Hòa nhập xã hội đang là một xu hướng khá phổ biến trên thế giới, đặc biệt ở các bối
cảnh quan tâm nhiều hơn đến khía cạnh phúc lợi, an sinh xã hội, cũng như tăng cường thêm các
mô hình dịch vụ xã hội thường nhật. Từ thực tiễn như vậy, nghiên cứu về hòa nhập xã hội cũng
được quan tâm trong các nghiên cứu xã hội ở các quốc gia phương Tây như Úc, Canada, Anh,
Mỹ, Pháp dựa trên các quan điểm của lý thuyết cấu trúc chức năng, hệ thống hay phát triển
xã hội, đến các vấn đề thực tiễn hướng đến các mô hình trợ giúp từ góc độ luật học, nhân học,
xã hội học, tâm lý học, công tác xã hội Bài viết này đi vào phân tích tổng lược các xu hướng
nghiên cứu về mặt lý thuyết và thực tiễn từ cách tiếp cận hòa nhập xã hội trên thế giới và Việt
Nam, để qua đó chỉ ra những vấn đề đặt ra khi nghiên cứu về các nhóm thiệt thòi, dễ bị tổn
thương ở Việt Nam trong quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa, cũng như trong bối cảnh xây
dựng các mô hình an sinh xã hội và dịch vụ xã hội.
10 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 09/03/2022 | Lượt xem: 355 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu về hoà nhập xã hội của nhóm thiệt thòi qua các công trình nghiên cứu xã hội học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
See discussions, stats, and author profiles for this publication at: https://www.researchgate.net/publication/309673455
Nghiên cứu về hoà nhập xã hội của nhóm thiệt thòi qua các công trình
nghiên cứu xã hội học
Article · September 2016
CITATIONS
0
READS
348
2 authors, including:
Some of the authors of this publication are also working on these related projects:
Understanding Daily Life in Vietnam View project
Kham Tran
Vietnam National University, Hanoi
42 PUBLICATIONS 26 CITATIONS
SEE PROFILE
All content following this page was uploaded by Kham Tran on 04 November 2016.
The user has requested enhancement of the downloaded file.
76
Nghiên cứu hòa nhập xã hội của người thiệt thòi
qua các công trình nghiên cứu xã hội học
Phạm văn Quyết, Trường ĐHKHXHNV
Trần Văn Kham, Trường ĐHKHXHNV
Tóm tắt: Hòa nhập xã hội đang là một xu hướng khá phổ biến trên thế giới, đặc biệt ở các bối
cảnh quan tâm nhiều hơn đến khía cạnh phúc lợi, an sinh xã hội, cũng như tăng cường thêm các
mô hình dịch vụ xã hội thường nhật. Từ thực tiễn như vậy, nghiên cứu về hòa nhập xã hội cũng
được quan tâm trong các nghiên cứu xã hội ở các quốc gia phương Tây như Úc, Canada, Anh,
Mỹ, Pháp dựa trên các quan điểm của lý thuyết cấu trúc chức năng, hệ thống hay phát triển
xã hội, đến các vấn đề thực tiễn hướng đến các mô hình trợ giúp từ góc độ luật học, nhân học,
xã hội học, tâm lý học, công tác xã hội Bài viết này đi vào phân tích tổng lược các xu hướng
nghiên cứu về mặt lý thuyết và thực tiễn từ cách tiếp cận hòa nhập xã hội trên thế giới và Việt
Nam, để qua đó chỉ ra những vấn đề đặt ra khi nghiên cứu về các nhóm thiệt thòi, dễ bị tổn
thương ở Việt Nam trong quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa, cũng như trong bối cảnh xây
dựng các mô hình an sinh xã hội và dịch vụ xã hội.
Từ khóa: Hòa nhập xã hội, Thiệt thòi, Cấu trúc chức năng, Hệ thống xã hội
1. Dẫn nhập
Vấn đề hoà nhập xã hội và hòa nhập xã hội của nhóm người thiệt thòi là một trong những
chủ đề có ý nghĩa quan trọng không chỉ đối với các nghiên cứu về nhóm xã hội này, mà còn giúp
hướng đến thúc đẩy sự tôn trọng phẩm giá, hợp tác và việc phân phối lại các nguồn lực kinh tế xã
hội giữa các cá nhân, các nhóm để ngăn chặn sự gia tăng của bất bình đẳng và phân hóa giữa các
nhóm xã hội, các dân tộc và các khu vực trên cơ sở sự giàu có của xã hội. Đã có rất nhiều công trình
nghiên cứu của các tác giả quốc tế và của Việt Nam về chủ đề này. Họ đã đưa ra nhiều quan điểm
khác nhau về hòa nhập xã hội, cũng như đã xem xét, phân tích nhiều chiều cạnh khác nhau liên
quan đến hòa nhập xã hội của nhóm người thiệt thòi. Vì thế việc hệ thống hóa các quan điểm khác
nhau về hòa nhập xã hội và hòa nhập xã hội của nhóm thiệt thòi là sự cần thiết, mang nhiều ý nghĩa.
Nó không chỉ giúp làm rõ vấn đề đã được phân tích, khái quát, được giải quyết ở mức độ nào với
những chiều cạnh nào, mà còn là cơ sở, những gợi ý giúp các nghiên cứu tiếp theo nên đi sâu vào
chiều cạnh nào, nên vận dụng quan điểm, cách thức nào cho phân tích, nghiên cứu một trường hợp
cụ thể của thực tế xã hội có liên quan.
Trong rất nhiều chiều cạnh khác nhau của vấn đề hòa nhập xã hội và hòa nhập xã hội của
nhóm người thiệt thòi mà các tác giả đi trước đã nêu ra, bài viết tập trung đi sâu vào hai chiều cạnh
chủ yếu là nghiên cứu các quan điểm lý thuyết về hòa nhập xã hội và hòa nhập xã hội của nhóm
người thiệt thòi qua tổng quan các công trình cả ở quốc tế và ở Việt Nam.
2. Nghiên cứu các quan điểm lý thuyết về hòa nhập xã hội
Theo mục tiêu và nội dung khái niệm hòa nhập xã hội (Social inclusion) và hội nhâp xã hội
(Social intergration) trong nhiều trường hợp được sử dụng với sự phân biệt không đáng kể hoặc
không rõ ràng. Cook S. (1994) cho rằng hòa nhập, hội nhập và sự cố kết (cohesion) được sử dụng
có thể thay thế cho nhau, nhưng cũng có thể sử dụng với sự khác nhau được nhấn mạnh trong
những trường hợp cụ thể. Ngay trong nghiên cứu của UNRISD (1994) đã cho rằng hội nhập xã hội
“với một số người nó là mục tiêu của sự hòa nhập, nghĩa là quyền và cơ hội bình đẳng cho tất cả
mọi người Còn với những người khác, nó đơn giản chỉ là cách để mô tả các khuôn mẫu đã được
thiết lập về mối quan hệ của con người trong một xã hội nhất định”.
