bằng các loại gỗ quý, như sến, dổi được khai thác từ trong rừng sâu. Trước khi làm nhà, chúng được đẽo đục rất cơng phu dưới những bàn tay tài hoa của các nghệ nhân Tà Ơi. Sau khi dựng lên, mọi người coi đĩ là một việc làm thiêng liêng và rất cần sự chăm sĩc của gia tộc. Những chân cột nhà dài bao giờ cũng được đặt trên những hịn đá to, dày và được mài nhẵn nhằm chống sự tấn cơng của mối mọt và ẩm mốc. Hầu hết các vách nhà đều được làm bằng các tấm gỗ đã được bào mỏng và láng, trên vách thường chạm trổ những kiểu thức trang trí như: hoa lan, chim bồ câu, con thằn lằn, quả bầu khơ. Mái lợp của ngơi nhà dài rất cơng phu, bởi vì ngơi nhà rất dài và rộng. Cho nên chủ nhà cần phải chuẩn bị một khối lượng lá lợp đồ sộ và phải mất nhiều ngày vào rừng tìm kiếm lá, thường là lá mây. Lá mây cĩ độ bền và mát hơn tranh lại mang tính thẩm mỹ cao như mượt, đều. Trước và trong khi làm cấu kiện nhà dài, thì đa số những người phụ nữ Tà Ơi vào rừng chọn những chiếc lá mây sao cho khơng già và cũng khơng non quá, cắt lấy đem về phơi cho ráo rồi bện thành từng tấm lại với nhau. Khi lợp, các lá mây được kết nối với nhau bằng các sợi mây nhỏ được vĩt nhọn và bĩng. Từng lớp lá được chồng lên nhau theo một thứ tự nhất định để được phẳng phiu và đẹp mắt. Chính vì vậy, khi vào một ngơi nhà dài, khách cĩ thể ngước nhìn lên mái nhà bên trong sẽ cảm thấy người thợ làm nhà cĩ bàn tay thiện nghệ, những sợi mây níu lấy lá mây buộc chặt vào rường, vào những chiếc địn tay gỗ níu kéo vào nhau như thể tạo thêm thế vững chãi cho ngơi nhà. Mái của ngơi nhà dài cĩ độ nghiêng và dốc vừa phải và trải rộng về bề ngang phía hai bên. Đầu nĩc ngơi nhà dài vừa cao vừa uy nghi. Chủ nhân thường trang trí hai đầu nĩc nhà các kiểu dạng như: gắn những khúc gỗ cong, những cặp sừng trâu lớn chĩa mũi nhọn lên trời biểu tượng cho sức mạnh, hoặc là trang trí “khâu cút” bằng gỗ tạc hình hai con chim cu gáy tượng trưng cho tình yêu quê hương và bản tính hiền hịa của người Tà Ơi. Phía bên trong nhà dài được bố trí làm nhiều ngăn, gian khác nhau, mỗi ngăn hoặc gian cĩ chức năng và cơng dụng riêng của nĩ như: phịng khách, phịng hội họp gia tộc, phịng ngủ... Cái bếp trong ngơi nhà dài thể hiện mối quan hệ gia tộc trong đại gia đình người Tà Ơi. Do vậy, cái bếp tượng trưng cho một gia đình nhỏ và cách bố trí bếp cũng đáng quan tâm. Thường thì các bếp được bố trí theo hai kiểu: - Kiểu 1: Các bếp bố trí liền nhau, cũng cĩ cửa lớn đi qua lại giữa các gian nhà từ đầu nhà cho đến cuối nhà, bếp này nối tiếp bếp kia, giữa các bếp cĩ các vách ngăn bằng gỗ. Hành lang đi sát vách nhà thơng cầu thang ở hai đầu hồi(2) Xem thêm Nguyễn Quốc Lộc (chủ biên): Các dân tộc ít người ở Bình Trị Thiên, Nxb Thuận Hĩa, Huế 1984, tr. 155. . - Kiểu 2: Hành lang chạy dọc giữa nhà, các bếp đối diện nhau nhìn ra hành lang. Cầu thang được bố trí ngay ở giữa phịng khách(3) Phịng Văn