Nói tóm lại, trong các tác phẩm thơ của mình
- hai nhà thơ dân tộc thiểu số tiêu biểu - Lò
Ngân Sủn và Pờ Sảo Mìn đã thể hiện rất rõ
khả năng sáng tạo và khả năng sử dụng một
cách hiệu quả ngôn từ nghệ thuật giàu chất
tạo hình của mình. Với tình cảm yêu quê
hương tha thiết, hai "nghệ sĩ ngôn từ" này đã
thổi hồn vào bức tranh thiên nhiên miền núi,
khiến cho chúng vừa rực rỡ sắc màu, vừa sinh
động và đầy ý nghĩa nhân văn. Chính vì thế,
bức tranh bằng thơ mà các ông đã phác họa ra
ấy - ngoài vẻ đẹp của sắc màu nó còn thấm
đẫm tinh thần dân tộc trong từng chi tiết. Họ
cũng đã phác họa nên những bức chân dung
về con người miền núi một cách cụ thể, hết
sức sinh động. Đó là những chàng trai, những
cô gái miền núi khỏe mạnh, cường tráng, đầy
sức sống, rất lãng mạn, đa tình - những bông
hoa của núi rừng, những chủ nhân của vùng
cao núi non hùng vĩ. Đó là những bà mẹ,
những người vợ suốt đời gánh bao vất vả, lo
toan vì chồng, vì con; những người dân miền
núi chân thực, cả tin nhưng luôn sống hết
mình, hi sinh hết mình vì người khác. Những
hình ảnh đẹp đẽ đó đã được hiện lên bởi
những ngôn từ nghệ thuật giàu chất tạo hình,
giàu tính biểu cảm, với cách diễn đạt mang
đậm phong cách miền núi của hai nhà thơ
trên. Đây chính là một nét đặc sắc trong nghệ
thuật thơ của Lò Ngân Sủn và Pờ Sảo Mìn.
Và đây cũng chính là một đóng góp đáng ghi
nhận của hai nhà thơ miền núi đầy bản sắc
dân tộc này.
7 trang |
Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 547 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ngôn ngữ thơ giàu chất tạo hình – nét đặc sắc trong sáng tác của Lò Ngân Sủn và Pờ Sảo Mìn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trần Thị Việt Trung và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 65(03): 54 - 60
54
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
NGÔN NGỮ THƠ GIÀU CHẤT TẠO HÌNH –
NÉT ĐẶC SẮC TRONG SÁNG TÁC CỦA LÒ NGÂN SỦN VÀ PỜ SẢO MÌN
Trần Thị Việt Trung, Nguyễn Phương Ly
Nhà xuất bản Đại học Thái Nguyên
TÓM TẮT
Lò Ngân Sủn và Pờ Sảo Mìn là hai gương mặt thơ miền núi phía Bắc khá tiêu biểu bởi sự sáng tạo
đặc sắc, mới lạ trong các tác phẩm thơ của họ. Họ là niềm tự hào của dân tộc Dáy, dân tộc Pa Dí
nói riêng, của các dân tộc thiểu số Việt Nam nói chung. Một trong những yếu tố quan trọng làm
nên vẻ đẹp, sức hấp dẫn và góp phần tạo nên một phong cách riêng độc đáo ấy ở họ - chính là việc
họ đã sử dụng một cách sáng tạo thứ ngôn ngữ thơ giàu tính tạo hình trong các tác phẩm đậm bản
sắc văn hóa dân tộc.
Từ khóa: Ngôn ngữ, ngôn ngữ tạo hình, Lò Ngân Sủn, Pờ Sảo Mìn
*
VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ LÒ NGÂN SỦN VÀ
PỜ SẢO MÌN
Lò Ngân sủn và Pờ Sảo Mìn là hai gương mặt
thơ miền núi phía Bắc khá tiêu biểu bởi sự
đặc sắc, mới lạ trong các tác phẩm thơ của họ.
Họ được bạn đọc cả nước biết đến với những
bài thơ, tập thơ: Những người con của núi,
Người đẹp, Chiều biên giới... (Lò Ngân Sủn);
Cây hai ngàn lá, Người con trai Pá Dí... (Pờ
Sảo Mìn). Đây có thể nói là những bài thơ,
tập thơ hay - có thể so sánh với bất kì tập thơ,
bài thơ hay nào của các nhà thơ người dân tộc
khác (kể cả của người Kinh). Họ là niềm tự
hào của dân tộc Dáy, dân tộc Pa Dí nói riêng,
của các dân tộc thiểu số Việt Nam nói chung.
Với tư cách là các nhà thơ dân tộc thiểu số
tiêu biểu - với các sáng tác đầy cá tính sáng
tạo của mình, họ đã góp phần tạo nên sự
phong phú, đa dạng, sự hấp dẫn cho thơ ca
các dân tộc thiểu số nói riêng, cho thơ ca Việt
Nam hiện đại nói chung.