Quỹ Laidlaw, Canada cho rằng hội nhập xã hội là một trong chùm các thuật ngữ xã hội
được sử dụng tất rộng rãi trong phát triển chính sách hiện nay ám chỉ nội dung hướng đến thúc đẩy
xã hội bền vững, an toàn, công bằng, tôn trọng sự đa dạng, bình đẳng, tạo dựng cơ hội cho mọi
người. Một số thuật ngữ khác cũng được đề cập đến nhằm thúc đẩy những mục tiêu đó như hoà
nhập xã hội, cố kết xã hội và vốn xã hội. Tất cả trở thành một chùm các vấn đề tạo nên nhiều tranh
luận về ý nghĩa và khả năng ứng dụng chúng (Laidlaw Foundation, 2002).
Theo đó hội nhập xã hội, sự hòa nhập của cá nhân/ nhóm vào xã hội đã được các nhà xã hội
học quan tâm từ rất sớm. Nó là sự thể hiện đầy đủ nhất, bản chất nhất của mối quan hệ tác động cơ
bản giữa cá nhân và xã hội, là kết quả của quá trình xã hội hóa. Các nhà chức năng luận, từ những
77
người đặt nền móng đầu tiên như E. Durkheim (1858-1917), H. Spencer (1820-1903), V. Pareto
(1848-1942) đến A. Radcliffe-Brown (1881-1955), B. Malinowski (1884-1955) và sau này là T.
Parsons (1902-1979), R. Mertton (1910-2003), P. Blau (1918-2002) và nhiều người khác đều có
những công trình nghiên cứu nổi tiếng đề cập đến vấn đề này.
Các nhà xã hội học đầu tiên của chủ thuyết này đều nhấn mạnh đến sự hội nhập, sự liến kết
chặt chẽ của các bộ phận cấu thành của chỉnh thể xã hội theo những chức năng nhất định. Trong tác
phẩm “Phân công lao động xã hội”(The Division of Labor in Society, 1893), nhà xã hội học người
Pháp E. Durkheim, ngay từ thế kỷ 19 đã rất nổi tiếng với khái niệm đoàn kết xã hội, mà có nội dung
gần giống với khái niệm hội nhập xã hội đang được sử dụng rộng rài hiện nay (Lê Ngọc Hùng,
2002). Ông sử dụng khái niệm này để chỉ các mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội. Ông tin xã hội
tác dụng một lực mạnh mẽ lên cá nhân. Lực đó được tạo bởi từ niềm tin, giá trị và chuẩn mực ở con
người, mà ông gọi là ý thức tập thể, hạt nhân cho đoàn kết xã hội và cũng là sự tồn tại của xã hội. Ý
thức tập thể liên kết các cá nhân với nhau, tạo ra hội nhập xã hội (Dan Krier, 2014). Là người đầu
tiên có những nghiên cứu về hội nhập xã hội, Durkheim với khái niệm đoàn kết xã hội, không
những đã làm rõ được nội dung, cơ chế, cách thức của hội nhập xã hội, mà còn chỉ ra được sức
mạnh tạo nên sự hội nhập của cá nhân xã hội.
Nhà xã hội học nổi tiếng người Anh H. Spencer đã nói về sự cố gắng tồn tại của mỗi cơ thể
trong sự cân bằng không ổn định giữa cơ thể và môi trường, vì vậy cơ thể luôn phải lưu ý đến sự
khác biệt để giữ sự cân bằng đó, đồng thời cũng để thích nghi và hòa nhập. Trong quan niệm về
“siêu cơ thể” xã hội, ông cho rằng cơ thể xã hội gồm nhiều thành phần phức tạp với những chức
năng khác nhau trong khuôn khổ của cơ thể này và theo những phương thức nhất định, chúng phải
trao đổi, thích ứng và hòa nhập với nhau (Hermann Korte, 1993, tr. 94).
Trong nghiên cứu liên quan đến sự hội nhập của các thành tố xã hội với các thành tố khác
trong cấu trúc xã hội, A. Radcliffe-Brown đã hướng đến xem xét mỗi thể chế xã hội ăn khớp thế
nào với các thể chế xã hội khác để đáp ứng nhu cầu của xã hội và giữ vững sự thống nhất hài hòa
mà nó được coi là chuẩn. Ngay cả khi xung đột được quan sát, thì điều này được coi là có chức
năng cho sự hội nhập nếu nó là nghi thức và được thể chế hóa (Bilton T., K. Bonnett và những
người khác, 1987, tr.507).
Mở rộng và phát triển quan điểm của các bậc tiền bối của lý thuyết cấu trúc chức năng, mà
trong đó xã hội được xem như những cấu trúc có liên quan đến việc hội nhập và thích ứng của các
yếu tố cấu thành khi thực hiện chức năng nào đó của cấu trúc xã hội, T. Parsons, R. Mertton đã có
công rất lớn khi áp dụng lý thuyết này giải thích sự hội nhập của các thành tố cấu trúc xã hội trong
xã hội hiện đại của người Mỹ.
Theo Lê Ngọc Hùng (2002, tr. 207) trong nhiều công trình nghiên cứu của mình T. Parson
đã hướng đến xem xét cấu trúc, chức năng của hệ thống, sự hội nhập và duy trì trạng thái ổn định
của hệ thống trong quá trình tương tác giữa hai hay nhiều chủ thể hành động. Parsons đã nói đến 4
tiểu hệ thống, tương ứng với 4 nhu cầu, chức năng của xã hội trong sơ đồ AGIL của mình; đó là:
Tiểu hệ thống thích ứng A (Adaptation) có chức năng cung cấp nguồn lực, tiểu hệ thống hướng đích
G (Goal attaiment) có chức năng xác định mục tiêu, tiểu hệ thống hội nhâp I (Intergration) có chức
năng hòa nhập, gắn kết các cá nhân, các nhóm và các tổ chức xã hội và tiểu hệ thống bảo toàn cấu
trúc L (Latency) có chức năng của hệ thống văn hóa, kích thích các cá nhân, nhóm. Trong cấu trúc
hệ thống xã hội, tiểu hệ thống I (hội nhập) làm nhiệm vụ quan trọng nhất của hệ thống xã hội, là bản
chất của cộng đồng, nhóm xã hội.
Nhìn chung hầu hết các nhà xã hội học theo chủ thuyết cấu trúc chức năng đều đã có các
nghiên cứu về hội nhập xã hội, đều đã có lý giải về sự hội nhập, sự liên kết, sự thích ứng của các
thành tố xã hội trong cấu trúc hệ thống xã hội, dù các yếu tố cấu trúc là cá nhân, nhóm, tổ chức xã
hội, thiết chế xã hội hay là các yếu tố hành vi.
