Nghiên cứu tổng hợp vật liệu nano TiO2/Al2O3 và thử nghiệm xử lý khí NO, CO
Đã chế tạo được vật liệu nano TiO2 anatase
phủ trên bề mặt sợi oxit nhôm đi từ hỗn hợp
dung dịch TTIP, ACAC, H2O và EtOH bằng
phương pháp sol-gel. Các mối liên quan giữa
quá trình sol-gel và cấu trúc tinh thể của
màng TiO2 được nghiên cứu và khảo sát.
Kết quả nghiên cứu khẳng định rằng: thời
gian nhúng mẫu tốt nhất trong sol A và B là
90 phút sẽ cho các hạt TiO2-anatas có dạng
hình cầu với kích thước nano và phủ đều trên
bề mặt sợi oxit nhôm; mẫu tạo ra từ sol B cho
kích thước hạt nhỏ và đồng đều hơn sol A.
Các kết quả nghiên cứu này đã chứng tỏ màng
TiO2 được chế tạo theo phương pháp sol-gel
có khả năng quang hoá cao.
6 trang |
Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 497 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu tổng hợp vật liệu nano TiO2/Al2O3 và thử nghiệm xử lý khí NO, CO, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguyễn Thị Ngọc Linh và đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 83(07): 19 - 23
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 19
NGHIÊN CỨU TỔNG HỢP VẬT LIỆU NANO TiO2/Al2O3
VÀ THỬ NGHIỆM XỬ LÝ KHÍ NO, CO
Nguyễn Thị Ngọc Linh1*, Nguyễn Thị Huệ2, Nguyễn Tuyết Vân2
1 Trường ĐH Khoa Học - ĐH Thái Nguyên
2Viện Môi trường - Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam
TÓM TẮT
Trong công trình này, chúng tôi nghiên cứu tổng hợp vật liệu nano TiO2/Al2O3 (lớp màng TiO2-
anatas phủ trên bề mặt sợi oxit nhôm) theo phương pháp sol-gel. Dung dịch sol TiO2 được điều
chế từ các chất ban đầu là titan tetraizopropoxit, axetylaxeton, nước và etanol với tỉ lệ mol các cấu
tử lần lượt là 1:1:3:20 (sol A) và 1:2:3:20 (sol B). Qua các kết quả phân tích bằng phương pháp
XRD, SEM cho thấy: thời gian nhúng mẫu oxit nhôm tốt nhất trong sol A và B là 90 phút sẽ cho
các hạt TiO2-anatas có dạng hình cầu với kích thước nano và phủ đều trên bề mặt sợi oxit nhôm;
mẫu tạo ra từ sol B cho kích thước hạt nhỏ và đồng đều hơn sol A. Thử nghiệm xử lý khí NO và
CO cho thấy dưới tác dụng của nguồn sáng có bước sóng là 360nm vật liệu TiO2/Al2O3 phân hủy
các khí này tương đối tốt. Anatas TiO2/Al2O3 với khả năng hoạt động quang hóa cao, có nhiều
triển vọng trong vấn đề xử lý khí NO và CO phát thải do hoạt động giao thông.
Từ khóa: nano TiO2, phương pháp sol-gel, hoạt tính xúc tác
MỞ ĐẦU*
Với sự gia tăng của các hoạt động giao thông đã
làm cho môi trường không khí ngày càng bị ô
nhiễm trầm trọng. Vì vậy việc thiết lập công nghệ
xử lý khí thải hiện nay là vấn đề được nhiều nhà
khoa học quan tâm nghiên cứu. Một trong các giải
pháp kỹ thuật đó là ứng dụng tính chất quang
xúc tác của vật liệu nano TiO2.
Titanđioxit (TiO2) với kích thước tinh thể cỡ nano
mét có cấu trúc xốp đã làm tăng hiệu ứng xúc tác
rõ rệt và được ứng dụng nhiều trong thực tế. Hệ
quang hoá TiO2 rất bền có hiệu ứng xúc tác cao và
có khả năng xử lý khí thải rất tốt nhờ vào năng
lượng ánh sáng mặt trời [1]. TiO2 tồn tại ở ba dạng
tinh thể anatas, rutil và brookit, trong đó dạng
anatas có hoạt tính xúc tác quang hoá là mạnh
nhất.
Để tổng hợp lớp màng nano TiO2 dạng anatas phủ
đều trên bề mặt sợi oxit nhôm chúng tôi đã dùng
phương pháp sol-gel. Trên thế giới cho đến nay có
rất ít công trình đề cập đến vấn đề này. Do vậy,
mục đích của đề tài là nghiên cứu mối liên quan
giữa quá trình sol-gel và cấu trúc tinh thể của
màng TiO2, đồng thời thử nghiệm xử lý khí NO,
CO của vật liệu chế tạo được.