Lò Ngân Sủn người dân tộc Dáy, sinh ngày
26/4/1945 tại thôn Bản Vền, xã Bản Qua,
huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. Ông đã được giữ
nhiều trọng trách như: Phó chủ tịch Hội Văn
học nghệ thuật Hoàng Liên Sơn, Phó Chủ tịch
thường trực Hội Văn học nghệ thuật các dân
tộc thiểu số Việt Nam... Ông là người viết
nhiều, viết khỏe và viết khá thành công ở
nhiều thể loại, nhưng sáng tác nhiều nhất và
thành công nhất là thể loại thơ. Thơ Lò Ngân
Sủn có hương vị rất đặc trưng - hương vị của
*
Tel: 0912454575;Email:
“thắng cố” - một món ăn đặc sản của người
dân tộc vùng núi cao - hay nói một cách khác
- Thơ ông rất độc đáo, mang đậm màu sắc dân
tộc vùng cao miền núi.
Tính từ năm 1980 tới nay, ông đã cho ra mắt
20 đầu sách, trong đó có hơn chục tập thơ.
Nhà thơ Lò Ngân Sủn đã được nhận nhiều
giải thưởng, tặng thưởng trong đó có giải A
của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp Văn học
nghệ thuật Việt Nam cho tập thơ Đám cưới
(1993); Giải B của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp
Văn học nghệ thuật Việt Nam cho tập thơ
Dòng sông mây (1995); giải B Văn học dân
tộc thiểu số Hội nhà văn Việt Nam cho tập thơ
Những người con của núi (1992); giải B báo
Thiếu nhi dân tộc cho tác phẩm Cái bật lửa
trời (1995) và nhiều giải thưởng khác...
Pờ Sảo Mìn sinh 10/10/1946, dân tộc Pa Dí
tại thôn Na Bủ, xã Tung Chúng Phố, huyện
Mường Khương, tỉnh Lào Cai.
Pờ Sảo Mìn đã từng được học qua trường Bồi
dưỡng người viết văn trẻ của Hội nhà văn
Việt Nam khóa VI, Trường viết văn Nguyễn
Du khóa II, là hội viên Hội Văn học các dân
tộc thiểu số Việt Nam.
Pờ Sảo Mìn sáng tác khá nhiều, cho đến năm
2006 ông đã xuất bản được 7 tập thơ: Cây hai
ngàn lá, Bài ca hoang dã, Mắt lửa, Con trai
người Pa Dí, Cung đàn biên giới, Lời dân
tộc tôi, Mắt rừng xanh. Thơ ông được bạn
đọc biết đến từ những năm 70 của thế kỉ XX,
với những bài thơ như: Cây ống khói (được
nhạc Sĩ Trần Long Ẩn phổ nhạc), Thị trấn
đôi ta, Cô gái Mèo và chiếc máy cày tay
Trần Thị Việt Trung và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 65(03): 54 - 60
55
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
(được chọn in trong Tuyển tập thơ các dân tộc
thiểu số). Đến đầu thập kỷ 80, 90, độc giả lại
biết tới ông qua một số các giải thưởng về thơ
trên báo Văn nghệ với 2 thi phẩm: Biển chàm
trên núi (1982) và Lời dân tộc tôi (1995). Và
đặc biệt bài thơ Cây hai ngàn lá của ông đã
được nhiều bạn đọc biết đến như là một bài
thơ đẹp, độc đáo phản ánh đúng bản chất và
tâm hồn Pa Dí - một dân tộc chỉ có 2000
người như cái cây chỉ có "hai ngàn chiếc lá".
Chừng ấy thôi cũng đủ khẳng định một tiếng
thơ riêng, một giọng điệu riêng hoang dã và
trí tuệ - Pờ Sảo Mìn. Thơ ông là tiếng hát
vang vọng của rừng xanh vùng cao Mường
Khương (Lào Cai), là tiếng gà rừng trong ban
mai trong trẻo ở một vùng núi thẳm hoang vu:
Tôi chỉ là một con gà rừng/Trên vùng núi
thẳm hoang vu”[3, tr24].
Nét đặc sắc trong thơ ông còn thể hiện ở chất
triết lý thấm đượm trong từng câu thơ, từng
hình ảnh thơ - đó là chỗ thành công cũng là
chỗ mạnh nhất trong thơ ông. Không ít những
bài thơ của Pờ Sảo Mìn mang đậm tính triết
lý như: Người ba tầng, Tìm cây làm nhà
(Triết lý về con người); Lá, Đời người, Thời
gian (Triết lý về đời người); Ba lần rơi hố
(Triết lý về cách sống)
Nếu có thể nói, sáng tạo thơ ca là cả một cuộc
leo núi đầy vất vả nhưng đầy hăm hở của
những người say đắm cái đẹp và đi tìm cái
đẹp, thì Pờ Sảo Mìn đã tích cực leo lên và
đang ở phía trên lưng chừng dốc - nghĩa là đã
đến một điểm cao nhất định! Ở đó - ông đã
khẳng định mình xứng đáng là nhà thơ tiêu
biểu của dân tộc PaDí với một hồn thơ
cuồng nhiệt, đam mê, một tiếng gà gáy
vang vọng rừng xanh, một“ánh sáng nhỏ”
trong vùng sáng biên cương - như chính cái
tên của ông: Pờ Sảo Mìn!
