III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Nghiên cứu bước đầu đã cho thấy lượng
Coliform ban đầu trong tôm sú nguyên liệu dao
động trong khoảng rộng từ < 3 đến > 1.100
MPN/g, trong khi lượng E.coli ban đầu chỉ ở
mức 3 MPN/g. Lượng Coliform ở tất cả 5 nhiệt
độ bảo quản ổn định 1, 4, 9, 15 và 19 ± 1°C
giảm nhẹ vào thời gian đầu bảo quản, không
phát triển ở 1 và 4 ± 1°C, nhưng tăng vào cuối
quá trình bảo quản ở 9, 15 và 19 ± 1°C. Trong
khi đó, E.coli không phát triển được ở 1 và 4
± 1°C, duy trì ở mức thấp ở 9, 15 và 19 ± 1°C
và cũng chỉ tăng vào cuối quá trình bảo quản.
Khi hết thời hạn bảo quản theo chỉ tiêu TVC,
mật độ Coliform trên tôm sau 4 ngày ở 1 ± 1°C
là 84 MPN/g; sau 2 ngày ở 4 ± 1°C là 23
MPN/g; sau 1,5 ngày (36 giờ) ở 9 ± 1°C là 7,7
MPN/g; sau 1,3 ngày (32 giờ) ở 15 ± 1°C là 3
MPN/g; và sau 0,8 ngày (19 giờ) ở 19 ± 1°C
là 3 MPN/g; còn mật độ E.coli ở các mốc thời
gian và nhiệt độ tương ứng trên đều nằm dưới
mức giới hạn cho phép.
4. Biến đổi của E.coli trong quá trình bảo quản tôm sú ở nhiệt độ biến động
Số lượng E.coli theo nhiệt độ và thời gian bảo quản được trình bày ở Hình 4.
Hình 4. Mật độ E.coli trên tôm sú trong quá trình bảo quản ở nhiệt độ biến động
BĐ 1: chế độ nhiệt độ biến động 1; BĐ 2: chế độ nhiệt độ biến động 2; BĐ 3: chế độ nhiệt độ biến động 3.
Ở 3 chế độ nhiệt độ biến động mô phỏng
phần cuối của chuỗi cung ứng tôm, lượng
Coliform tăng khi có sự tăng nhiệt độ xung
quanh, cả Coliform và E.coli đều bị ức chế
trong thời gian đầu (1-2 ngày) bảo quản ở
1 ± 1°C và thời gian cuối bảo quản ở 9 ± 1°C.
Lượng E.coli cũng nằm trong giới hạn cho
phép khi kết thúc quá trình bảo quản.
2. Kiến nghị
Nên xây dựng mô hình biến đổi của vi
sinh vật gây bệnh trên tôm sú để dự đoán số
lượng của chúng theo nhiệt độ và thời gian bảo
quản, góp phần đảm bảo chất lượng an toàn
thực phẩm. Ngoài ra, nên nghiên cứu thêm sự
biến đổi của vi sinh vật gây bệnh tại các chế
độ nhiệt độ biến động mô phỏng các điều kiện
thực tế khác của chuỗi cung ứng để kiểm định
mô hình.
9 trang |
Chia sẻ: thucuc2301 | Lượt xem: 600 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu về mật độ coliform và escherichia coli trên tôm sú nguyên liệu khi bảo quản ở nhiệt độ dương thấp - Mai Thị Tuyết Nga, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2016
NHA TRANG UNIVERSITY • 91
NGHIÊN CỨU VỀ MẬT ĐỘ COLIFORM VÀ ESCHERICHIA COLI
TRÊN TÔM SÚ NGUYÊN LIỆU KHI BẢO QUẢN Ở NHIỆT ĐỘ DƯƠNG THẤP
STUDYING ON THE COUNTS OF COLIFORM AND ESCHERICHIA COLI
IN BLACK TIGER SHRIMP DURING LOW TEMPERATURE STORAGE
Mai Thị Tuyết Nga1
Ngày nhận bài: 05/4/2016; Ngày phản biện thông qua: 03/8/2016; Ngày duyệt đăng: 15/12/2016
TÓM TẮT
Nghiên cứu theo dõi mật độ Coliform và Escherichia coli (E.coli) trong quá trình bảo quản lạnh tôm sú
ở 5 chế độ nhiệt độ ổn định (1, 4, 9, 15 và 19 ± 1 °C) và 3 chế độ nhiệt độ biến động mô phỏng phần cuối của
chuỗi cung ứng. Kết quả nghiên cứu cho thấy lượng Coliform ban đầu trong tôm sú nguyên liệu dao động trong
khoảng rộng từ 1.100 MPN/g, trong khi lượng E.coli ban đầu chỉ ở mức 3 MPN/g. E.coli không
phát triển được ở 1 và 4 ± 1°C. Khi hết thời hạn bảo quản, mật độ Coliform trên tôm sau 4 ngày ở 1 ± 1°C là
84 MPN/g; sau 2 ngày ở 4 ± 1°C là 23 MPN/g; sau 1,5 ngày (36 giờ) ở 9 ± 1°C là 7,7 MPN/g; sau 1,3 ngày
(32 giờ) ở 15 ± 1 °C là 3 MPN/g; và sau 0,8 ngày (19 giờ) ở 19 ± 1°C là 3 MPN/g; còn mật độ E.coli ở các
mốc thời gian và nhiệt độ tương ứng trên đều nằm dưới mức giới hạn cho phép. Ở 3 chế độ nhiệt độ biến động,
lượng Coliform tăng khi có sự tăng đến nhiệt độ của môi trường xung quanh, cả Coliform và E.coli đều bị ức
chế trong thời gian đầu (1-2 ngày) bảo quản ở 1 ± 1°C và thời gian cuối bảo quản ở 9 ± 1°C, lượng E.coli cũng
nằm trong giới hạn cho phép khi kết thúc quá trình bảo quản.