THỰC NGHIỆM
1. Tổng hợp vật liệu
*
Tel: 0984792522; Email: ngoclinhtn84@yahoo.com.vn
Tổng hợp vật liệu nano TiO2/Al2O3 theo phương
pháp sol-gel từ các chất ban đầu là titan
tetraizopropoxit Ti(OC3H7
i
)4 (TTIP), etanol C2H6O
(EtOH), axetylaxeton C5H8O2 (ACAC) của Đức và
sợi Al2O3 của Nhật Bản, bao gồm các giai đoạn
chính sau:
- Điều chế các sol TiO2
Sol A: TTIP:ACAC:H2O: EtOH = 1:1:3:20
Sol B: TTIP:ACAC:H2O: EtOH = 1:2:3:20
Lấy hỗn hợp các chất với tỉ lệ mol các cấu tử như
trên cho vào bình nón và khuấy bằng máy khuấy từ
trong 5 giờ thu được các sol TiO2 có màu vàng nâu
[2].
- Tạo màng nano TiO2/Al2O3
Các sợi Al2O3 được vo tròn thành từng cuộn nhỏ
và nhúng vào các sol TiO2 đã điều chế. Khảo sát
quá trình nhúng mẫu trong khoảng thời gian 30,
60, 90, 120 phút và 24 giờ. Lấy các mẫu ra và để
trong không khí từ 12-24 giờ. Sau đó cho vào tủ
nung Carbolite (Đức), điều chỉnh nhiệt độ như sau:
Ban đầu, nhiệt độ được nâng lên từ từ theo tốc độ
2
oC/phút. Giữ cố định ở 100oC trong 1 giờ để loại
hoàn toàn nước trong các lớp màng. Rồi nâng nhiệt
độ lên tới 500 oC và giữ ở nhiệt độ đó trong 3 giờ.
Sau đó nhiệt độ được hạ dần về nhiệt độ phòng [3].
2. Nghiên cứu khả năng xử lý khí NO, CO của
vật liệu TiO2
Nguyễn Thị Ngọc Linh và đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 83(07): 19 - 23
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 20
Tiến hành phản ứng quang hoá xúc tác phân huỷ
NO và CO trong test box có thể tích là 1m3 với sự
kích thích quang của 4 đèn chiếu sáng, mỗi đèn có
công suất là 20W, bước sóng của ánh sáng là
360nm. Đặt hai tấm vật liệu có kích thước 3535
cm vào test box, thu khí NO, CO với nồng độ
5ppm tương đương với nồng độ trong thực tế tại
một số khu vực đã khảo sát trên địa bàn Hà Nội.
Bật đèn để phản ứng xảy ra, sau 1, 2, 3, 4
giờ,....kiểm tra nồng độ khí NO, CO bằng thiết bị
đo Drager Safety (Đức) qua ống dẫn khí trích từ
test box.
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
1. Đặc trưng của màng TiO2
Các vật liệu tạo ta từ sol A và B được nghiên cứu
bằng phương pháp nhiễu xạ tia X (thiết bị Siemens
D5000). Kết quả (hình 1 và 2) cho thấy các mẫu
đều có cấu trúc 100% anatas với các cực đại đặc
trưng cho pha này ở 2=25,3o (mặt 101); 37,8o
(mặt 004) và 48o (mặt 200), các giá trị 2 = 37,27o
và 42,6
0
là vị trí của pic Al (200c) và Al (202c)
[4]. Các mẫu được tạo ra từ sol A và sol B với thời
gian nhúng 90 phút sẽ cho cường độ phổ pha TiO2
- anatas lên cao và nhọn hơn các mẫu còn lại. Với
cùng thời gian nhúng 90 phút, mẫu được tạo ra từ sol
B cho cường độ phổ pha TiO2 - anatas cao hơn mẫu
tạo ra từ sol A (hình 3).
Hình 1. Giản đồ XRD của mẫu TiO2/Al2O3 tạo bởi sol
A với thời gian nhúng 30 phút (a), 60 phút (b), 90 phút
(c), 120 phút (d) và 24 giờ (e).