Những năm đầu thập kỷ 80 của thế kỷ trước đã chứng kiến các nghiên cứu và hoạt động ở
các nước phát triển như Anh, Pháp, Mỹ, Canada, Úc... hướng đến thực hiện vấn đề loại trừ xã hội
(social exclusion) gắn liền với những vấn đề nghèo đói, việc làm. Định hướng này được phát triển
và ngày càng quan tâm nhiều hơn đến các khía cạnh văn hóa, xã hội và dần được chuyển thành nội
dung hòa nhập xã hội. Hòa nhập xã hội, vấn đề hòa nhập xã hội ngày càng được quan tâm nhiều
hơn, song chủ yếu gắn với các nghiên cứu hướng đến giải quyết các vấn đề của thực tế xã hội, đặc
biệt gắn với sự hòa nhập xã hội của các nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương. Những nghiên cứu lý
thuyết về hòa nhập xã hội chủ yếu hướng đến làm rõ nội dung, bản chất của hòa nhập xã hội và
những định hướng quan điểm cho việc giải quyết vấn đề hòa nhập xã hội. Sau đây chúng ta lược
78
qua một số nghiên cứu tiêu biểu có ảnh hưởng nhất định đến các xu hướng, quan điểm cho giải
quyết vấn đề.
Nhiều nghiên cứu cho rằng khi đề cập và bàn luận về hòa nhập xã hội thì cần xem xét nó
trong mối quan hệ với loại trừ xã hội (social exclusion) (Abbott, S & R Mcconkey, 2006). Hai quan
niệm này cần phân tích trong mỗi quan hệ tương hỗ lẫn nhau nhằm nhìn ra được xuất phát điểm cho
việc phân tích các vấn đề liên quan. Do đó nhiều tác giả hướng tới nghiên cứu để làm rõ nội dung
về loại trừ xã hội và những đối sách để giảm sự loại trừ, nghĩa là hướng tới hòa nhập xã hội (Sylver
& Miller, 2003, Parr et al, 2004, Levitas, 2006, Buckmaster & Thomas, 2009...).
Trong khi Linoir khái quát loại trừ xã hội khi chú ý nhiều đến chiều cạnh kinh tế và coi đó là
những người rơi vào hệ thống bảo hiểm và mạng lưới đảm bảo xã hội thì Sylver & Miller nhấn
mạnh đó là sự cắt đứt mối quan hệ xã hội được xem là trung tâm của khế ước xã hội giữa nhà nước
và công dân; sự mất đi những vai trò, những mối quan hệ có ý nghĩa và trải nghiệm sự phân biệt đối
xử, Levitas coi đó là những người cảm nhận được hậu quả của thiếu thốn vật chất trong điều kiện
các cơ hội bị hạn chế để tham gia vào các hoạt động văn hóa xã hội rộng hơn, thì Buckmaster &
Thomascho rằng đó là những người bị loại khỏi sự hỗ trợ xã hội, bị mất đi các mối quan hệ giữa cá
nhân và xã hội và không có cơ hội tham gia vào đời sống kinh tế, xã hội và chính trị (Theo Cobigo
V. et al, 2012).
Một số tác giả khác khi nghiên cứu hòa nhập xã hội đã luôn gắn nó với loại trừ xã hội, qua
đó hướng đến so sánh và làm rõ sự gắn kết và khác biệt giữa chúng (Cappo D, C. Jackson, M.
Craig, Laidlaw Foundation và nhiều tác giả khác). Trong khi Jackson (1999) lưu ý rằng hòa nhập xã
hội có thể cũng sản sinh ra sự loại trừ xã hội, và cái đó xuất hiện khi nhóm đã bị loại trừ thực hiện
thành công sự hòa nhập trong so sánh với nhóm đang bị loại trừ ngay cả khi yếu hơn bản thân
chúng, thì D. Cappo (2002) khi xem xét hòa nhập xã hội đã đặt hòa nhập bên cạnh sự loại trừ. Ông
cho rằng một xã hội hòa nhập xã hội được coi là một nơi, ở đó tất cả mọi người cảm thấy có giá trị,
sự khác biệt giữa họ được tôn trọng và các nhu cầu cơ bản được đáp ứng để họ có thể sống trong
phẩm giá. Loại trừ xã hội là quá trình khép kín đối với hệ thống văn hóa, kinh tế, xã hội và chính trị
cho sự hội nhập của một cá nhân vào trong đời sống cộng đồng.
Quỹ Laidlaw, Canada (2002) coi loại trừ xã hội nổi lên như một xu hướng chính trị quan
trọng ở châu Âu những năm 80 của thế kỷ trước do sự gia tăng của phân hóa xã hội từ điều kiện thị
trường lao động mới và sự không đầy đủ của phúc lợi xã hội đang tồn tại. Hòa nhập xã hội, trong
chừng mực nào đó là sự phản ứng lại của loại trừ xã hội. Trên cơ sở những tranh luận về vấn đề loại
trừ xã hội,Qũy đã đưa ra cách hiểu biết về hòa nhập xã hội phù hợp với công việc thực tế. Theo đó
hòa nhập xã hội là nói về sự đảm bảo chắc chắn rằng tất cả trẻ em và người lớn đều có khả năng
tham gia như những thành viên có trách nhiệm, được tôn trọng và có phẩm giá của xã hội.
Tuy nhiên theo Clegg et al (2008); Bollard (2009) việc xem hòa nhập xã hội đối lập với loại
trừ xã hội gây ra sự nhầm lẫn và dẫn đến nhấn mạnh vào hàng rào của nó chứ không phải là yếu tố
có thể làm tăng hòa nhập xã hội của cá nhân. Đó như một rào cản, tách nó ra khỏi các nhà hoạch
định chính sách, người cung cấp dịch vụ và các nguồn tài nguyên khác cho hội nhập. Điều này có
nguy cơ dẫn vấn đề hòa nhập xã hội đến sự hùng biện thuần túy về ý thức hệ.
Tiếp cận hội nhập xã hội theo hướng thúc đẩy tăng cường sự hội nhập xã hội, tôn trọng sự
khác biệt, giảm bớt khả năng xảy ra bạo lực và cung cấp nền tảng cho sự hợp tác đã trở lên phổ biến
từ Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội năm 1995 tại Copenhagen. Trong báo cáo của
Hội nghị bàn về hòa/hội nhập xã hội đã hướng đến một quá trình năng động có nguyên tắc trong đó
có sự tham gia tích cực của xã hội để tiếp tục phát triển con người.