Từ khóa: Coliform, E.coli, tôm sú, bảo quản lạnh
ABSTRACT
This study monitored the counts of Coliform and E.coli during low temperature storage at 5 stable
temperature regimes (1, 4, 9, 15, and 19 ± 1°C) and 3 dynamic ones stimulating the end of supply chains. The
results showed that the initial counts of Coliform were in a large range from 1,100 MPN/g, while those
of E.coli were as low as 3 MPN/g. E.coli did not grow at 1 and 4 ± 1°C. At the end of the shrimp shelf life, the
counts of Coliform after 4 storage days at 1 ± 1°C, 2 days at 4 ± 1°C, 1.5 days (36 hours) at 9 ± 1°C, 1.3 days
(32 hours) at 15 ± 1°C, and 0.8 days (19 hours) at 19 ± 1°C were 84 MPN/g, 23 MPN/g, 7.7 MPN/g, 3MPN/g,
and 3 MPN/g, respectively; while the counts of E.coli at corresponding times and temperatures were well below
the acceptable limit. At the 3 dynamic temperature regimes, Coliform counts raised when there was an increase
in storage temperature till ambient environment, both Coliform and E.coli were inhibited at the beginning
(1-2 days) of storage at 1 ± 1°C and at the latter time of storage at 9 ± 1°C, the counts of E.coli were still within
the acceptable limit at the storage ends.
Keywords: Coliform, E.coli, black tiger shrimp, low temperature storage
1 Khoa Công nghệ thực phẩm - Trường Đại học Nha Trang
THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC
92 • NHA TRANG UNIVERSITY
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2016
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nước ta có điều kiện tự nhiên rất thuận
lợi cho hoạt động khai thác và nuôi trồng thủy
sản. Sản lượng thủy sản tăng trưởng liên tục
trong những năm qua, bình quân đạt 9,07%/
năm, đóng góp đáng kể vào tăng trưởng tổng
sản lượng thủy sản của cả nước. Nhờ vậy mà
nước ta trở thành một trong những quốc gia
xuất khẩu tôm hàng đầu thế giới, sản phẩm
tôm đã có mặt trên 91 quốc gia và vùng lãnh
thổ. Trong năm 2015 kim ngạch xuất khẩu mặt
hàng tôm đạt 2,95 tỷ USD và chiếm 44% tổng
kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam,
trong đó xuất khẩu tôm sú đạt 963 triệu USD
[9]. Từ số liệu này cho thấy tôm nói chung và
tôm sú nói riêng là mặt hàng rất quan trọng.
Do đó việc đảm bảo chất lượng của tôm
nguyên liệu là yếu tố quyết định đến giá trị sản
phẩm. Tôm sú thường được xuất khẩu dưới
dạng đông lạnh, ở điều kiện này hầu hết các
vi sinh vật bị ức chế sinh trưởng. Tuy nhiên,
việc bảo quản nguyên liệu sau thu hoạch trước
chế biến đông hoặc bảo quản tôm bán thành
phẩm, thành phẩm vào cuối chuỗi cung ứng
ở điều kiện nhiệt độ dương thấp tạo điều kiện
cho vi sinh vật sinh trưởng và phát triển. Vì vậy
việc nghiên cứu sự biến đổi chất lượng của
tôm trong quá trình bảo quản lạnh là cần thiết,
trong đó phải kể đến sự biến đổi của các vi
sinh vật gây bệnh hiện diện và lây nhiễm trên
tôm sú.
An toàn vệ sinh thực phẩm là vấn đề được
xã hội rất quan tâm hiện nay. Ngộ độc thực
phẩm và các bệnh do thực phẩm gây ra không
chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của con
người mà còn gây thiệt hại về kinh tế và xã
hội. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), trên
thế giới hàng năm cứ 10 người thì có 1 người
bị ốm do nguyên nhân ngộ độc thực phẩm
và 420.000 ca tử vong, trong đó Châu Phi và
Đông Nam Á là hai khu vực có tỉ lệ ngộ độc
thực phẩm cao nhất, và vi khuẩn gây bệnh
E.coli là nguyên nhân chính của nhiều vụ tiêu
chảy [13]. Mỗi năm nước ta có khoảng 250-500
vụ ngộ độc thực phẩm với 7.000-10.000 nạn
nhân và 100-200 ca tử vong, trong số đó ngộ
độc do vi sinh vật gây bệnh chiếm 33-49%, và
một trong những vi khuẩn gây bệnh thường
gặp là E.coli [2]. Coliform và E.coli là hai chỉ
tiêu vi sinh vật chỉ thị vệ sinh y tế, theo Quyết
định 46/2007/QĐ-BYT của Bộ Y tế thì lượng
E.coli trong thủy sản đông lạnh, tươi cần chế
biến nhiệt trước khi ăn là không quá 100 đơn vị
hình thành khuẩn lạc trên gam (CFU/g) [1]. Do
đó, tiến hành nghiên cứu theo dõi mật độ của
chúng trong quá trình bảo quản tôm sú nguyên
liệu ở nhiệt độ dương thấp là rất cần thiết.
II. ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng và vật liệu nghiên cứu
Tôm sú (Penaeus monodon) sử dụng trong
thí nghiệm được thu mua từ các đìa nuôi tại
Bình Định, cỡ 30-40 con/kg, tôm được ướp
luân phiên với các lớp nước đá xay trong
thùng xốp cách nhiệt kín và được vận chuyển
về phòng thí nghiệm Công nghệ Thực phẩm -
Trường Đại học Nha Trang trong vòng 5 giờ,
nhiệt kế tự ghi được đặt bên trong thùng
xốp để theo dõi nhiệt độ trong quá trình vận
chuyển. Tại phòng thí nghiệm, tôm được rửa
bằng nước lạnh (0-4 °C), để ráo, xếp khay
xốp sạch, mỗi khay gồm 6 cá thể tôm sú
(khoảng 150-200 gam), bọc kín bằng màng
polyethylene (PE) mỏng.