hĩa - Thơng tin - Thể dục thể thao huyện A Lưới, Báo cáo tình hình thực trạng lịch sử, văn hĩa dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện A Lưới, A Lưới ngày 6 - 5 - 1999 số 01 BC/ VHQC, tr.5. . Bên trong ngơi nhà dài, phịng khách thường cĩ diện tích lớn nằm ở vị trí trang trọng giữa nhà. Nơi đây dùng để đựng các loại tài sản quý giá của gia tộc như chiêng núm, chiêng bằng, chĩe, chum, thanh la, nồi đồng và cịn là nơi đặt các án thờ linh thiêng. Trên vách của phịng khách, chủ nhân thường treo các miếng da thú hoặc những bộ răng lợn rừng khi đi săn về để nhằm tăng thêm sức mạnh cho gia tộc. Bên cạnh đĩ họ cịn trưng bày các dụng cụ âm nhạc như kèn, tù và, sừng trâu, trống da...(4) Trần Nguyễn Khánh Phong, “Kiến trúc nhà dài của người Tà Ơi”, Tạp chí Dân tộc & Thời đại, số 3/2004, tr. 5. 3. Nhà rơng: Đặt tại giữa sân làng, coi như là nơi sinh hoạt cơng cộng của cộng đồng làng giống như thiết chế văn hĩa làng của người Việt là ngơi đình, của người Cơ - Tu là nhà Gươl. Chiều dài và kích cỡ của ngơi nhà là 2 hoặc 4 gian cĩ 2 bếp là nơi giao lưu và tiếp khách quý của làng. Nhà được cất dựng cĩ quy mơ lớn vừa rộng, vừa cao và chắc chắn. Ở bên trong cĩ trang trí các họa tiết trơng rất đẹp và tỉ mỉ cùng với nĩ là sự hiện diện của các vật dụng dùng chung của cả làng như trống, chiêng, đàn Abel, giáo, cung tên, nỏ... Ở giữa ngơi nhà rơng là nơi dùng để hội họp được gọi là Târrưngoăng cũng cĩ trang trí nội thất để nhằm thể hiện uy quyền của già làng. Tuy bên ngồi nhìn cĩ vẻ đơn giản, thơ sơ nhưng khi vào bên trong ngơi nhà rơng nhìn ngắm các họa tiết trang trí mới thấy và hiểu được bức tranh của cuộc sống cộng đồng. Thường thì một ngơi nhà rơng giữa làng là nơi hội họp các việc quan trọng của làng bất kể ngày hoặc đêm; làng cử một người chuyên coi giữ quét dọn nhà khi cĩ việc cần. Nhà rơng khơng cĩ hành lang chạy dọc theo chiều dài của nhà mà chỉ cĩ hành lang rộng nhưng ngắn nằm ở hai đầu hồi và cầu thang cũng được đặt tại đĩ. Cầu thang được làm bằng gỗ to, chắc, bậc thang được làm bằng ván to, dày và được bào láng... Mái nhà rơng thường lợp bằng lá mây cĩ độ dày chừng 50cm, trên nĩc nhà thường được trang trí 2 loại: sừng trâu thể hiện sức mạnh và con gà báo hiệu một ngày mới. 4. Chịi: Là loại nhà tạm thời trong khi đi làm nương rẫy quá xa nhà chính. Đối với người Tà Ơi, đây là nhà sàn nhỏ vì nĩ cĩ độ ngắn và quy mơ nhỏ hơn, đơn sơ hơn và được đặt ở một khu vực đất bằng, khe suối nào đĩ mà chủ yếu là gần nương rẫy. Tại đây, họ sẽ cùng nhau trồng trọt, chăn nuơi phát triển kinh tế. Nhà chịi dài nhất từ 15 đến 20m, cĩ lối kiến trúc đơn giản bởi những vật liệu như tranh, tre, nứa, lá và lồ ơ. Loại nhà này cĩ mái lợp nhưng khơng cĩ vách. 5. Lán: Là nhà ở ngồi nương rẫy để người chủ rẫy canh giữ chim, chuột, thú rừng khỏi phá hoại mùa màng hoa màu trong rẫy. Hình thức của loại nhà này là từ 1 - 