Quá trình hội nhập xã hội khuyến khích, thực hiện việc "đến với nhau", khi tôn trọng sự
khác biệt, có ý thức một cách rõ ràng và đặt giá trị lớn vào việc duy trì sự đa dạng. Hội nhập xã hội
thể hiện cho nỗ lực không chỉ làm cho mọi người thích nghi với xã hội, mà còn để đảm bảo rằng xã
hội chấp nhận được tất cả mọi người (United Nations, 1995). Quan điểm đẩy mạnh hội nhập xã hội
đã được thể hiện trong các chương trình nghị sự của Hội đồng châu Âu vào những năm 1990 và
2000 (Bach M, 2002) thông qua các chương trình chống đói nghèo, tăng cường sự cố kết xã hội như
Chương trình nghị sự Lisbon (Béland, D, 2007). Phần lớn các tác giả nghiên cứu về hòa nhập xã hội
trong khoảng hai chục năm lại đây đã chấp nhận, ủng hội và phát triển vấn đề hòa nhập xã hội theo
hướng thúc đẩy và tăng cường hòa nhập xã hội.
Theo hướng tiếp cận này hòa nhập xã hội được xem xét trên cơ sở bình ổn các vai trò xã hội
(Wolfensberger, 1989), có đầy đủ các điều kiện tiếp cận công bằng đối với các hoạt động, vai trò xã
hội và các mối quan hệ trực tiếp, rộng mở với các công dân khác (Bates & Davis, 2004), gặp gỡ,
tiếp xúc với các công dân khác trong khung cảnh bình thường và được đối xử một cách bình đẳng
79
(Abbott & McConkey, 2006), đảm bảo chắc chắn được tiếp cận đầy đủ và bình đẳng với chăm sóc y
tế, vai trò xã hội và có mối quan hệ bình đẳng với những người khác (Bollard, 2009), hoặc xem xet
dựa trên sở thích cá nhân và nhu cầu (Cummins & Lau, 2003).
Tăng cường hội nhập xã hội trên cơ sở giải quyết các yếu tố cấu thành của nó là một hướng
đi được nhiều tác giả chú trọng phân tích. Khi đưa ra quan điểm về các tiêu chí thể hiện nội dung và
bản chất của hòa nhập xã hội Cobigo and Stuart (2010) đề xuất bốn phạm trù công cụ để thúc đẩy
hòa nhập xã hội. Một số có thể nâng cao kỹ năng của cá nhân để thực hiện các hoạt động và có
được mối quan hệ với những người khác. Số khác đòi hỏi ở môi trường tạo điều kiện đầy đủ để tiếp
cận công bằng đối với hàng hóa và các dịch vụ công như y tế, phúc lợi xã hội, sinh hoạt, hoạt động
giải trí, thu nhập và dạy nghề. Bốn loại phạm trù là: Thứ nhất gắn với pháp chế và chính sách: Đó là
quyền của con người thảo luận và hành động để bảo vệ những quyền chính đáng và tự do của người
khuyết tật; thứ hai, sự ủng hội của cộng đồng và dịch vụ: Các bằng chứng để chứng tỏ tính hiệu qủa
của sự hỗ trợ cộng đồng; thứ ba, chống kỳ thị và phân biệt đối xử: Việc cung cấp cách thức quan
trọng để loại trừ những rào cản xã hội và thúc đẩy tiếp cận đầy đủ và bình đẳng đối với hàng hóa và
dịch vụ công; thứ tư, hệ thống giám sát và đánh giá: Xác định một cách hệ thống và đo lường các
yếu tố cản trở hay tạo điều kiện hòa nhập xã hội là điều cần thiết để nâng cao nhận thức, thiết kế can
thiệp với chính sách phù hợp và đánh giá hiệu quả của chúng.
Burchardt, Le Grand & Piachaud trên cơ sở đảm bảo sự tham gia đầy đủ vào các hoạt động
cộng đồng và mạng lưới xã hội trong một xã hội rộng lớn, đã xác định 4 khía cạnh cảu hội nhập xã
hôi là: i) Tiêu dùng: Khả năng mua hàng hóa và các dịch vụ như thu nhập; ii) Sản xuất: Tham gia
vào các hoạt động kinh tế và các giá trị xã hội như việc làm, chăm sóc trẻ và các công việc tình
nguyện; iii) Hoạt động chính trị: Tham gia ở các địa phương, quốc gia vào việc ra các quyết định
thông qua bầu cử hoặc là thành viên của ban vận động bầu cử; iiii)sự tham gia xã hội với gia đình,
bạn bè và cộng đồng (Cobigo V. et al,2012).
Ở một khía cạnh khác theo hướng tiếp cận thúc đẩy hòa nhập xã hội, nhiều tác giả quan tâm
đến các điều kiện đảm bảo sự bình đẳng theo những chiều cạnh văn hóa, kinh tế, chính trị, xã hội
(C. Ferguson, V. Cobigo et al, Laidlaw Foundation).
Trong báo cáo ủy quyền của UNDESA tại cuộc gặp gỡ nhóm chuyên gia về thúc đẩy hòa
nhập xã hội ở Helsinki, Finland, 8-10 July 2008, Clare Ferguson (2008) hướng đến phân tích 3 quá
trình cần phải chú ý cho thúc đẩy hòa nhập xã hội. Đó là ba quá trình khác biệt nhau, nhưng gắn kết
với nhau, thể hiện cụ thể phạm vi, mà với nó mọi người có thể sống và làm việc với nhau trên cơ sở
bình đẳng: Công nhận các nhóm xã hội, các nền văn hóa với bản sắc khác nhau nhằm thúc đẩy tôn
trọng phẩm giá và sự hợp tác; đại diện của tiếng nói chính trị để đảm bảo rằng các lợi ích của các
nhóm khác nhau được tính đến trong việc ra quyết định và phân bổ nguồn lực; phân phối lại các
nguồn lực kinh tế xã hội giữa các cá nhân và các nhóm để ngăn chặn sự gia tăng của bất bình đẳng
và phân hóa giữa các dân tộc, khu vực, giới tính, tuổi tác hay bản sắc xã hội, trên cơ sở sự giàu có
của xã hội.
Sau khi điểm qua các quan điểm khác nhau về hòa nhập xã hội V. Cobigo et al (2012)
hướng đến 4 điểm cần chú ý khi xem xét về nội dung, ý nghĩa của hòa nhập xã hội. Đó là: Thứ nhất,
chỉ dẫn xác đinh các công cụ cho cải thiện việc hòa nhập xã hội; thứ hai, từ bỏ các quan điểm đạo
đức có xu hướng áp đặt quan điểm của nhóm thống trị và hướng tới một cách tiếp cận tôn trọng kỳ
vọng, sự lựa chọn, và nhu cầu cá nhân; thứ ba, hòa nhập xã hội được xem xét từ quan điểm phát
triển mà ở đó hòa nhập xã hội của một người cải thiện với nhiều cơ hội để tương tác và tham gia
vào các hoạt động với những người khác; thứ tư, cần có sự đo lường hòa nhập xã hội về sự phụ
thuộc xã hội và hạnh phúc của một người.