Các khay tôm được bảo quản trong ngăn
mát của tủ lạnh dân dụng (Sharp-284 lít), tủ
được lắp thêm bộ phận cảm biến nhiệt để điều
khiển nhiệt độ tủ bảo quản ở các chế độ nhiệt
độ ổn định khác nhau: 1, 4, 9, 15 và 19 ± 1°C;
3 chế độ nhiệt độ biến động mô phỏng điều
kiện thực tế. Tủ bảo quản mẫu được đặt tại
phòng thí nghiệm Công nghệ Thực phẩm, mẫu
vi sinh được phân tích tại phòng thí nghiệm vi
sinh (tầng 4 - khu B3). Mỗi lẫn lấy mẫu kiểm tra
các chỉ tiêu vi sinh vật gồm 1 khay (chứa 6 cá
thể tôm sú, khoảng 150-200 gam), chuyển vào
túi Polyamide (PA) sạch bằng panh vô trùng
để làm nhỏ và đồng nhất bằng máy dập mẫu
Smasher, sau đó dùng panh vô trùng lấy 25g
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2016
NHA TRANG UNIVERSITY • 93
mẫu cho vào túi PE tiến hành kiểm tra các chỉ
tiêu vi sinh vật.
Hóa chất và môi trường sử dụng gồm:
EMB agar (Merck), Lauryl sulfate broth
(Merck), Pepton from meat (Merck), Sodium
hydroxide (Trung Quốc), NaCl (Trung Quốc),
Na2HPO4.12H2O (Trung Quốc), KH2PO4 (Trung
Quốc), Pepton from casein (Merck), Kovac’s
(Merck).
2. Phương pháp nghiên cứu
2.1. Bố trí thí nghiệm
2.1.1. Bố trí thí nghiệm ở nhiệt độ ổn định
Tôm sú sau khi được xử lý như mô tả bên
trên được bảo quản ở 5 chế độ nhiệt độ ổn
định là: 1, 4, 9, 15 và 19 ± 1°C. Thời gian bảo
quản mẫu được bố trí dựa trên kết quả khảo
sát của Trần Thị Thu Lệ (2015) [8]. Ở mỗi chế
độ nhiệt độ, lấy 7 điểm mẫu để làm thí nghiệm
và căn cứ vào thời gian bảo quản ở từng nhiệt
độ, tiến hành lấy mẫu tôm tại những thời điểm
cụ thể để kiểm tra các chi tiêu vi sinh vật gây
bệnh Coliform và E.coli. Ngoài ra còn kiểm tra
các chỉ tiêu chất lượng khác không thuộc phạm
vi trình bày của bài báo này (như tổng vi sinh
vật hiếu khí (TVC) và các vi sinh vật gây hỏng
đặc trưng, tổng nitơ bazơ bay hơi (TVB-N) và
chất lượng cảm quan). Mục đích lấy 7 điểm
mẫu tại mỗi chế độ bảo quản là để đủ dữ liệu
phục vụ cho xây dựng mô hình biến đổi chất
lượng tôm sú ở các nhiệt độ khác nhau theo
thời gian bảo quản [10]. Thời điểm lấy mẫu ở
các chế độ nhiệt độ khác nhau tùy thuộc vào
thời gian bảo quản mẫu ở nhiệt độ đó, sao cho
đảm bảo số điểm mẫu và tạo điều kiện để phát
hiện được quy luật biến đổi (nếu có) của chỉ
tiêu chất lượng nhất định [10].
2.1.2. Bố trí thí nghiệm ở nhiệt độ biến động
Tôm sú sau khi xử lý và xếp vào khay xốp
được bảo quản ở 3 chế độ nhiệt độ biến động:
nhiệt độ biến động 1, nhiệt độ biến động 2 và
nhiệt độ biến động 3. Thí nghiệm được bố trí
dựa trên kết quả khảo sát ở 3 chế độ nhiệt độ
biến động của Trần Thị Thu Lệ (2015) [3]. Ở
mỗi chế độ nhiệt độ lấy 7 điểm mẫu để làm
thí nghiệm và căn cứ vào thời gian bảo quản ở
từng chế độ nhiệt độ, tiến hành lấy mẫu tôm tại
những thời điểm cụ thể để kiểm tra các chi tiêu
vi sinh vật gây bệnh Coliform, E.coli.
● Biến động 1 (BĐ 1): tôm sú sau khi đến
phòng thí nghiệm được xử lý và bao gói tương
tự như tôm bảo quản ở nhiệt độ ổn định trong
khay xốp sạch, mỗi khay 6 cá thể tôm, bao
màng PE và đưa vào bảo quản ở (a) chế độ
1 ± 1oC trong 48 giờ, (b) nhiệt độ môi trường
(30-32 oC) trong 2 giờ và (c) ở chế độ 9 ± 1 oC
cho đến khi tôm hỏng. Đây là chế độ mô phỏng
(a) việc tôm được bảo quản và bày bán tại siêu
thị, (b) sau đó được người tiêu dùng mua, vận
chuyển về và (c) cuối cùng bảo quản trong tủ
lạnh dân dụng.
● Biến động 2 (BĐ 2): tôm sú sau khi đến
phòng thí nghiệm được rửa và làm ráo ở điều
kiện tương tự như ở chế độ nhiệt độ ổn định,
xếp vào thùng xốp loại 5 kg với các lớp nước
đá xay luân phiên, đáy và mặt trên thùng đều
có nước đá xay để duy trì nhiệt độ thấp, đậy
kín nắp, dán kín thùng bằng băng keo vào bảo
quản (a) bằng nước đá trong thùng xốp (nhiệt
độ bên ngoài thùng 30-36 oC) trong 24 giờ. Sau
đó lấy ra xếp khay xốp sạch bao màng PE, (b)
bảo quản ở chế độ 1 ± 1oC trong 24 giờ, (c)
nhiệt độ môi trường (30-32 oC) trong 2 giờ và
(d) ở chế độ 9 ± 1 oC cho đến khi tôm hỏng.