b
c
d
e
TiO 2 AlCps
a
Hình 2. Giản đồ XRD của mẫu TiO2/Al2O3 tạo bởi sol
B với thời gian nhúng 30 phút (a), 60 phút (b), 90 phút
(c), 120 phút (d) và 24 giờ (e)
Cps
a
b
TiO2
Al
Hình 3. Giản đồ XRD của mẫu TiO2/Al2O3 tạo bởi sol A
( a ) và B (b) với thời gian nhúng 90 phút
Kết quả phân tích SEM (thiết bị FESEM S-4800)
một số mẫu tạo ra từ sol A cho thấy: thời gian
nhúng 30 phút chưa hình thành các hạt (TiO2 -
anatas) rõ ràng (hình 4a), thời gian nhúng 90 phút
cho các hạt có dạng hình cầu với kích thước tương
đối đồng đều (hình 4b), thời gian nhúng 24 giờ
các hạt đã hình thành nhưng kích thước không đều
đồng thời có sự kết tụ thành khối (hình 4c). Với sol
B: thời gian nhúng 90 phút cho các hạt có dạng
hình cầu với kích thước hạt nhỏ tương đối đồng
đều (hình 5a), thời gian nhúng 120 phút cho kích
thước hạt to hơn và thấy xuất hiện sự kết tụ của
các hạt (hình 5b), thời gian nhúng 24 giờ các hạt
có kích thước không đều đồng thời có sự kết tụ
thành khối (hình 5c).
Như vậy, với những mẫu được tạo ra từ sol A và B
nhúng trong 90 phút sẽ cho tinh thể TiO2 có dạng
hình cầu với kích thước nano và đồng đều hơn
những mẫu còn lại. Sol B (lượng ACAC tăng lên
Cps
TiO2
Al
b
c
d
e
a
Nguyễn Thị Ngọc Linh và đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 83(07): 19 - 23
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 21
hai lần) cho kích thước hạt giảm (hình 5a) và chiều dày lớp màng cũng tăng lên (hình 6b).
(a)
(b)
(c)
(a)
(a)
(b)
(c)
(b)
Các kết quả thu được khác nhau đối với các
dung dịch sol A và B có thể là do bị ảnh
hưởng bởi tốc độ phản ứng thủy phân và
ngưng tụ của phức tạo bởi TTIP và phối tử
ACAC [3]. Phản ứng giữa TTIP và ACAC
với các tỉ lệ mol khác nhau có thể được biểu
diễn như sau:
Hình 4. Ảnh SEM của vật liệu TiO2/Al2O3 tạo bởi
sol A với thời gian nhúng 30 phút (a), 90 phút (B)
và 24 giờ (c)
Hình 5. Ảnh SEM của vật liệu TiO2/Al2O3 tạo bởi
sol B với thời gian nhúng 90 phút (a), 120 phút (B)
và 24 giờ (c)
Hình 6. Chiều dày lớp phủ anatase TiO2 /Al2O3 tạo bởi sol A (a) và sol B (b)
Nguyễn Thị Ngọc Linh và đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 83(07): 19 - 23
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 22
Ti(O-i-C3H7)4 + x(CH3)2(CO)2CH2 → Ti(O-i-
C3H7)4-x [(CH3)2(CO)2CH]x + x i-C3H7OH (x
là số mol của ACAC)
Tốc độ của quá trình thủy phân và ngưng tụ tỉ
lệ nghịch với lượng phối tử thêm vào, nghĩa
là tốc độ thủy phân của Ti(O-i-C3H7)4-x
[(CH3)2(CO)2CH]x khi x = 2 chậm hơn tốc
độ thủy phân của Ti(O-i-C3H7)4-x
[(CH3)2(CO)2CH]x khi x = 1. Do vậy, vật
liệu được tạo ra từ sol B sẽ cho kích thước
hạt nhỏ hơn sol A, điều này hoàn toàn phù
hợp với lý thuyết.
Qua các kết quả phân tích bằng phương pháp
XRD, SEM cho thấy thời gian nhúng mẫu tốt
nhất trong sol A và B là 90 phút sẽ cho các
hạt TiO2-anatas có dạng hình cầu với kích
thước nano và phủ đều trên bề mặt sợi oxit
nhôm. Vì vậy, chúng tôi đã lựa chọn thời gian
này để tổng hợp vật liệu nano TiO2/Al2O3 tạo
ra từ sol A và B đồng thời nghiên cứu khả
năng phân hủy khí NO và CO của vật liệu đó.
2. Nghiên cứu khả năng xử lý khí NO, CO
của vật liệu TiO2
Kết quả nghiên cứu cho thấy CO bị khử hoàn
toàn sau 7 giờ bởi vật liệu được phủ sol A và
sau 6 giờ bởi sol B (hình 7), NO bị khử hoàn
toàn sau 8 giờ bởi vật liệu được phủ sol A và
sau 7 giờ bởi sol B (hình 8). Khi có hỗn hợp
khí CO và NO thì trong 5 giờ đầu CO bị phân
hủy rất nhanh, NO bị phân hủy chậm, khi
CO bị phân hủy hết thì NO sẽ nhanh chóng
bị phân hủy (hình 9,10). Kết quả nghiên cứu
cũng cho thấy vật liệu được phủ bởi sol B
có hoạt tính xúc tác tốt hơn vật liệu được
phủ bởi sol A.