Laidlaw Foundation (2002) nhấn mạnh 5 điểm cần chú ý khi xem xét hòa nhập xã hội: Công
nhận các giá trị, phát triển con người, lôi cuốn và cam kết, có cơ hội tham gia các mối quan hệ và sự
đảm bảo về vật chất.
Ở Việt Nam dường như những nghiên cứu lý thuyết về hòa nhập xã hội chưa thật nhiều.
Một số công trình công bố liên quan đến chủ đề hòa nhập xã hội vẫn chủ yếu được phân tích trên cơ
sở một sự xác định làm việc phù hợp với nghiên cứu về hòa nhập xã hội của một nhóm yếu thế cụ
thể (Trần Nguyệt Minh Thu, 2014). Việc xem xét, tiếp cận hòa nhập xã hội cũng chủ yếu theo
hướng tăng cường thúc đẩy hòa nhập xã hội đối với các nhóm yếu thế (Trần Văn Kham, 2011;
Phạm Văn Quyết và Trần văn Kham, 2016; Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam và Đông Á,
ĐHQGHCM, 2016)
Như vậy ngay từ cuối những năm 70 của thế kỷ trước đến nay đã có rất nhiều công trình
nghiên cứu, tọa đàm, hội nghị, hội thảo bàn về hòa nhập xã hội. It có tác giả nào đã tổng thuật được
80
đầy đủ các nghiên cứu này. Song từ các nghiên cứu đó giúp cho chúng ta thấu hiểu về bản chất, nội
dung và các tiếp cận chủ yếu đến với vấn đề hòa nhập xã hội. Tiếp cận hòa nhập xã hội theo hướng
loại trừ xã hội thường gắn với sự loại trừ về kinh tế, được quan tâm nhiều trong giai đoạn trước
những năm 90 của thế kỷ trước. Tiếp cận theo hướng thúc đẩy tăng cường hòa nhập xã hội, mang
tính toàn diện hơn, đã lên thống trị và được rất đông đảo các trung tâm, các tổ chức chính trị xã hội,
các nhà nghiên cứu quan tâm kể từ sau Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về phát triển xã hội ở
Copenhagen, năm 1995.
3. Hòa nhập xã hội của người thiệt thòi
Hòa nhập xã hội là định hướng của xã hội để tạo ra một xã hội, mà ở đó mọi người được
hòa mình vào các hoạt động chung của xã hội, thể hiện được vai trò, tiếng nói, và sự ảnh hưởng của
cá nhân. Với xác định như vậy, khái niệm hòa nhập xã hội thường được sử dụng cho quá trình tham
gia vào đời sống cộng đồng/xã hội của các nhóm tàn tật, nhóm yếu thế hay nhóm dễ bị tổn thương.
Đây là các nhóm xã hội thường bị hạn chế hay thua thiệt hơn các nhóm xã hội khác về mặt sức
khỏe, về điều kiện và các cơ hội kiếm sống, hoặc về khả năng, năng lực để thực hiện những hoạt
động sống khác của cộng đồng. Họ có thể thuộc các nhóm xã hội với những đặc trưng riêng biệt bị
tách ra khỏi cộng đồng, bị cộng đồng xa lánh, coi thường và thậm chí bị phân biệt đối xử.
Nghiên cứu quan niệm về bất lợi/thiệt thòi (disadvantage) được biết đến trong nhiều công
trình gần đây của một loạt các tác giả được tập hợp thành cuốn sách “Social work and
Disadvantage: Addressing the roots of stigma and discrimination” (Peter Burker và Jonathan
Parker, 2007) đã nhấn mạnh đến vai trò của công tác xã hội với việc làm giảm những vấn đề thiệt
thòi của các nhóm xã hội. Nghiên cứu này cũng chỉ ra vấn đề bất lợi của các nhóm xã hội này nằm
ở chính trong nhận thức của xã hội và việc làm giảm sự bất lợi của họ cần thực hiện thông qua việc
làm giảm những định kiến và cách nhìn phân biệt của xã hội đối với nhóm người này. Các tác giả
cũng đề ra những giải pháp và các biện pháp can thiệp cụ thể xuất phát từ các mô hình hành động
của công tác xã hội cũng như các giải pháp tạo được sự đồng thuận và sự cùng tham gia của toàn xã
hội hướng đến giải quyết vấn đề này.
Nghiên cứu gần đây của Mayer (2003) cũng đưa ra quan niệm chung về nhóm thiệt thòi là
gì. Quan niệm thiệt thòi, nhóm thiệt thòi được xây dựng dựa trên (a) các tiêu chí về dân tộc, nghèo
đói, giới tính, (b) nhấn mạnh đến khả năng khó tiếp cận đến các phương thức cơ bản để tự đáp ứng
cuộc sống như thông tin, việc làm... Cách tiếp cận về nhóm thiệt thòi đã vượt quá những đặc trưng
cụ thể của nhóm người thiệt thòi (về giới tính, tuổi tác, dân tộc) mà đã dựa trên các điều kiện
chung của xã hội, cũng có nghĩa là người bị thiệt thòi đang phải đối mặt với nhiều rào cản trong
cuộc sống. Để giải quyết hay làm giảm sự thiệt thòi của cá nhân hay của nhóm, điều quan trọng là
phải tìm ra các giải pháp làm giảm hay xoá bỏ các rào cản đó, điều này cần có nhiều phương thức
thực hiện nhưng điều quan trọng cần giúp và trao quyền cho chính các cá nhân bị thiệt thòi tự mình
vượt qua những rào cản đó cũng như tiếp cận đến những nguồn lực cần thiết cho cuộc sống thực tại
của họ.
Liên quan đến việc xác định nhóm thiệt thòi Phạm Văn Quyết, Phạm Anh Tuấn (2012) đã
chỉ ra đó là những người, trong đó các hành vi xã hội của họ được thực hiện theo một cách hoàn
toàn "bất lợi" cho họ. Đó là những người tự nhận thức được hoàn cảnh khó khăn mà ở đó họ bị từ
chối việc tiếp cận và sử dụng các phương tiện được cho là hữu ích với cuộc sống. Các phương tiện
đó bao gồm quyền tự chủ, trách nhiệm, lòng tự trọng, quyền được sự hỗ trợ của cộng đồng, các dịch
vụ công cộng và an sinh xã hội. Ở họ luôn luôn có sự hiện diện của những khó khăn, trở ngại đối
với khả năng tự túc của họ.
Thúc đẩy hòa nhập xã hội của nhóm thiệt thòi cũng chính là khắc phục khả năng không tiếp
cận được các phương tiện thiết yếu hoặc loại bỏ rào cản đối với sự tự cung tự cấp. Điều này có thể
được thực hiện bằng nhiều hình thức, tùy thuộc vào mô hình yếu thế của họ, nhưng nó sẽ cho phép
họ nâng cao vị thế ở chính nỗ lực của nhóm để phát triển các công cụ hoặc các nguồn lực cần thiết
cho khả năng tự túc của riêng nhóm.