Chế độ này mô phỏng (a) việc tôm được vận
chuyển từ các vùng nuôi về Nha Trang trong
xe vận chuyển dân dụng ở điều kiện thường,
(b) tiếp đến được bảo quản và bày bán tại siêu
thị, (c) sau đó được người tiêu dùng mua, vận
chuyển về và (d) cuối cùng bảo quản trong tủ
lạnh dân dụng.
● Biến động 3 (BĐ 3): tôm được xử lý và
bao gói vào thùng xốp tương tự như ở chế độ
biến động 2 và đưa vào bảo quản (a) bằng
nước đá trong thùng xốp, nhiệt độ bên ngoài
thùng 50-55 oC trong 12 giờ. Sau đó lấy ra xếp
khay xốp sạch bao màng PE, (b) bảo quản ở
chế độ 1 ± 1oC trong 24 giờ, (c) nhiệt độ môi
trường (30 - 32 oC) trong 2 giờ và (d) ở chế
độ 9 ± 1oC cho đến khi tôm hỏng. Chế độ này
94 • NHA TRANG UNIVERSITY
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2016
mô phỏng (a) việc tôm được vận chuyển từ
các vùng nuôi xa (Sóc Trăng, Cà Mau, ) về
Nha Trang trong các hầm chứa đồ của xe vận
chuyển dân dụng, (b) tiếp đến được bảo quản
và bày bán tại siêu thị, (c) sau đó được người
tiêu dùng mua, vận chuyển về và (d) cuối cùng
bảo quản trong tủ lạnh dân dụng.
2.2. Phương pháp phân tích vi sinh vật
2.2.1. Xác định số lượng Coliform
Số lượng Coliform được xác định theo
TCVN 4882: 2007 [7]. Số lượng Coliform được
xác định bằng phương pháp MPN, phương
pháp này dựa vào nguyên tắc mẫu được pha
loãng thành một dãy thập phân (hai nồng độ
kế tiếp chênh nhau 10 lần) và đưa vào các ống
nghiệm có chứa môi trường thích hợp, ủ và
đọc số ống cho kết quả dương tính. Số ống
nghiệm cho phản ứng dương tính của các
nồng độ pha loãng được tra theo bảng MPN
để xác định tổng số vi khuẩn trong 1 g (hoặc
1 ml) mẫu.
● Chuẩn bị mẫu, đồng nhất mẫu: dùng
panh vô trùng gắp các cá thể tôm cho vào túi
PA vô trùng, đồng nhất mẫu ở máy dập mẫu
Smasher, sau đó gắp 25 g mẫu cho vào túi
PE vô trùng. Thêm vào 225 ml dung dịch đệm
phosphat đã hấp khử trùng để nguội. Tiến
hành đồng nhất mẫu.
● Pha loãng mẫu: dịch được đồng nhất xong
tiếp tục pha loãng theo dãy thập phân bằng
cách dùng micropipet có gắn đầu hút được hấp
vô trùng hút 1 ml từ độ pha loãng 10-1 cho vào
ống nghiệm chứa 9 ml nước muối sinh lý đã hấp
khử trùng, đồng nhất ta được độ pha loãng 10-2.
Tiếp tục làm đến độ pha loãng 10-3.
● Cấy mẫu: cấy 1 ml dịch mẫu đã pha loãng
từ 10-1 đến 10-3 (chọn tỷ lệ pha loãng thích hợp
tùy thuộc vào mẫu, nếu nghi ngờ mẫu có mật
độ vi sinh vật cao thì tăng nồng độ pha loãng)
vào dãy 3 ống nghiệm, mỗi ống chứa 10 ml
canh Lauryl sulphate (LSB) đã hấp vô trùng,
ủ ở 37 °C và ghi nhận ống có sinh hơi sau ủ
24 giờ.
Kết quả: tra bảng Mac Crandy để xác định
tổng số Coliform trong 1 g mẫu.
2.2.2. Xác định số lượng E.coli
Phương pháp định lượng E.coli được quy
định theo TCVN 6846–2007 [8]. Chuẩn bị mẫu,
đồng nhất mẫu, pha loãng mẫu, cấy mẫu tương
tự như phương pháp định lượng Coliform. Từ
kết quả ghi nhận ống LSB có sinh hơi sau ủ
24 giờ. Dùng que cấy vòng cấy chuyển dịch
mẫu từ các ống LSB có sinh hơi sang đĩa petri
chứa môi trường EMB đã được hấp vô trùng.
Ủ ở 37 °C trong 24 giờ. Đọc kết quả các đĩa
petri có khuẩn lạc đỏ tím, ánh kim và dùng que
cấy vòng cấy chuyển các đĩa có khuẩn lạc đỏ
tím, ánh kim vào ống nghiệm chứa môi trường
pepton casein đã hấp khử trùng. Ủ ở 37 °C
trong 24 giờ. Tiếp đến ta nhỏ thuốc thử Kovac’s
vào các ống pepton casein. Đọc số lượng các
ống cho kết quả dương tính (dịch chứa trong
ống nghiệm phân thành 2 lớp, lớp trên màu đỏ,
lớp dưới màu vàng).
Số ống nghiệm cho phản ứng dương tính
của các nồng độ pha loãng được tra theo bảng
Mac Crandy để xác định số lượng E.coli có
trong 1 g mẫu.