Có thể nói rằng: Lò Ngân Sủn, Pờ Sảo Mìn
thuộc thế hệ văn nghệ sĩ các dân tộc thiểu số
trưởng thành sau năm 1975. Họ là những
gương mặt tiêu biểu trong vườn hoa nhiều
hương sắc của văn học dân tộc thiểu số Việt
Nam. Và một trong những yếu tố quan trọng
làm nên vẻ đẹp, sức hấp dẫn và góp phần tạo
nên một phong cách riêng độc đáo ấy ở họ -
chính là việc họ đã sử dụng một cách sáng tạo
thứ ngôn ngữ thơ giàu tính tạo hình trong các
bài thơ đậm sắc màu dân tộc của họ.
ĐẶC ĐIỂM CỦA NGÔN NGỮ TẠO HÌNH
TRONG THƠ CỦA LÒ NGÂN SỦN VÀ PỜ
SẢO MÌN
Như đã biết, một đặc điểm nổi bật của
phương thức tạo hình là sử dụng ngôn từ nghệ
thuật giàu hình tượng để miêu tả đối tượng
như nó vốn có trong thực tế khách quan. Một
tác phẩm thơ ca có sử dụng nhiều từ ngữ có
tính tạo hình là một tác phẩm đem đến cho
người đọc những bức tranh sinh động về cuộc
sống và hiện thực khiến người ta có thể cảm
nhận được một cách rõ nét như nhìn thấy
được, như nắm bắt được bởi những đường
nét, hình hài, màu sắc cụ thể của nó.
Tính tạo hình của ngôn ngữ thơ ca còn có khả
năng gợi mở, liên tưởng, tưởng tượng cho
người đọc ở hai phương diện: là chiếc cầu để
người đọc tìm về miền kí ức, tÌm lại những
hình ảnh, hình tượng đã gặp, đã thấy trong
quá khứ và giúp người đọc tưởng tượng ra
một thế giới kì diệu, đẹp và thật hơn cả sự
thật ngoài đời - qua thứ ngôn từ nghệ thuật
giàu tính tạo hình ấy! Nên có thể nói, ngôn
ngữ tạo hình trong thơ không những có khả
năng biểu hiện nội dung của sự vật hiện tượng
mà còn làm cho chúng hiện lên với một hình
hài cụ thể, sinh động, tạo nên một vẻ đẹp
mang tính thẩm mĩ và tính tư tưởng cao.
Lò Ngân Sủn, Pờ Sảo Mìn là hai nhà thơ dân
tộc thiểu số khá tiêu biểu trong việc sử dụng
thứ ngôn ngữ tạo hình một cách sáng tạo và
độc đáo qua các sáng tác cụ thể của mình. Và
chính thứ ngôn ngữ đó đã góp phần không
nhỏ đem lại sự thành công cho những tác
phẩm thơ của họ, đem lại những nét đặc trưng
cho giọng thơ họ, tạo hiệu quả cao trong cách
miêu tả của họ về thiên nhiên, cuộc sống và
con người miền núi. Và chính nó, đã góp
phần làm nên sức hấp dẫn trong các sáng tác
thơ của hai tác giả này.
Bức tranh thiên nhiên qua ngôn ngữ tạo hình
Trong các tác phẩm thơ viết về miền núi vùng
Tây Bắc, Việt Bắc - nhà thơ Lò Ngân Sủn và
Pờ Sảo Mìn đã tỏ ra rất say mê miêu tả phong
cảnh thiên nhiên vùng núi cao với vẻ đẹp
hùng vĩ, dữ dội và đầy lãng mạn. Chính do
Trần Thị Việt Trung và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 65(03): 54 - 60
56
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
cách sử dụng ngôn ngữ tạo hình một cách
sáng tạo và độc đáo mà Lò Ngân Sủn, Pờ Sảo
Mìn đã khắc họa nên bức tranh thiên nhiên,
bức tranh cuộc sống với hình ảnh con người
với bao phong tục tập quán văn hóa đặc sắc
nơi núi rừng Tây Bắc, Việt Bắc với một màu
sắc rực rỡ và vô cùng sinh động.
Đọc những tập thơ, bài thơ của họ viết về miền
núi Tây Bắc, Việt Bắc ta thấy hiện lên cảnh sắc
núi rừng thật hùng vĩ, dữ dội, hoang sơ, hiểm
trở, nhưng cũng rất mực diễm lệ, thơ mộng,
rực rỡ. Ví dụ như khi viết về gió, về sông, về
suối... ở vùng núi cao này họ đã chú ý miêu tả
những nét đặc trưng rất riêng của nó. Bởi họ là
người miền núi, lại được sinh ra và lớn lên ở
miền núi nên họ có cách cảm nhận và diễn đạt
rất đặc biệt với thứ ngôn ngữ giàu chất tạo
hình như: "Gió lồng lên như ngựa thét tung
vó/Gió gầm lên như sấm sét ầm ầm" [10, tr.8],
"Gió lạnh hú bên bãi tha ma" [4, tr33]...