2 gian trong phạm vi 20m2 cĩ 6 cột tương đối to chơn dưới đất sâu gần 2m, nhà cao tính từ mặt đất lên nĩc từ 25 - 28m, cĩ tới 30 bậc thang leo lên sàn nhà. Ở trên sàn nhà, người ta thường trải chiếu cĩi để nằm hoặc ngồi. Xung quanh nhà khơng cĩ vách chắn. Đối với ngơi nhà này ngồi việc canh giữ nương rẫy cịn là nơi tụ tập của nam nữ thanh niên vào ban đêm. Họ vừa canh giữ săn đuổi chim thú vừa tìm đến nhau với một tình yêu chân thật mà cha mẹ đã đồng ý cho phép. 6. Kho: Đây là loại nhà nhỏ xung quanh bịt kín chỉ cĩ một cửa dùng để đĩng mở khi cất và lấy lương thực. Kho cĩ cấu trúc đẹp và kích thước vừa. Mái lợp chủ yếu bằng tranh hoặc lá mây, lá cọ. Kho thường đặt trên một khu đất đẹp và cao ráo. Kho được dựng bởi 4 cột, bên trên cĩ sàn và vách ngăn dùng chủ yếu là để đựng lúa. Cịn phần dưới thì tùy khả năng trưng dụng của gia chủ mà nĩ cĩ chức năng riêng. Chẳng hạn cĩ một số gia đình dùng phần dưới này để cột trâu, bị ban đêm. Bốn cột của nhà kho, gia chủ bơi vào đĩ một số nhựa cây các loại được khai thác từ rừng cĩ độ kết dính cao, để chuột khơng leo lên ăn lúa được. Cịn ở trên nĩc và mái lợp, họ cũng cĩ những chiếc tua rua treo phấp phới để dọa chim. 7. Nhà mồ: Đây là loại nhà dành cho người chết. Nhà cĩ một cột lớn bằng gỗ quý trên cột được chạm trổ cơng phu bởi những hình con rồng (Tudê), mặt người và hình những con thằn lằn rất đẹp. Mái lợp nhà mồ rất đơn giản thường là bằng những ống lồ ơ được đập dẹp hoặc chẻ đơi và đặt trái ngược hai nửa mặt nhau. Bên trong nhà mồ được đặt nhiều vật dụng cần thiết cho người chết như: chiêng, gùi, ống tẩu, chén bát... 8. Lều ma: Được dựng lên trong thời gian cúng bái xin hồn ma cho phép đưa quan tài người chết vào lều trước khi đặt xuống nhà mồ. Lều ma này khá rộng, chứa khoảng 50 người được dựng cách xa nhà chính chừng 500m. Đây là loại nhà trệt, cĩ mái bằng hoặc mái trịn, cột thường là tre, nứa, lồ ơ... III. MẤY LỜI NHẬN XÉT Trong những năm trở lại đây, vùng đồng bào Tà Ơi sinh sống đã diễn ra quá trình hội nhập văn hĩa, đã từng bước làm thay đổi bộ mặt của làng bản. Người Tà Ơi đang lúng túng chọn cho mình cách tiếp nhận cái mới và bảo tồn cái cũ. Đã cĩ nhiều nhà nghiên cứu đưa ra sự so sánh khi người Tà Ơi cũng như người Cơ - Tu và Bru - Vân Kiều ở Thừa Thiên - Huế giữ gìn bản sắc văn hĩa như thế nào trong quá trình hội nhập văn hĩa hiện nay: “Ví như nhà xây, mái lợp tơn thay nhà sàn mái lá, các sản phẩm cơng nghiệp nhựa thay sản phẩm đan lát, phương tiện chuyên chở bằng xe cĩ động cơ thay gùi, quang gánh, nhạc cụ hiện đại thay nhạc cụ dân tộc, xem tivi, nghe đài thay đốt lửa kể chuyện sử thi, nhảy múa...