2.3. Xử lý số liệu và vẽ đồ thị
Thí nghiệm được tiến hành lặp lại 3 lần độc
lập với 3 lô tôm, lô đầu tiên là lô khảo sát. Số
liệu được tính trung bình, độ lệch chuẩn trên
3 lần thí nghiệm và vẽ đồ thị bằng phần mềm
Excel (Offi ce 2007, Microsoft, USA). Phân tích
phương sai (ANOVA) và kiểm định Tukey được
thực hiện trên phần mềm SPSS 17.0 (SPSS
Inc., Chicago, IL, USA) với mức khác biệt có ý
nghĩa α = 0,05.
II. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
1. Biến đổi của Coliform trong quá trình bảo
quản tôm sú ở nhiệt độ ổn định
Theo nhiệt độ và thời gian bảo quản, sự
biến đổi số lượng Coliform được trình bày ở
Hình 1.
Kết quả phân tích ANOVA cho thấy có sự
khác biệt có ý nghĩa về mật độ Coliform giữa
các ngày bảo quản ở nhiệt độ 1 ± 1 °C, cụ thể
như sau: mật độ Coliform của ngày bảo quản
2 khác với tất cả các ngày còn lại trừ ngày 0;
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2016
NHA TRANG UNIVERSITY • 95
mật độ Coliform của ngày 4 khác với tất cả các
ngày còn lại (p < 0,05); trong khi đó, mật độ
Coliform của các ngày bảo quản 0, 6, 8, 9, 10
không có sự khác biệt có ý nghĩa (p > 0,05). Ở
nhiệt độ 4 ± 1°C, chỉ có mật độ Coliform của
ngày 0 khác với tất cả các ngày bảo quản sau
đó (p < 0,05). Không có sự khác biệt có ý nghĩa
(p > 0,05) về mật độ Coliform giữa các ngày
bảo quản ở các nhiệt độ 9 ± 1°C và 15 ± 1°C.
Ở nhiệt độ 19 ± 1°C, mật độ Coliform sau 1,3
ngày (30 giờ) bảo quản khác biệt có ý nghĩa
(p < 0,05) với tất cả các ngày bảo quản trước đó.
Hình 1. Mật độ Coliform trên tôm sú trong quá trình bảo quản lạnh ở nhiệt độ ổn định
Chữ cái khác nhau trên đồ thị mật độ Coliform ở mỗi nhiệt độ bảo quản thể hiện sự khác biệt có ý nghĩa (p < 0,05) về
mật độ Coliform trên tôm sú giữa các ngày bảo quản ở nhiệt độ tương ứng
Lượng Coliform ban đầu dao động rất lớn
từ 1.100 MPN/g, giá trị trung bình và
độ lệch chuẩn của tất cả các lô nghiên cứu ở cả
5 chế độ nhiệt độ ổn định là 169 ± 356 MPN/g
(Hình 1), cho thấy sự khác biệt lớn về lượng
vi khuẩn ban đầu giữa các lô. Điều này cũng
hoàn toàn phù hợp với thực tế rằng lượng vi
sinh vật ban đầu hiện diện và nhiễm vào thủy
sản là khác nhau, phụ thuộc vào nhiều yếu tố
như nguồn gốc thủy sản và thực hành vệ sinh
sau thu hoạch.
Từ kết quả thực nghiệm ở Hình 1 cho thấy
xu hướng biến đổi chung của lượng Coliform
ở tất cả 5 nhiệt độ bảo quản ổn định là giảm
nhẹ vào thời gian đầu bảo quản so với lượng
vi khuẩn khi bắt đầu bảo quản. Chẳng hạn,
khi bảo quản ở 1 ± 1°C lượng Coliform ban
đầu là 169 MPN/g, đến ngày bảo quản thứ
4 là 84 MPN/g và có xu hướng tiếp tục giảm
đến ngày bảo quản thứ 10 là 3,3 MPN/g. Ở
4 ± 1°C, lượng Coliform giảm đáng kể (p < 0,05)
đến 23 MPN/g vào ngày bảo quản thứ 2.
Ở nhiệt độ 9 ± 1°C, mật độ Coliform giảm
xuống 23 MPN/g sau 1,2 ngày (28 giờ) và 7,7
MPN/g sau 1,5 ngày (36 giờ) bảo quản. Ở 15
± 1°C, lượng Coliform giảm xuống 3 MPN/g tại
các thời điểm 0,4 ngày (9 giờ), 0,6 ngày
(15 giờ), 1 ngày và 1,3 ngày (32 giờ) bảo quản.
Ở 19 ± 1°C, số lượng Coliform cũng giảm
xuống mức 3 MPN/g sau 0,3 ngày (8 giờ) bảo
quản và duy trì ở giá trị này đến tận 0,9 ngày
(21 giờ) bảo quản. Kết quả này cũng tương
tự với kết quả nghiên cứu của Smith (1985),
Smith đã nhận định rằng ban đầu Coliform
chưa thích nghi với nhiệt độ lạnh nên khả năng
sinh trưởng bị ức chế [12].
Ở nhiệt độ dương thấp 1 và 4 ± 1oC, nhất
là ở nhiệt độ 1 ± 1oC lượng Coliform hầu như
không phát triển, ở 4 ± 1oC lượng vi khuẩn
có xu hướng tăng nhẹ sau 3 ngày bảo quản
nhưng không đáng kể (p > 0,05) (Hình 3). Kết
quả này khác với kết quả nghiên cứu của Mai
Thị Trang (2016) [5] khi tác giả này tìm ra xu
hướng biến đổi của lượng Coliform ở 1 ± 1°C
và 4 ± 1°C gần như tuân theo quy luật đường
cong sinh trưởng qua các pha của vi sinh vật.
Sự khác biệt về kết quả giữa hai nghiên cứu
có thể là do khác biệt về phương pháp không
gây nhiễm (ở nghiên cứu này) và gây nhiễm vi
khuẩn vào tôm [5].