Đây là những cơn gió ở vùng núi cao mỗi khi
mùa đông đến! Nó được nhà thơ Lò Ngân
Sủn và Pờ Sảo Mìn miêu tả rất cụ thể, chính
xác với các từ tượng thanh, tượng hình...
khiến người ta phải ghê sợ, "sởn gai ốc" với
những hình ảnh từ "gió hú”, "gió gầm lên",
"gió lồng lên"... Bức tranh thiên nhiên dữ dội
đến khắc nghiệt ấy được miêu tả bằng hàng
loạt các từ láy và các động từ mạnh: "ầm ầm,
gầm gào, thét, lồng lên, gầm lên"... Nhưng
bức tranh thiên nhiên vùng cao ấy không phải
chỉ có sự khắc nghiệt và dữ dội - nó còn là
những mảng màu thật tươi sáng, trong trẻo,
thơ mộng nữa. Sắc màu thiên nhiên với
những làn mây trắng muôn hình vẻ nơi núi
non này được tác giả phác họa thật sinh
động, kì ảo: Mây ngập ngừng lả lướt/Rực
cháy giữa khoảng không [7, tr42]; Dòng
mây tung cuộn sóng [7, tr43]; Mơn man làn
mây buông xõa [10, tr47]
Còn khi viết về mùa xuân ở nơi đây, tác giả
đã phác họa bằng những câu thơ rực rỡ sắc
màu như: Mùa xuân lại đến đấy/Tiếng chim
rừng hát vang gọi bạn/Ban trắng, đào hồng
và muôn hoa chớm nụ/Ngôi sao xanh nhấp
nháy cười trên núi/Giữa xanh cây rừng thông
mọc đầy sao" [4, tr34]
Hình ảnh mùa xuân trở về sau bao ngày mùa
đông giá lạnh thật rực rỡ, lộng lẫy và đầy sức
sống còn được Lò Ngân Sủn, Pờ Sảo Mìn
miêu tả tinh tế, chính xác bằng thứ ngôn ngữ
giàu tính tạo hình, giàu chất biểu cảm với thủ
pháp nhân hóa rất đặc sắc như: Mây mặc áo
trắng/Nắng mặc áo vàng/Rừng mặc áo
xanh/Núi đội nón mây/Gió quẩy hương hoa
[6, tr42]; Gió nhẹ nhàng thoi đưa/Mưa rắc
hương rắc hạt [11, tr11]; Hoa mộc miên nở
rồi trinh trắng/Bông ban đỏ chúm chím nụ
cười/Hai bầu trời họa mi hót vang [3, tr83]
Pờ Sảo Mìn và Lò Ngân Sủn rất hay sử dụng
các thủ pháp so sánh, ví von, các thủ pháp
nhân hóa... để miêu tả thiên nhiên, miêu tả sự
vật, loài vật... Chính vì vậy: thiên nhiên, loài
vật... trong thơ các ông dường như đều có tâm
hồn, như có sự giao cảm đặc biệt với con
người vậy: Bỗng gà rừng cất cao giọng
hót/Muôn loài chim thức dậy xôn xao [6, tr29];
Tiếng hoẵng gọi nghe như tiếng còi tầu xa [8,
tr33]; Nắng chiều như mảnh lát hoa giữa rừng
[8, tr44]; Nắng cài hoa lưng núi [8, tr94]
Khi miêu tả những cảnh sắc núi rừng với
những dòng suối - một nét đặc trưng chỉ có ở
miền núi mà thôi - Lò Ngân Sủn và Pờ Sảo
Mìn đã có những câu thơ thật đẹp, thật phóng
túng, thật dữ dội và cũng thật dịu dàng... dành
cho việc mô tả con suối ấy! Từ ngữ ở đây đầy
hình ảnh - thật lung linh sắc màu, thật mềm
mại, nuột nà như người sơn nữ, nhưng cũng
đầy mạnh mẽ, dữ dội như người "trai của núi"
và đôi khi như đứa trẻ nghịch ngợm: Suối đi
như một đường xanh/Uốn quanh chân núi, uốn
quanh chân đồi/Khúc im lặng/Khúc xa xôi/Gặp
cơn mưa đổ sục sôi ào ào/Gặp mùa hạn hán
lao xao/Gặp nơi có thác suối trào ra mây [12,
tr51]; Suối buông thả khỏa thân [7, tr32]
Hoặc khi miêu tả trăng trên vùng núi non cao
thẳm này - Hai nhà thơ thiểu số tài hoa này
cũng luôn có một cách thể hiện riêng - bằng
các hình ảnh thơ rất lạ, bằng cách so sánh, ví
von thật miền núi, và bằng cách cảm nhận
nhuốm màu phồn thực đầy sức sống như:
Trăng non/Như ngô non/Như măng
non/Trăng non lồng lộng xa xôi lắm/Trăng
non ngồn ngộn ngay trước mặt/Trăng non
vằng vặc/Nằm khỏa thân [12, tr146]; Mơn
man vầng trăng nõn nà [7, tr23]; Thoang
thoảng bờ suối mùa nếp tan/Bất ngờ trăng
khuya nở đầy tràn [7, tr149]
Trần Thị Việt Trung và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 65(03): 54 - 60
57
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Nói tóm lại, với thứ ngôn ngữ thơ giàu hình
ảnh, giàu màu sắc, mang tính tạo hình cao -
hai tác giả thơ miền núi tiêu biểu Lò Ngân
Sủn và Pờ Sảo Mìn đã dựng lên một bức
tranh thiên nhiên núi rừng Tây Bắc, Việt Bắc
bằng những nét vẽ mềm mại mà sắc nét, chân
thực và hào hoa - với những cảnh núi non
hùng vĩ, đầy hoang dã, bí hiểm, dữ dội (núi
cao, vực sâu, gió gào, thác thét...) nhưng
cũng đầy thơ mộng, đầy quyến rũ, gần gũi,
hòa hợp với con người (suối xanh, gió mát,
trăng trong, nương rẫy trù phú, hoa rừng
ngát hương, ong mật từng bầy...).