Hướng đến các giải pháp thúc đẩy hòa nhập xã hội cho nhóm thiệt thòi, nhiều công trình
nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước đã tiến hành phân tích các chiều cạnh liên quan đến
trách nhiệm xã hội, giáo dục, việc làm, giải trí
Từ góc độ trách nhiệm xã hội, việc thúc đẩy và tạo điều kiện cho các nhóm thiệt thòi tham
gia vào các hoạt động chung của xã hội là trách nhiệm chung của toàn xã hội chứ không phải thuần
tuý là công việc của các nhóm người này hay gia đình của các đối tượng có vấn đề thiệt thòi trong
xã hội. Các quan điểm này được Goodin (1985) đề cập trong nghiên cứu về “Protecting the
vulnerable - are-analysis of our responsibilities”. Trách nhiệm xã hội được đề cập trong nghiên cứu
81
này thể hiện từ các vấn đề về đạo đức xã hội, đến các vấn đề đạo đức nghề nghiệp, trách nhiệm của
cá nhân và tập thể nghiên cứu này đã tạo được nền tảng lý luận cho việc tiếp cận vấn đề bất lợi và
trách nhiệm xã hội trong giải quyết những vấn đề bất lợi, thiệt thòi trong xã hội.
Thúc đẩy hoà nhập cho các nhóm thiệt thòi trong các hoạt động giáo dục và môi trường giáo
dục luôn là chủ đề nổi bật của các nghiên cứu về hoà nhập xã hội. Ở nhiều nền văn hoá, nhất là văn
hoá phương Đông, giáo dục và học nghề luôn là thang đo cho sự thành công và là nhân tố tạo nên
sự thay đổi rõ ràng trong cuộc sống.
Nghiên cứu của Cox (2000) có chỉ ra được các hình thức tách bỏ sự bất lợi của trẻ em trong
các hoạt động học tập nhằm tạo sự phát triển bền vững của cá nhân ở giai đoạn sau của cuộc sống.
Nhóm người bị thiệt thòi là đối tượng được quan tâm của các nghiên cứu và các chương trình hành
động, nhóm trẻ em dễ bị thiệt thòi còn nhận được sự ưu tiên hơn trong các nghiên cứu khoa học
trong thời gian qua. Nghiên cứu này của Cox cũng có đề ra những quan niệm, cách nhìn về các
nhóm trẻ em thiệt thòi, và định hướng các hoạt động trợ giúp cho các nhóm đối tượng này. Trong
việc chỉ ra các nhóm dễ bị thiệt thòi ở trẻ em, Cox cho rằng các nhóm sau dễ được phát hiện hơn, đó
là nhóm trẻ em nữ, trẻ em dân tộc thiểu số, trẻ em không đi học, trẻ em có hành vi khác thường. Các
đề xuất từ nghiên cứu này nhấn mạnh đến vai trò của gia đình, các hoạt động trợ giúp quá trình hoà
nhập sớm, các vai trò của giáo dục đối với hoà nhập, xây dựng các mô hình dịch vụ phù hợp nhằm
tạo được quá trình học tập suốt đời.
Các định hướng nghiên cứu của UNESCO về giáo dục và giáo dục hoà nhập cho các đối
tượng thiệt thòi như khuyết tật, người nghèo, người thiểu số được xem như những giải pháp và cách
thức để thúc đẩy sự thamgia và hoà nhập xã hội một cách bền vững của các nhóm đối tượng thiệt
thòi này trong xã hội (UNESCO 2007, Quality education and social inclusion). Nghiên cứu này chỉ
rõ hiệu quả của giáo dục và trường học công trong việc thúc đẩy sự hoà nhập của các nhóm yếu thế
trong xã hội. Đó cũng là nội dung của định hướng giáo dục cho mọi người được UNESCO khởi
xướng thực hiện.
Nghiên cứu của Sparkes (1999) về Trường học, Giáo dục và Loại trừ xã hội có nhấn mạnh
đến vai trò của trường học trong việc tạo nên sự khác biệt và là nhân tố loại bỏ và làm giảm thiểu sự
loại trừ xã hội của các đối tượng dễ bị tổn thương, nhất là các trẻ em gái, trẻ khuyết tật, trẻ ở vùng
kinh tế khó khăn. Trong khi đó, nghiên cứu của Liên minh châu Âu năm 2006 cũng chỉ ra được một
loạt các chỉ báo về giáo dục đối với quá trình hoà nhập cũng như tác động của giáo dục đối với quá
trình học tập suốt đời với sự hoà nhập xã hội của các nhóm đối tượng yếu thế.
Từ vấn đề giáo dục có tác động quan trọng đối với quá trình hoà nhập xã hội, việc đào tạo
nghề và tạo việc làm cho các nhóm đối tượng khó khăn, yếu thế cũng được nhiều học giả quan tâm
và tập trung nghiên cứu. Các nghiên cứu ở Úc, Canada (Laidlaw Foundations) cũng xác định nhiều
định hướng nghiên cứu về vai trò việc làm đối với quá trình hoà nhập chung của xã hội và của các
nhóm yếu thế.
Nghiên cứu của Atkinson và Hills (1998) nhấn mạnh đến vấn đề nghèo đói và việc làm với
việc làm giảm thiểu vấn đề loại trừ xã hội. Các cá nhân trong xã hội bị lề hoá cuộc sống bởi họ bị
thiếu các cơ hội làm việc, thiếu điều kiện tự đảm bảo nguồn thu nhập cá nhân từ vấn đề việc làm.
Các tác giả cũng nhấn mạnh việc thiếu việc làm ở giới trẻ càng làm cho tình trạng lề hoá cuộc sống
bị trầm trọng hơn, điều này còn làm gia tăng sự lề hoá ở những năm tiếp theo trong đời người của
giới trẻ. Việc tăng khả năng hoà nhập xã hội cần tăng khả năng và cơ hội làm việc của giới trẻ từ
những năm đầu của cuộc sống.
Tại hội thảo “Tạo điều kiện cho người khuyết tật hòa nhập vào cộng đồng” do Sở Lao động
- Thương binh - Xã hội thành phố Hồ Chí Minh phối hợp Hội Cứu trợ trẻ em tàn tật TP, Hội Bảo
trợ người tàn tật và trẻ em mồ côi TP, Hội Thanh niên Khuyết tật TP tổ chức năm 2001 cũng đã
nhấn mạnh việc được giúp đỡ để học hành, phục hồi chức năng và phát huy tiềm năng của bản thân,
được đào tạo nghề nghiệp, kể cả những kỹ năng sống độc lập là phương sách hữu hiệu giúp người
khuyết tật khả năng tự nuôi sống bản thân, không làm gánh nặng cho gia đình và xã. Báo cáo trong
Hội thảo cũng nêu rõ vai trò của vấn đề việc làm đối với người khuyết tật sẽ giúp họ giảm bớt sự
thất vọng và cô đơn; những khó khăn cho việc tiếp cận với việc làm của họ là rất lớn, do họ không
có học vấn, không có đủ trình độ tay nghề làm việc, thái độ quan điểm của người sử dụng lao động.