Ở nhiệt độ 9 ± 1oC, mật độ Coliform biến
thiên không ổn định có thể là do tính cá thể của
96 • NHA TRANG UNIVERSITY
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2016
mẫu tôm, nhưng xu hướng chung là tăng vào
cuối thời gian bảo quản, sau 3 ngày đạt 551,5
MPN/g. Riêng ở nhiệt độ 15 ± 1°C và 19 ± 1°C
thì có xu hướng giống nhau, ở những thời
điểm đầu của quá trình bảo quản Coliform rất ít
nhưng theo thời gian đến những thời điểm cuối
cùng của quá trình bảo quản lượng Coliform
tăng lên đột ngột, đạt 251,5 MPN/g sau 2 ngày
bảo quản ở 15 ± 1°C, và 166,5 MPN/g sau 1
ngày bảo quản ở 19 ± 1°C. Kết quả này phù
hợp với kết quả nghiên cứu của Smith (1985)
rằng sau một thời gian, Coliform quen với nhiệt
độ lạnh, chúng sẽ phát triển [12].
Nếu căn cứ trên thời hạn bảo quản
tôm dựa trên chỉ tiêu TVC (không vượt quá
106 CFU/g) [1, 8], khi đó lượng Coliform tương
ứng như sau: sau 4 ngày ở 1 ± 1°C mật độ
Coliform trên tôm là 84 MPN/g; sau 2 ngày ở
4 ± 1°C là 23 MPN/g; sau 1,5 ngày (36 giờ) ở
9 ± 1°C là 7,7 MPN/g; sau 1,3 ngày (32 giờ) ở
15 ± 1°C là 3 MPN/g; và sau 0,8 ngày (19 giờ)
ở 19 ± 1°C là 3 MPN/g.
2. Biến đổi của E.coli trong quá trình bảo
quản tôm sú ở nhiệt độ ổn định
Theo nhiệt độ và thời gian bảo quản, sự biến
đổi số lượng E.coli được trình bày ở Hình 2.
Phân tích ANOVA cho thấy không có sự
khác biệt có ý nghĩa (p > 0,05) về mật độ E.coli
giữa các ngày bảo quản ở tất cả 5 chế độ nhiệt
độ ổn định 1, 4, 9, 15 và 19 ± 1°C.
Hình 2. Mật độ E.coli trên tôm sú trong quá trình bảo quản lạnh ở nhiệt độ ổn định
Từ kết quả thực nghiệm trên hình 4 cho thấy
tại các chế độ bảo quản: 1 ± 1°C, 4 ± 1°C, 9 ± 1°C,
15 ± 1°C và 19 ± 1°C, lượng E.coli của các
mẫu ban đầu đều bằng 3 MPN/g. Qua thời gian
bảo quản gần như lượng E.coli không biến đổi
hoặc biến đổi rất ít, dựa trên bảng chuyển đổi từ
MPN/g sang cfu/g trong nghiên cứu của Chitov
và Rattanchaiyanon (2010) [11], thấy rằng các
giá trị đều thấp hơn 100 CFU/g. Riêng chế độ
9 ± 1oC lượng E.coli ở điểm mẫu cuối (sau 3 ngày
bảo quản) cao và có độ lệch chuẩn lớn (121,5
± 167,6 MPN/g), đó có thể là do tính cá thể của
mẫu tôm và sự khác biệt về lô tôm. Giá trị 121,5
MPN/g không có trong bảng chuyển đổi của
Chitov và Rattanchaiyanon (2010) [11], nhưng
giá trị thấp hơn trong bảng 93 MPN E.coli/g
đã tương ứng với 1,60.102 CFU/g, tức mức
121,5 MPN/g đã vượt quá giới hạn 100 CFU/g
theo quy định 46/2007/QĐ-BYT của Bộ Y tế [1].
Tuy nhiên, nếu xét trong thời hạn bảo quản cho
phép theo chỉ tiêu TVC thì sau 4 ngày ở 1 ± 1°C /g;
2 ngày ở 4 ± 1°C; 1,5 ngày (36 giờ) ở 9 ± 1°C;
1,3 ngày (32 giờ) ở 15 ± 1°C; và 0,8 ngày
(19 giờ) ở 19 ± 1 °C lượng E.coli trong tôm đều
nằm trong giới hạn cho phép.
Kết quả này cũng tương đồng với các kết
quả nghiên cứu khác khi bảo quản tôm sú
cùng cỡ ở nhiệt độ thấp 0-4 °C. Kết quả nghiên
cứu của Dương Thị Phượng Liên và cộng sự
(2011) không phát hiện thấy E.coli sau 8-10
ngày bảo quản tôm sú cỡ 30 con/kg ở 0-4°C [4].
Theo nghiên cứu gây nhiễm E.coli vào tôm sú
của Mai Thị Trang (2016) thì ở nhiệt độ bảo
quản 1 ± 1°C và 4 ± 1°C, vi khuẩn này cũng
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2016
NHA TRANG UNIVERSITY • 97
không phát triển hoặc biến đổi không đáng kể
[5]. Như vậy, có thể khẳng định nhiệt độ dương
thấp 1 ± 1°C và 4 ± 1°C không phù hợp cho sự
phát triển của E.coli trên tôm.
Tuy nhiên kết quả ở 9, 15 và 19 ± 1°C
của nghiên cứu này khác với nghiên cứu gây
nhiễm E.coli vào tôm sú cùng cỡ của Mai Thị
Trang (2016) [5] khi tác giả này đã tìm ra được
quy luật biến đổi theo đường cong sinh trưởng
của vi khuẩn. Sự khác biệt trong kết quả giữa
hai nghiên cứu có thể là do sự khác biệt về
lô, sự khác biệt giữa phương pháp gây nhiễm
và không gây nhiễm (dẫn đến lượng vi khuẩn
ban đầu khác nhau), cũng như sự khác biệt về
phương pháp định lượng E.coli.