Ngôn ngữ thơ giàu chất tạo hình trong việc
khắc họa hình ảnh con người miền núi
Con người miền núi trong thơ của Lò Ngân
Sủn, Pờ Sảo Mìn hiện lên vô cùng sinh động
với những tính cách: thật thà, chất phác, đôn
hậu, cả tin... và tuy nghèo khổ, cơ cực nhưng
lại rất giàu tình nghĩa con người. Nét đặc sắc
trong việc miêu tả hình ảnh con người miền
núi vùng cao ấy của Lò Ngân Sủn và Pờ Sảo
Mìn - chính là việc họ đã sử dụng thứ ngôn
ngữ giàu hình tượng nhất để miêu tả về ngoại
hình, cũng như miêu tả thế giới tâm hồn
những người con của núi.
Trong thế giới hình con người miền núi - nổi
bật nhất trong thơ của hai tác giả này chính là
hình ảnh người phụ nữ. Họ chính là "hoa của
bản mường", là "mật ong", là "khúc mía", là
"nguồn suối trong xanh", là "mây trắng", là
"mùa xuân" của núi rừng. Họ là nguồn cảm
xúc mãnh liệt không bao giờ vơi cạn đối với
các chàng thi sĩ miền núi xưa nay. Bài thơ
Người đẹp của Lò Ngân Sủn là một thành
công lớn, một phát hiện độc đáo, một cách thể
hiện rất đặc sắc, khiến nhiều người thích thú,
bất ngờ bởi cách diễn đạt rất riêng của ông:
Người đẹp trông như tuyết/Chạm vào lại thấy
nóng/Người đẹp trông như lửa/Sờ vào lại
thấy mát/Người không khát - nhìn thấy
người đẹp cũng khát/Người không đói -
nhìn thấy người đẹp cũng đói/ Người muốn
chết - gặp người đẹp lại không muốn chết
nữa/Ơ! Người đẹp là ước mơ/Treo trước
mặt mọi người[10, tr128].
Những câu thơ vừa mang tính bản năng, vừa
mang tính trí tuệ, những câu thơ hồn nhiên,
trong vắt nhưng lại nhuốm màu triết lí nhân
sinh! Với bài thơ này người ta nhận ra cái bản
lĩnh của một nhà thơ miền núi đã biết diễn tả
bằng cách mới những chân lí bình thường.
Khi viết về những người phụ nữ miền núi -
Lò Ngân Sủn và Pờ Sảo Mìn thường có một
cảm hứng mãnh liệt, một sức sáng tạo bất
ngờ. Họ luôn tìm được những ngôn từ có tính
tạo hình và tính biểu cảm cao để diễn tả nhan
sắc bên ngoài lẫn nhan sắc bên trong của
người phụ nữ. Đặc trưng nhất là các ngôn từ
nghệ thuật miêu tả đôi mắt - cửa sổ tâm hồn
và trái tim của người phụ nữ. Tác giả đã ví
đôi mắt ấy với những hình ảnh đặc biệt, mang
hương sắc núi rừng như: Đôi mắt ướt như mỡ
nóng trong chảo [10, tr114]; Đôi mắt ngọt
như mật ong trong rừng [10, tr114]; Mắt em
đen láy/Đỉnh núi ao trong/Đôi mắt em
tròn/Một vành trăng tỏ [4, tr18]
Vẻ đẹp phồn thực đầy sức sống ấy còn được các
nhà thơ miêu tả thật cụ thể, thật gợi cảm và
cũng thật hình ảnh về hình thể của người phụ nữ
miền núi: Gần nắng trời nên da em thắm
đỏ/Tắm ánh trăng hóa da em trắng ngần/Gót
chân son đỏ trái ngọt lê táo [4, tr21]; Con gái ở
đây đẹp như thân cây chuối rừng bóc vỏ [7,
tr71]; Tay nâng bộ ngực/Bầu vú căng tròn [7,
tr27]; Đôi núm vú như cơ pái nở/Như cánh chim
arin nhấp nhô buổi sáng [12, tr90]
Vẻ đẹp của người con gái miền núi được so
sánh như thân cây chuối rừng bóc vỏ, bộ
ngực được so sánh như cơ pái nở, như cánh
arin nhấp nhô buổi sớm. Đây là một vẻ đẹp
rất "trần tục" mà không thô tục, một vẻ đẹp
phồn thực, đầy sức sống, khiến ai cũng muốn
chiêm ngưỡng và đắm say.