Hướng giải quyết cho vấn đề việc làm của người khuyết tật chủ yếu là thúc đẩy xã hội hóa công tác
dạy nghề và đào tạo việc làm cho người khuyết tật, sắp xếp việc làm phù hợp với sức khỏe, bệnh
tật, hoàn cảnh gia đình, phù hợp với điều kiện kinh tế từng địa phương cũng là cơ sở để người
khuyết tật phục hồi chức năng và phát triển ngay tại cộng đồng (Quỳnh Mai, 2001).
82
Liên quan đến giải quyết vấn đề việc làm cho người thiệt thòi cũng đã có nhiều hội thảo, dự
án nghiên cứu do tổ chức Lao động quốc tế (ILO) phối hợp với nhiều tổ chức chính phủ, phi chính
phủ ở các nước thực hiện. Một trong những dự án nghiên cứu đó thực hiện tại Ucraina đã đi đến kết
luận: 1) Mô hình hiệu quả cung ứng việc làm cho người thiệt thòi cần được cải thiện, được chỉ dẫn
và phổ biến; 2) Phương pháp đối với các dịch vụ việc làm công cho người thiệt thòi cần được cải
thiện, được chỉ dẫn và được phổ biến; 3) Năng lực dịch vụ việc làm công và những phạm vi kèm
theo chuẩn bị đầy đủ dịch vụ nghề với ngueoeif khuyết tật cần được tăng cường. (ILO, 2011).
Về vấn đề giáo dục thể chất và thể thao, được thừa nhận bởi UNESCO vào tháng 11/1978
(www.unesco.org/youth/charter.htm) đã chỉ rõ: Tham gia giáo dục thể chất và thể thao là quyền cơ
bản cho tất cả mọi người. Vì vậy nghiên cứu vấn đề về thực hiện quyền và vai trò của hoạt động
giải trí với người thiệt thòi cũng được các tác giả quan tâm. Jean Harvey (2000) trong bài “Sport for
all: State, citizenship and governance” đã chỉ ra quyền tham gia các hoạt động giải trí thể chất như
một trong những quyền đầy đủ của công dân và cũng đã đưa ra bằng chứng trường hợp của Canada
về thể thao cho tất cả. Martinek & Hellison, (1997) đã hướng đến hàng loạt nghiên cứu mà bắt đầu
từ chương trình giáo dục thể chất ở các trường học của Hoa Kỳ. Họ đã làm rõ chương trình giáo dục
thể chất nào đã tác động đến cá nhân và phát triển cộng đồng. Và tương tự với các chương trình giải
trí đã làm xuất hiện các điều kiện thuận lợi trong thanh thiếu niên sống ở khu đô thị nghèo cùng
những người hàng xóm của họ. Hiển nhiên là những đứa trẻ đó phát triển một cách tự động sự lạc
quan, các kỹ năng tích cực, những năng lực xã hội và niềm hy vọng. Cũng ở Mỹ Lawson và
Anderson Butcher (2000) đã đưa ra ý tưởng tiếp cận chính trị đông phương đến vấn đề hoạt động
giải trí thể chất có ảnh hưởng và khả năng của nó cho thúc đẩy hòa nhập xã hội trong luật và trong
các mô hình công tác xã hội cho thể thao và các điều kiện giải trí.
Như vậy từ việc nghiên cứu xác định, phân loại nhóm thiệt thòi đến nghiên cứu về mối liên
hệ giữa các chiều cạnh liên quan đến trách nhiệm xã hội, giáo dục, việc làm, hoạt động giải trí và
vai trò của chúng đối với việc thúc đẩy hòa nhập cộng đồng, hòa nhập xã hội của nhóm đều được
các nhà nghiên cứu bàn đến và giải quyết ở các mức độ khác nhau trên cơ sở thực tiễn của từng
quốc gia, từng vùng miền cũng như đối với từng nhóm thiệt thòi cụ thể.
4. Kết luận
Có thể nói khó có tác giả nào đã tổng quan được đầy đủ các nghiên cứu về vấn đề hội
nhập/hòa nhập xã hội. Từ rất sớm, trong khoa học xã hội hội/hòa nhập xã hội chủ yếu được tiếp cận
dưới góc độ lý thuyết cấu trúc chức năng. Theo đó hội nhập đươc xem xét như sự liên kết, sự thích
ứng của các thành tố xã hội trong cấu trúc hệ thống xã hội, dù các yếu tố cấu trúc là cá nhân, nhóm,
tổ chức xã hội, thiết chế xã hội hay là các yếu tố hành vi. Từ những năm 80 thế kỷ trước vấn đề này
được nhắc đến chủ yếu gắn với sự hòa nhập xã hội của các nhóm bị loại trừ, nhóm yếu thế, nhóm dễ
bị tổ thương. Theo hướng tiếp cận đối lập với loại trừ xã hội, mà thường gắn với sự loại trừ về kinh
tế, được quan tâm nhiều trong giai đoạn trước những năm 90 của thế kỷ trước. Tiếp cận theo hướng
thúc đẩy tăng cường hòa nhập xã hội, mang tính toàn diện hơn, đã lên thống trị và được rất đông
đảo các trung tâm, các tổ chức chính trị xã hội, các nhà nghiên cứu quan tâm kể từ sau Hội nghị
Thượng đỉnh Thế giới về phát triển xã hội ở Copenhagen, năm 1995.
Bàn đến vấn đề hòa nhập xã hội của nhóm thiệt thòi, các nghiên cứu đã hướng đến xem xét,
làm rõ và phân loại nhóm thiệt thòi, đã nghiên cứu và chỉ ra được mối liên hệ và sự ảnh hưởng ở
các mức độ khác nhau của các chiều cạnh về trách nhiệm xã hội, giáo dục, việc làm, hoạt động giải
trí đối với việc thúc đẩy hòa nhập xã hội của nhóm yếu thế hay nhóm bị loại trừ. Theo đó, vấn đề
hòa nhập xã hội của nhóm yếu thế cũng được giải quyết ở các mức độ khác nhau trên cơ sở thực
tiễn của từng quốc gia, từng khu vực và với từng nhóm thiệt thòi cụ thể.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Abbott S., & McConkey R. (2006). The barriers to social inclusion as perceived by people
with intellectual disabilities. Journal of Intellectual Disabilities, 10, 275–287.