(5) Nguyễn Văn Mạnh, “Bản sắc văn hĩa của người Tà - Ơi, Cơ - Tu, Bru - Vân Kiều ở Thừa Thiên Huế trong quá trình hội nhập văn hĩa hiện nay”, Tạp chí Dân tộc học số 2/2004, tr. 38. . Trong sự biến đổi chung về cuộc sống vật chất và tinh thần đĩ, cĩ sự thay đổi rất đáng quan tâm về kiến trúc các loại nhà của người Tà Ơi. Do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan mà hiện nay ở cộng đồng Tà Ơi tùy theo khơng gian cư trú mà một số vùng đã mất hẳn các nhà này, giữ gìn kiểu nhà kia mà cụ thể là sự khác biệt giữa hai vùng cư trú của người Tà Ơi là huyện Đắckrơng (tỉnh Quảng Trị) và huyện A Lưới (tỉnh Thừa Thiên - Huế). 1. Thuở xa xưa, các thành viên trong gia tộc người Tà Ơi sống trong ngơi nhà dài theo 4 dạng: Dạng 1: Làm chung, ăn chung, ở chung: Mọi cái khi ấy đều là của chung, tài sản riêng của từng cá nhân hầu như ít ỏi hoặc khơng cĩ. Dạng 2: Làm chung, ở chung, ăn riêng: Tài sản riêng của từng cá nhân, từng hộ gia đình nhỏ bắt đầu hình thành, dạng này đánh dấu bước đầu cho sự phá vỡ kiểu gia đình phụ quyền nguyên thủy của người Tà Ơi. Dạng 3: Làm chung, ở riêng, ăn riêng: Giờ đây các bếp bắt đầu cĩ sự tách ra xây dựng cho mình những ngơi nhà nhỏ riêng biệt. Bằng chứng là sự hình thành những ngơi nhà trệt từ bỏ lối sống nhà sàn mà chính điều này thường thấy ở A Lưới và là hệ quả của sự tan rã của những ngơi nhà dài ở nơi đây. Và mặc dầu ăn riêng, ở riêng; song những cơng việc trong mùa đi săn hoặc làm rẫy thì mọi thành viên trong gia tộc đều làm chung với nhau. Dạng 4: Ở chung, làm riêng, ăn riêng: Các hộ gia đình nhỏ đã được độc lập về kinh tế, đánh dấu sự chuyển đổi mối quan hệ giữa cộng đồng và cá thể. Sự tách ly ra từ đại gia đình phụ quyền thành gia đình cá thể một vợ một chồng bắt đầu từ đây. Ngày nay, ở vùng núi tỉnh Thừa Thiên - Huế nơi cĩ đồng bào Tà Ơi sinh sống đã vắng bĩng những ngơi nhà dài: “Bởi vì khi mà con người đã tiến hành làm ăn riêng, khi mà kinh tế đã đầy đủ, tư liệu sản xuất đã là của riêng... chắc chắn các cặp vợ chồng sẽ tách ra ở riêng”(6), (7) Xem thêm Nguyễn Xuân Hồng, “Về quá trình tan rã ngơi nhà dài của người Tà - Ơi ở Thừa Thiên Huế”, Thơng tin Khoa học Trường Đại học Tổng hợp Huế (nay là Trường Đại học khoa học), số 9/1994, tr. 145 - 146. hoặc “Kiểu gia đình nhỏ tạo điều kiện thuận lợi cho quy hoạch dân cư, phù hợp với chủ trương giao đất, giao rừng đến từng hộ gia đình cá thể”(7). Song, sự giải thể của những ngơi nhà dài là chủ trương đúng, phù hợp với cơ chế hiện nay nhưng một điều đáng tiếc là một số vốn văn hĩa xưa đã khơng cịn giữ lại ở vùng người Tà Ơi sinh sống tại A Lưới, trong lúc đĩ, cộng đồng Tà Ơi sinh sống ở huyện Đắc Krơng tỉnh Quảng Trị lại cịn gìn giữ nguyên vẹn những ngơi nhà dài(8) Trần Nguyễn Khánh Phong, “Nhà dài ở A Lưới - hồn xưa của núi đâu cịn!”, Báo Thừa Thiên - Huế cuối tuần số 186 ra ngày 7 - 10.8.2003, tr. 4,5,6. mang đặc trưng riêng, mà từ năm 1984 Giáo sư Nguyễn Quốc Lộc đã đánh giá: “Người Tà Ơi ở Tà Rụt cĩ những ngơi nhà dài, nơi cư trú của đại gia đình mà nay cịn lưu lại dấu vết khá rõ...”