Vẻ đẹp khỏe mạnh, nồng nàn vừa kín đáo,
duyên dáng vừa rực lửa của người thiếu nữ
miền núi ấy cứ hiện lên một cách sinh động,
đầy sức sống qua phép liệt kê và phép so sánh
đặc biệt của tác giả: Ôi em/Con gái Bản
Tông/Mông em tròn mập như bắp chuối/Váy
em buộc thắt đáy lưng ong/Ngực em căng
hai bầu sữa ngọt/Tóc chảy xuống như một
dòng suối/Mắt em tỏa ánh sao mơ/Hai má
em như hai quả đào chín/Hai môi em như
hai miếng thịt nướng/Thân hình em trông
như một bó củi chắc nịch/Da thịt em hừng
hực như lửa [12, tr132]
Trần Thị Việt Trung và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 65(03): 54 - 60
58
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Cách nói, cách so sánh ví von trên đã thể hiện
những quan niệm về vẻ đẹp của người phụ nữ
dân tộc của các nhà thơ này. Trước hết, đó
phải là người khỏe mạnh, đầy sức sống, đầy
khả năng làm mẹ, làm vợ. Một vẻ đẹp tự
nhiên, hồn nhiên - như thiên nhiên; một vẻ
đẹp nồng nàn, dữ dội, mãnh liệt đầy tính phồn
thực và sức cuốn hút đối với người khác giới.
Với cách dùng hàng loạt các từ ngữ mang tính
tạo hình cao như: tròn mập, thắt đáy lưng
ong, ngực căng tròn..., cùng cách dùng hàng
loạt các từ so sánh ví von: như bắp chuối, như
dòng suối, như hai quả đào chín, như hai
miếng thịt nướng, như một bó củi chắc nịch,
như lửa... hình ảnh người phụ nữ miền núi
hiện lên thật xinh đẹp, khỏe mạnh và đáng
yêu biết bao: Đôi tay em như hai tấm cơm
lam/Đôi chân em như hai cái bắp chuối [12,
tr75]; Da thịt em mịn màng làn mây trắng/Mái
đầu em mượt mà bông tóc/Khuôn ngực em căng
phồng hai trái núi mùa xuân [12, tr5]
Còn đối với người trai miền núi - các nhà thơ
này cũng có một cách diễn tả, thể hiện rất lạ,
mang dấu ấn của "riêng mình". Với Con trai
người Pá Dí - Pờ Sảo Mìn đã đem đến cho
người đọc một hình ảnh chàng trai dân tộc Pá
Dí với những nét phác họa hết sức chân thực
nhưng cũng rất hình ảnh và mang tính khái
quát - qua những ngôn từ mang tính tạo hình
và tính biểu cảm cao: Con trai người Pá
Dí/Mắt một mí, tóc đen, mũi tẹt, da
vàng/Dáng ngang tàng vẻ quẫy đạp trần gian
[2, tr5]; Những chàng trai/Chân đất/Mặc
khố/Đi như gió thổi qua rừng [12, tr8].
Viết về những con người miền núi - những
con người không chỉ đẹp ở vẻ bên ngoài mà
còn đẹp ở đời sống nội tâm. Miêu tả thế giới
nội tâm với các cung bậc tình cảm khác nhau
trong họ là một thành công đáng ghi nhận
của cả hai nhà thơ trên. Để hiểu họ từ trong
chiều sâu tâm hồn cũng như những tính cách
của con người miền núi, các nhà thơ phải có
sự hiểu biết thật sâu sắc, có một trái tim nhạy
cảm và phải có khả năng sử dụng một cách
tài tình ngôn ngữ thơ giàu tính tạo hình để
miêu tả một cách chính xác, sinh động
những sắc thái muôn màu của thế giới nội
tâm con người miền núi.
Là những người "trai của núi" - Lò Ngân Sủn
và Pờ Sảo Mìn viết về tình yêu lứa đôi với
một cách cảm nhận rất riêng, một cách diễn
đạt rất riêng của một người nghệ sĩ dân tộc
thiểu số. Với Lò Ngân Sủn thì tình yêu luôn
là nỗi nhớ da diết, nỗi nhớ được hiện lên cụ
thể như nhìn thấy được, như nắm được bởi nó
được hình dung như là "quả nhớ" vậy! "Quả
nhớ" ấy nằm mọi nơi, mọi chốn trên tất cả cơ
thể rực cháy của người trai miền núi: Quả
nhớ ở trong ngực/Quả mong ở trong tim/Quả
nhớ bằng trái núi/Quả mong bằng quả
trời/Nhớ nhiều mây tím bầm/Mong nhiều nổi
giông bão/Nhắc đến em động trời [7, tr91].