3. Biến đổi của Coliform trong quá trình bảo
quản tôm sú ở nhiệt độ biến động
Số lượng Coliform theo nhiệt độ và thời
gian bảo quản được trình bày ở Hình 3.
Phân tích ANOVA cho thấy không có sự
khác biệt có ý nghĩa (p > 0,05) về mật độ
Coliform giữa các ngày bảo quản ở tất cả 3
chế độ nhiệt độ biến động BĐ 1, 2 và BĐ 3.
Từ kết quả thực nghiệm ở Hình 3 cho
thấy ở cả 3 chế độ nhiệt độ biến động lượng
Coliform biến đổi theo xu hướng chung là: khi
có sự thay đổi về nhiệt độ bảo quản từ thấp
(1 ± 1°C - mô phỏng quá trình bảo quản ở
siêu thị ở chế độ BĐ 1 hoặc BĐ 3; hoặc ướp
đá trong thùng xốp-mô phỏng quá trình vận
chuyển ở chế độ BĐ 2) đến cao - xung quanh
khoảng nhiệt độ phát triển thích hợp của
Coliform (nhiệt độ môi trường - mô phỏng quá
trình mua sắm của người tiêu dùng ở chế độ
biến động 1 hoặc 3; hoặc thực hiện bao gói lại
tại nhiệt độ thường ở chế độ BĐ 2) thì lượng
vi khuẩn đều tăng mạnh, đạt 13 MPN/g sau 2
ngày ở chế độ BĐ 1, 13,3 MPN/g sau 1 ngày ở
chế độ BĐ 2, và 23 MPN/g sau 1,4 ngày ở chế
độ BĐ 3. Khi đưa mẫu trở về bảo quản ở nhiệt
độ dương thấp (1 ± 1°C hoặc 9 ± 1°C) lượng vi
khuẩn giảm mạnh và chưa có xu hướng tăng
trở lại khi kết thúc thời gian bảo quản, đó có
thể là do nhiệt độ biến động đột ngột làm cho
Coliform chưa kịp thích nghi và chúng có thể
bị tiêu diệt một phần. Xu hướng biến đổi này
cũng tương đồng với kết quả nghiên cứu của
Huỳnh Thị Ái Vân (2015) [6] về sự biến động
của Coliform trên cá tra fi llet bảo quản ở chế
độ nhiệt độ biến động tương tự chế độ BĐ 1.
Hình 3. Mật độ Coliform trên tôm sú trong quá trình bảo quản ở nhiệt độ biến động
BĐ 1: chế độ nhiệt độ biến động 1; BĐ 2: chế độ nhiệt độ biến động 2; BĐ 3: chế độ nhiệt độ biến động 3
98 • NHA TRANG UNIVERSITY
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2016
Phân tích ANOVA cho thấy không có sự
khác biệt có ý nghĩa (p > 0,05) về mật độ E.coli
giữa các ngày bảo quản ở tất cả 3 chế độ nhiệt
độ biến động BĐ 1, 2 và BĐ 3.
Từ kết quả thực nghiệm ở Hình 6 cho thấy
lượng E.coli ban đầu ở cả 3 chế độ nhiệt độ
biến động cũng là 3 MPN/g, giống như ở các
chế độ nhiệt độ ổn định bên trên. Ở cả 3 chế độ
nhiệt độ biến động, lượng E.coli ít biến động
hơn so với Coliform và có xu hướng ổn định
theo thời gian bảo quản. Ở chế độ BĐ 1, xu
hướng biến đổi của lượng E.coli tương tự như
sự biến đổi của Coliform ở chế độ này, tức khi
có sự thay đổi về nhiệt độ bảo quản từ thấp
(1 ± 1°C) đến nhiệt độ môi trường thì lượng
vi khuẩn tăng không đáng kể (p > 0,05), đạt
6,1 MPN/g; sau đó E.coli lại giảm và duy trì ở
mức thấp khi đưa từ nhiệt độ môi trường về
nhiệt độ 9 ± 1°C. Tương tự Coliform, E.coli là
vi khuẩn ưa ấm, ở cả 3 nhiệt độ biến động thì
nhiệt độ cao nhất là 30-32 °C kéo dài trong 2
giờ, trước và sau đó có sự thay đổi nhiệt độ
đột ngột trong thời gian ngắn từ 1 ± 1°C và
đến 9 ± 1°C, là những nhiệt độ không thích
hợp cho sự phát triển của E.coli nên chúng
bị bị ức chế. Kết thúc quá trình bảo quản ở
cả 3 chế độ nhiệt độ biến động thì số lượng
E.coli là 3 MPN/g. Dựa trên bảng chuyển đổi
từ MPN/g sang CFU/g trong nghiên cứu của
Chitov và Rattanchaiyanon (2010) [11], cho
thấy các giá trị đều thấp hơn giới hạn cho phép
100 CFU/g [1].
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Nghiên cứu bước đầu đã cho thấy lượng
Coliform ban đầu trong tôm sú nguyên liệu dao
động trong khoảng rộng từ 1.100
MPN/g, trong khi lượng E.coli ban đầu chỉ ở
mức 3 MPN/g. Lượng Coliform ở tất cả 5 nhiệt
độ bảo quản ổn định 1, 4, 9, 15 và 19 ± 1°C
giảm nhẹ vào thời gian đầu bảo quản, không
phát triển ở 1 và 4 ± 1°C, nhưng tăng vào cuối
quá trình bảo quản ở 9, 15 và 19 ± 1°C. Trong
khi đó, E.coli không phát triển được ở 1 và 4
± 1°C, duy trì ở mức thấp ở 9, 15 và 19 ± 1°C
và cũng chỉ tăng vào cuối quá trình bảo quản.