(9) Nguyễn Quốc Lộc, “Mấy ý kiến trong việc nghiên cứu nền văn hĩa truyền thống của các dân tộc ít người Bình Trị Thiên”, Tạp chí Sơng Hương số 4 (1984), tr. 68. và ngày nay vẫn thế, những ai nghiên cứu về ngơi nhà dài của người Tà Ơi thì chỉ cĩ ở Đắc Krơng, Hướng Hĩa (Quảng Trị) mà thơi(10) Trần Nguyễn Khánh Phong, “Kiến trúc nhà dài của người Tà Ơi”, Tạp chí Dân tộc & Thời đại, số 3/2004, tr. 5. . 2. Khi tiếp cận các gia chủ, chúng tơi đã tìm hiểu được một nguyên nhân sâu xa khi thế hệ trẻ Tà Ơi thích ở nhà xây, mái lợp tơn hơn là vì nguyên vật liệu làm một ngơi nhà bằng gỗ, lợp lá mây quá tốn tiền của, cơng sức và thời gian. Nếu như trước kia để chuẩn bị làm nhà, thanh niên phải đi tìm gỗ ở trong rừng sâu, chặt, thuê trâu, bị kéo về làng, phụ nữ đi hái lá mây xa vài chục cây số thì giờ đây khơng cịn ai hứng thú với cơng việc đĩ nữa. 3. Các thế hệ nghệ nhân làm nhà, dệt mái lợp đã khơng cịn đủ sức khỏe để làm, muốn truyền nghề thì lực bất tịng tâm. Cho nên, vơ tình thế hệ trẻ đã đánh mất đi một số nghề hiếm hoi của cộng đồng. 4. Ngồi sự tan rã của ngơi nhà dài ở A Lưới, cịn tất cả các loại nhà cịn lại của người Tà Ơi đều được giữ gìn, bảo lưu tốt và chưa cĩ nguy cơ mất hẳn bởi sự lấn át của nhà xây, mái lợp tơn. 5. Nhà của người Tà Ơi là một trong những khơng gian văn hĩa, noi đĩ thường xuyên diễn ra các lễ hội nhỏ của gia đình, gia tộc, lễ hội cộng đồng của thơn bản. Mà mỗi loại nhà đều cĩ chức năng riêng của nĩ như: - Nhà rơng là nơi tiếp đĩn nhiều loại khách: Khách làng, khách ngồi làng, khách khơng mời... cịn là nơi nam nữ thanh niên chuyện trị, hị hẹn, trao duyên, hát hị nhảy múa hịa đồng với những nhịp điệu của tiếng khèn bè, trống, chiêng... - Trong bản khi bắt được một con thú rừng thì được mổ tại nhà rơng, sau khi thịt xong đầu thú được treo trên địn tay của nhà, da thú được căng lên vách. Tại ngơi nhà rơng hằng năm thường tổ chức 3 lễ hội lớn: Lễ Acha Aza tổ chức vào tháng 2 hoặc tháng 3 trở lại, lễ hội giữa năm vào tháng 5 hoặc tháng 6, lễ hội cuối năm tổ chức vào tháng 11 hoặc tháng 12. Các lễ hội này đều nhằm mục đích cầu khấn thần linh ban cho được mưa thuận, giĩ hịa, mùa màng tốt tươi, khỏi đau ốm, bệnh tật. - Chịi cĩ thể là nơi chuẩn bị các lễ tết, lễ hội của gia tộc như: chuẩn bị ăn, cúng tế, hội mừng năm được mùa màng ấm no. - Nhà dài là nơi bàn bạc chuyện đại sự của gia tộc, là nơi hội họp phân cơng cơng việc cho từng thành viên của đại gia đình. 6. Ngày nay, do sự tác động của cơ chế thị trường, nhiều sự biến đổi đã xảy ra ở vùng đồng bào Tà Ơi sinh sống. Và một bộ phận của di sản văn hĩa vật chất của cộng đồng này là các loại nhà cũng dần dần bị mai một trong đĩ nhà sàn và nhà dài đã và đang cĩ nguy cơ tan rã. Tình hình đĩ cho thấy vấn đề bảo tồn một tài sản quý giá của cộng đồng người Tà Ơi ở A Lưới, Thừa Thiên Huế cấp bách và quan trọng biết bao.q T.N.K.P

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNhà của Người Tà Ôi.doc