Tình yêu luôn được thể hiện ở nhiều cung bậc
tình cảm khác nhau như: nỗi nhớ, niềm mong,
nỗi da diết khôn nguôi, sự đợi chờ đau đáu và
có một cái gì đó rất bản năng, rất mãnh liệt
luôn cháy bỏng trong lòng: Anh yêu em/Như
con sói đói mồi/Như con trâu đói cỏ/Như con
hổ đói ăn/Như con gấu đói mật [6, tr54].
Cách so sánh, cách diễn đạt và hình ảnh thơ
mà tác giả đã sử dụng rất đặc biệt (so sánh với
những con vật khỏe mạnh, dữ dội như: sói,
hổ, gấu... ở trong rừng) - là một người con
của núi rừng nên tác giả mới có cách so sánh
như vậy! Vì thế mà những sắc thái của tình
yêu ở đây cũng mang đậm sắc màu miền núi.
Nhưng có khi tình yêu lại được so sánh với
những vật, những thứ hoa, quả... rất ngọt
ngào, đầy vẻ lãng mạn và thật cháy bỏng, bạo
liệt: Em như khe suối bên rừng/Anh vừa trông
thấy muốn dừng uống ngay/Em như đào mận
trên cây/Anh vừa trông thấy muốn tay vịn
cành/Em như hoa nở mùa xuân/Anh vừa
trông thấy âm thầm bén duyên/Em như câu
hát tháng giêng/Anh vừa trông thấy ngả
nghiêng đất trời [12, tr124]; Em như là ngày
tết/Đẹp như cái bánh chưng/Em như con
đường dốc/Làm lòng anh rối bời (Em như là
ngày tết - Lò Ngân Sủn).
Viết về tình yêu, về nỗi nhớ, tác giả luôn tìm
tòi và sáng tạo ra những hình ảnh độc đáo như:
Lăn lóc trong trăn trở/Quay cuồng trong nỗi
nhớ [7, tr120]; Em như chum rượu ắp đầy/Để
cho anh uống anh say suốt đời [5, tr58]
Trần Thị Việt Trung và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 65(03): 54 - 60
59
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Hoặc có khi tình yêu được ví như miếng cao
lương, như rượu nồng... Pờ Sảo Mìn cũng đã
viết về người yêu của mình như thế: Em là
cao lương/Anh ăn đỡ đói; Em là rượu
nồng/Để anh uống say; Em là bài ca/Để cho
anh hát [1, tr18]Tình yêu của người miền
núi thật là cuồng nhiệt, thật là đắm đuối, nhưng
cũng có khi thật là kín đáo, ý nhị: Mối tình đầu
của tôi/Như bông hoa chớm nở/Như ngọn lửa
mới nhen/Bén như cây xấu hổ [7, tr93].
Cái sắc thái khác nhau trong tình yêu ấy đã
được Lò Ngân Sủn miêu tả một cách rất cụ thể
mà cũng rất khái quát bằng những ngôn từ
mang đầy hình ảnh như: Mối tình đầu/Lửa bốc
trước gió/Mối tình giữa/Vừa ăn vừa thổi/Mối
tính cuối/Ngồi đợi trăng lên" [9, tr23]. Vâng -
tình yêu quả có muôn vàn sự lạ, và đã có rất
nhiều cách để diễn tả tình yêu. Với người miền
núi - họ có cách cảm, cách nghĩ, cách nói rất
khác với người miền xuôi, họ không khéo léo,
không tế nhị quá nhưng lại biết diễn đạt một
cách rất hình ảnh, rất tinh tế và rất độc đáo nữa!
Bên cạnh đó, khi viết về hình ảnh những con
người miền núi trong xã hội cũ, với một cuộc
sống đầy lam lũ, cơ cực, nghèo khổ - Lò
Ngân Sủn và Pờ Sảo Mìn đã sử dụng rất
nhiều hình tượng thơ giàu tính biểu cảm như
những câu thơ: Rét nhiều lòng mẹ tái tê/Trên
gương mặt mẹ bốn bề nếp nhăn/Lưng còng
uốn tựa vành trăng/Mắt mờ mẹ lẫn giữa đêm
với ngày/Mẹ đi run rẩy chân tay/Mẹ đi cái
dáng hao gầy mẹ đi [8, tr35].
Tác giả đã mô tả một cách chi tiết những
đường nét, những trạng thái tình cảm, tinh
thần... của bà mẹ với một loạt ngôn từ giàu
tính tạo hình. Sử dụng từ láy, từ so sánh có tính
gợi cảm như: tái tê, bốn bề, run rẩy, làm nổi
bật dáng hình và nỗi khổ, sự vất vả đè nặng lên
cuộc đời của người mẹ nghèo miền núi.