Khi hết thời hạn bảo quản theo chỉ tiêu TVC,
mật độ Coliform trên tôm sau 4 ngày ở 1 ± 1°C
là 84 MPN/g; sau 2 ngày ở 4 ± 1°C là 23
MPN/g; sau 1,5 ngày (36 giờ) ở 9 ± 1°C là 7,7
MPN/g; sau 1,3 ngày (32 giờ) ở 15 ± 1°C là 3
MPN/g; và sau 0,8 ngày (19 giờ) ở 19 ± 1°C
là 3 MPN/g; còn mật độ E.coli ở các mốc thời
gian và nhiệt độ tương ứng trên đều nằm dưới
mức giới hạn cho phép.
4. Biến đổi của E.coli trong quá trình bảo quản tôm sú ở nhiệt độ biến động
Số lượng E.coli theo nhiệt độ và thời gian bảo quản được trình bày ở Hình 4.
Hình 4. Mật độ E.coli trên tôm sú trong quá trình bảo quản ở nhiệt độ biến động
BĐ 1: chế độ nhiệt độ biến động 1; BĐ 2: chế độ nhiệt độ biến động 2; BĐ 3: chế độ nhiệt độ biến động 3.
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2016
NHA TRANG UNIVERSITY • 99
Ở 3 chế độ nhiệt độ biến động mô phỏng
phần cuối của chuỗi cung ứng tôm, lượng
Coliform tăng khi có sự tăng nhiệt độ xung
quanh, cả Coliform và E.coli đều bị ức chế
trong thời gian đầu (1-2 ngày) bảo quản ở
1 ± 1°C và thời gian cuối bảo quản ở 9 ± 1°C.
Lượng E.coli cũng nằm trong giới hạn cho
phép khi kết thúc quá trình bảo quản.
2. Kiến nghị
Nên xây dựng mô hình biến đổi của vi
sinh vật gây bệnh trên tôm sú để dự đoán số
lượng của chúng theo nhiệt độ và thời gian bảo
quản, góp phần đảm bảo chất lượng an toàn
thực phẩm. Ngoài ra, nên nghiên cứu thêm sự
biến đổi của vi sinh vật gây bệnh tại các chế
độ nhiệt độ biến động mô phỏng các điều kiện
thực tế khác của chuỗi cung ứng để kiểm định
mô hình.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Bộ Y tế, 2007. Quyết định số 46/2007/QĐ-BYT ngày 19/12/2007 Về việc ban hành “Quy định giới hạn tối đa ô
nhiễm sinh học và hóa học trong thực phẩm”, Hà Nội.
2. Bùi Mạnh Hà. Thống kê ngộ độc thực phẩm tại Việt Nam.
doc-thuc-pham-tai-viet-nam/ (truy cập 26/7/2016).
3. Trần Thị Thu Lệ, 2015. Nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ thấp đến sự biến đổi của một số vi sinh vật gây hỏng
đặc trưng và gây bệnh hiện diện trên tôm sú (Penaeus monodon) nguyên liệu trong quá trình bảo quản. Luận văn
thạc sĩ. Khoa Công nghệ Thực phẩm, Trường Đại học Nha Trang, Nha Trang.
4. Dương Thị Phượng Liên, Bùi Thị Quỳnh Hoa và Nguyễn Bảo Lộc, 2011. Đánh giá nhanh độ tươi tôm sú nguyên
liệu (Penaeus monodon) bảo quản trong nước đá (0-4°C) theo phương pháp chỉ số chất lượng QIM. Tạp chí
Khoa học, 18b, 53-62.
5. Mai Thị Trang, 2016. Nghiên cứu sự biến đổi của lượng vi sinh vật gây bệnh Coliforms và E.coli khi gây nhiễm
vào tôm sú trong quá trình bảo quản lạnh. Đồ án tốt nghiệp. Khoa Công nghệ Thực phẩm, Trường Đại học Nha
Trang, Nha Trang.
6. Huỳnh Thị Ái Vân, 2015. Nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ thấp đến sự biến đổi của vi sinh vật gây hỏng
đặc trưng (Pseudomonas spp.) và vi sinh vật gây bệnh (Coliform, E. coli) hiện diện trên fi llet cá Tra (Pangasius
hypophthalmus) bảo quản lạnh. Luận văn thạc sĩ. Khoa Công nghệ Thực phẩm, Trường Đại học Nha Trang, Nha
Trang.
7. TCVN 4882:2007, 2007. Vi sinh vật trong thực phẩm và thức ăn chăn nuôi – phương pháp phát hiện và định
lượng Coliform – kỹ thuật đếm số có xác suất lớn nhất.
8. TCVN 6846:2007, 2007. Vi sinh vật trong thực phẩm và thức ăn chăn nuôi – phương pháp phát hiện và định
lượng Escherichia coli giả định – kỹ thuật đếm số có xác suất lớn nhất.
9. VASEP, 2006. Bản tin Thương mại Thủy sản số 5-2016, ngày 05/02/2016.
Tiếng Anh
10. Chill-on, 2007. Approach of establishing a shelf life model for fi sh and poultry. Final description.
11. Chitov, T. and Rattanachaiyanon S., 2010. Matching the result of Escherichia coli analysis in pure culture
and food models obtained through the Most Probable Number and through Tryptone Bile X-Glucuronide
chromogenic plate count methods. As. J. Food Ag-Ind., 3 (02), 258-268.
12. Smith, M. G, 1985. The generation time, lag time and minimum temperature of growth of Coliform organisms
on meat, and the implication for codes of practice in abattoirs. Journal of Hygiene (Cambridge), 94, 289-300.
13. WHO Media centre. WHO’s fi rst ever global estimates of foodborne diseases fi nd children under 5 account for
almost one third of deaths.
(truy cập 26/7/2016).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- so_4_2016_mai_thi_tuyen_nga_2004_2024473.pdf