2. Atkinson A John Hills (editors), (1998). Exclusion, Employment and Opportunity. London
School of Economics Houghton Street London WC2A 2AE
3. Atkinson A. B. and E. Marlier (2010). Analysing and Measuring Social Inclusionin a Global
Context. Printed by the United Nations, New York
83
4. Bates, P., & Davis, F.A. (2004). Social capital, social inclusion and services for people with
learning disabilities. Disability & Society, 19, 195–207.
5. Beland D. (2007). The social exclusion discourse: ideas and policy change. The policy press,
vol. 35, no. 1, tr. 123-139.
6. Bilton T., Kenvin Bonnett và những người khác (1987). Nhập môn xã hội học (bản dịch của
Phạm Thủy Ba). Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 1993.
7. Bollard, M. (2009). A review and critique. In M. Bollard (Eds.), Intellectual disability and
social inclusion: A critical review (pp. 5–18). Elsevier Limited
8. Burker P, and Jonathan Parker, 2007. Social work and Disadvantage: Addressing the roots of
stigma and discrimination. Jessica Kingsley Publishers
9. Cappo D. (2002). Social inclusion initiative. Social inclusion, participation and
empowerment. Address to Australian Council of Social Services National Congress 28-29
November, 2002, Hobart.
10. Clegg, J., Murphy, E., Almack, K., & Harvey, A. (2008). Tensions around inclusion:
reframing the moral horizon. Journal of Applied Research in Intellectual Disabilities, 21, 81–
94.
11. Cobigo V., C. Psych1, Hélène Ouellette-Kuntz, Rosemary Lysaght, Lynn Martin (2012).
Shifting our Conceptualization of Social Inclusion in Stigma Research and Action, Vol 2, No 2,
75–84 2012. DOI 10.5463/SRA.v1i1.10. www.stigmaj.org
12. Cobigo V. & Stuart, H. (2010). Social inclusion and mental health. Current Opinion in
Psychiatry, 23, 453–457. YCO.0b013e32833bb305.
13. Cook S. (1994). Management of Social Transformations Programme 10th Session of the
Intergovernmental Council, UNRISD. fileadmin/
MULTIMEDIA/HQ/SHS/pdf/mostigc2011_Cook.pdf
14. Cox T. 2000. Research on Work-related StressOffice for Official Publications of the
European Communities
15. Cummins, R. A., & Lau, A. L. D. (2003). Community integration or community exposure?
A review and discussion in relation to people with an intellectual disability. Journal of Applied
Research in Intellectual Disabilities, 16(2), 145–157. URL:
DU:30002162.
16. Daly M. & Silver H (2008). Social exclusion and social capital: a comparison and critique',
Theory and Society, vol. 37.
17. Durkheim E. (1893). The Division of Labor in Society. New York, Macmillan Free
Press.1964. tr.37.
18. Goodin R., 1985. Protecting the vulnerable-are analysis of social responsibilities. The
University of Chicago Press.
19. Endruweit và G. Trommsdorff, (1993). Từ điển xã hội học - bản dịch tiếng Việt. Nxb Thế
giới, 2002.
20. Ferguson C (2008). Report commissioned by the United Nations Department of Economic
and Social Affairs (UNDESA) for the Expert Group Meeting on Promoting Social Integration.
Helsinki, Finland, 8-10 July 2008.
21. International Labour Organization (ILO, 2011). Social Inclusion of People with Disabilities
through Access to Employment.
do/projects/WCMS_166970/lang--en/index.htmd
22. Jackson, C. (1999). “Social Exclusion and Gender: Does One Size Fit All?”. In The
European Journal of Development Research 11(1), pp. 125-146
23. Jo Sparkes, 1999. Schools, Education and Social Exclusion. London School of Economics
Houghton Street London WC2A 2AE
24. Harvey, J. (2000). Sport for all: State, citizenship and governance. Paper presented at the
World Congress on Sport for All, Québec City, Canada.
25. Lê Ngọc Hùng (2002). Lịch sử và lý thuyết xã hội học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
26. Krier D. (2014). Social Integration and Durkheim. Boundlees Sociology, 14 Nov. 2014.
Retrieved 02 Jan. 2015.https://www.boundless.com/sociology/textbooks/ boundless-sociology-
textbook/sociology-1/the-history-of-sociology-23/durkheim-and-social-integration-151
84
27. Korte H. (1993). Nhập môn lịch sử xã hội học (bản dịch từ tiếng Đức của dịch giả Nguyễn
Liên Hương). Nxb Thế giới, Hà Nội. 1997.
28. Laidlaw Foundation (2002). The Laidlaw Foundation’s Perspective on Social Inclusion.
National Library of Canada Cataloguing in Publication.
29. Lawson, H. & D. Anderson-Butcher (2000). The social work of sport. Paper presented at
the World Congress on Sport for All. Québec City, Canada.
30. Quỳnh Mai, (2001). Hòa nhập cộng đồng - những khó khăn và bất cập.
74645.htm
31. Martinek, T. & D. Hellison. (1997). Fostering resiliency in underserved youth through
physical activity. Quest 49(1), 34-49.
32. Mayer E. (2003). Effective Communitive Project, trên www.effectivecommunities.com, 11/
2003
33. Wolfensberger, W. (1998). A brief introduction to Social Role Valorization: A high order
concept for addressing the plight of societally devalued people, and for structuring human
services (3rd edition). Syracuse, NY: Training Institute for Human Service Planning Leadership
& Change Agentry (Syracuse University).
34. Quyet Phạm Van, Kham Trần Văn (2016). Discrimination Against Poor Immigrant Workers
in Vietnamese Urban Areas. In Vietnamese Social Sciences Vol. 1 (171).
35. Phạm Văn Quyết, Phạm Anh Tuấn (2012). Nhà nước Việt Nam với công tác hỗ trợ nhóm
yếu thế. Trong Kỷ yếu hội thảo quốc tế: Chia sẻ kinh nghiệm quốc tế về công tác xã hội và
ASXH. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
36. Trần Nguyệt Minh Thu (2014). Quá trình hòa nhập cộng đồng đô thị của người lao động di
cư tự do. Luận án tiến sỹ.
37. United Nations (1995). Report of the World Summit for Social Development, Copenhagen,
6-12 March. Sales No. E. 96.IV.8. Also available from
38. UNRISD (1994). Social Integration: Approaches and Issues, UNRISD Briefing Paper No.1,
World Summit for Social Development.
39. United Nations (1995). Report of the World Summit for Social Development, Copenhagen,
6-12 March. Sales No. E. 96.IV.8. Also available from
View publication stats
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nghien_cuu_hoa_nhap_xa_hoi_cua_nguoi_thiet_thoi_qua_cac_cong_trinh_nghien_cuu_xa_hoi_hoc_6005_206508.pdf