Hình ảnh những người vợ miền núi lam lũ,
chịu thương, chịu khó cũng được nhà thơ Pờ
Sảo Mìn miêu tả bằng các hình ảnh, sinh động
cụ thể như: Nỗi lo toan in trên vầng trán/Nếp
nhăn nheo chéo ngang chéo dọc/Cái nhọc
nhằn in ở bàn chân [1, tr33]...Những từ láy
nhăn nheo, nhọc nhằn đã thể hiện rõ sự vất vả,
nỗi khó nhọc của những người vợ miền núi;
những từ có tính tạo hình như: chéo ngang chéo
dọc, nhọc nhằn in ở bàn chân cũng đã góp phần
khắc họa rõ hơn thân phận của những người
phụ nữ trong chế độ xưa
Nói tóm lại, trong các tác phẩm thơ của mình
- hai nhà thơ dân tộc thiểu số tiêu biểu - Lò
Ngân Sủn và Pờ Sảo Mìn đã thể hiện rất rõ
khả năng sáng tạo và khả năng sử dụng một
cách hiệu quả ngôn từ nghệ thuật giàu chất
tạo hình của mình. Với tình cảm yêu quê
hương tha thiết, hai "nghệ sĩ ngôn từ" này đã
thổi hồn vào bức tranh thiên nhiên miền núi,
khiến cho chúng vừa rực rỡ sắc màu, vừa sinh
động và đầy ý nghĩa nhân văn. Chính vì thế,
bức tranh bằng thơ mà các ông đã phác họa ra
ấy - ngoài vẻ đẹp của sắc màu nó còn thấm
đẫm tinh thần dân tộc trong từng chi tiết. Họ
cũng đã phác họa nên những bức chân dung
về con người miền núi một cách cụ thể, hết
sức sinh động. Đó là những chàng trai, những
cô gái miền núi khỏe mạnh, cường tráng, đầy
sức sống, rất lãng mạn, đa tình - những bông
hoa của núi rừng, những chủ nhân của vùng
cao núi non hùng vĩ. Đó là những bà mẹ,
những người vợ suốt đời gánh bao vất vả, lo
toan vì chồng, vì con; những người dân miền
núi chân thực, cả tin nhưng luôn sống hết
mình, hi sinh hết mình vì người khác. Những
hình ảnh đẹp đẽ đó đã được hiện lên bởi
những ngôn từ nghệ thuật giàu chất tạo hình,
giàu tính biểu cảm, với cách diễn đạt mang
đậm phong cách miền núi của hai nhà thơ
trên. Đây chính là một nét đặc sắc trong nghệ
thuật thơ của Lò Ngân Sủn và Pờ Sảo Mìn.
Và đây cũng chính là một đóng góp đáng ghi
nhận của hai nhà thơ miền núi đầy bản sắc
dân tộc này.
Trần Thị Việt Trung và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 65(03): 54 - 60
60
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Pờ Sảo Mìn (1992), Cây hai ngàn lá, tập thơ,
Nxb Văn hóa dân tộc, H.
[2]. Pờ Sảo Mìn (2001), Con trai người Pa Dí, tập
thơ, Nxb Văn hóa, H.
[3]. Pờ Sảo Mìn (2002), Cung đàn biên giới, tập
thơ, Hội Nhà văn & Hội Văn nghệ Lào Cai
[4]. Pờ Sảo Mìn (2005), Mắt rừng xanh, Nxb Văn
hóa dân tộc, H.
[5]. Lò Ngân Sủn (1992), Đám cưới, tập thơ, Nxb
Văn hóa dân tộc, H.
[6]. Lò Ngân Sủn (1993), Đường dốc, tập thơ,
Nxb Văn hóa dân tộc, H.
[7]. Lò Ngân Sủn (1996), Con của núi, Thơ chọn
tập I, Nxb Hội Nhà văn, H.
[8]. Lò Ngân Sủn (1996), Lều nương, tập thơ, Nxb
Văn hóa dân tộc, H.
[9]. Lò Ngân Sủn (1995), Dòng sông mây, tập thơ,
Nxb Văn hóa dân tộc, H.
[10]. Lò Ngân Sủn (1999), Người đẹp, tập thơ,
Nxb Văn hóa dân tộc, H.
[11]. Lò Ngân Sủn (2000), Người trên đá, tập thơ,
Nxb Văn hóa dân tộc, H.
[12]. Lò Ngân Sủn (2005), Bữa tình yêu, tập thơ,
Nxb Hội Nhà văn, H.
SHAPING POETICAL LANGUAGE - SPECIAL FEATURE IN WORKS
OF LO NGAN SUN AND PO SAO MIN
Tran Thi Viet Trung
2
, Nguyen Phương Ly
Thai Nguyen University Publising house
SUMMARY
Lo Ngan Sun and Po Sao Min are 2 quite typical poets of the mountainous area in the North by
own special, new and strange creation in their poems. They are the pride of Day nation, Pa Di in
particular, Vietnamese minorities in conmon. One of the important factors that makes the beauty,
attraction and contribute to creating their special and uniquely style is they creatively used the rich
in shaping poetical language in the nationally cultural pieces.
Key words: Language, shaping language, Lo Ngan Sun, Po Sao Min
2
Tel: 0912454575; Email:
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- brief_3857_9802_ngonngugiauchattaohinh_7501_2052836.pdf