KẾT LUẬN
Đã chế tạo được vật liệu nano TiO2 anatase
phủ trên bề mặt sợi oxit nhôm đi từ hỗn hợp
dung dịch TTIP, ACAC, H2O và EtOH bằng
phương pháp sol-gel. Các mối liên quan giữa
quá trình sol-gel và cấu trúc tinh thể của
màng TiO2 được nghiên cứu và khảo sát.
Kết quả nghiên cứu khẳng định rằng: thời
gian nhúng mẫu tốt nhất trong sol A và B là
90 phút sẽ cho các hạt TiO2-anatas có dạng
hình cầu với kích thước nano và phủ đều trên
bề mặt sợi oxit nhôm; mẫu tạo ra từ sol B cho
kích thước hạt nhỏ và đồng đều hơn sol A.
Các kết quả nghiên cứu này đã chứng tỏ màng
TiO2 được chế tạo theo phương pháp sol-gel
có khả năng quang hoá cao.
Hình 7. Sự phân hủy CO của vật liệu TiO2/Al2O3
được phủ bởi sol A và B
Hình 9. Sự phân hủy CO và NO của vật liệu
TiO2/Al2O3 được phủ bởi sol A
Sự phân huỷ khí CO của vật liệu nano
TiO2/Al2O3
0
1
2
3
4
5
6
1 2 3 4 5 6 7
Thời gian (h)
N
ồ
n
g
đ
ộ
(
p
p
m
)
1:2:3:20
1:1:3:20
1:1:3:20 + đèn
1:2:3:20 + đèn
Sự phân huỷ khí NO và CO của vật liệu
nano TiO2/Al2O3 với tỉ lệ 1:1:3:20
0
1
2
3
4
5
6
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Thời gian (h)
N
ồ
n
g
đ
ộ
(
p
p
m
)
NO
CO
Nguyễn Thị Ngọc Linh và đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 83(07): 19 - 23
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 23
Hình 8. Sự phân hủy NO của vật liệu TiO2/Al2O3
được phủ bởi sol A và B.
Hình 10. Sự phân hủy CO và NO của vật liệu
TiO2/Al2O3 được phủ bởi sol B.
Kết quả thử nghiệm xử lý khí CO và NO bằng
vật liệu nano TiO2/Al2O3 cho thấy dưới tác
dụng của nguồn sáng có bước sóng là 360nm
các khí này bị phân hủy hết sau vài giờ chiếu
sáng. Với lớp màng TiO2 được chế tạo từ sol
B có khả năng phân hủy CO và NO tốt hơn
sol A. Như vậy, lớp màng anatas TiO2/Al2O3
có nhiều triển vọng trong vấn đề xử lý khí NO
và CO phát thải do hoạt động giao thông.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Trần Thị Đức, Nguyễn Thị Huệ (2003)
“Nghiên cứu chế tạo các loại màng xúc tác quang
hóa TiO2 để xử lý các chất độc hại trong không
khí và nước”. Báo cáo tổng kết đề tài cấp Viện
Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Hà Nội.
[2]. Nguyễn Thị Huệ, H. Tao da (2000) “Phương
pháp tạo màng quang xúc tác TiO2 trên silicagel,
thủy tinh và ứng dụng trong phân hủy các hợp chất
hữu cơ” Tuyển tập các báo cáo tại hội nghị phân
tích hóa lý và sinh học trên toàn quốc lần 2.
[3]. Nguyễn Thị Huệ (2007) Characteristic of TiO2
thin films on Chi-Alumina fiber by sol-gel
method, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, tập 45,
số 1B.
[4]. JCPDS-International Center for Diffraction
Data, PDF 21-1272; PDF 21-1276; PDF 13-0373.
Sự phân huỷ khí NO của vật liệu nano
TiO2/Al2O3
0
1
2
3
4
5
6
1 2 3 4 5 6 7 8
Thời gian (h)
N
ồ
n
g
đ
ộ
(
p
p
m
)
1:2:3:20
1:1:3:20
1:1:3:20 + đèn
1:2:3:20 + đèn
Sự phân huỷ khí NO và CO của vật liệu
nano TiO2/Al2O3 với tỉ lệ 1:2:3:20
0
1
2
3
4
5
6
1 2 3 4 5 6 7 8 9
Thời gian (h)
N
ồ
n
g
đ
ộ
(
p
p
m
)
NO
CO
Nguyễn Thị Ngọc Linh và đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 83(07): 19 - 23
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 24
SUMMARY
THE STUDY ON SYNTHESIS OF TiO2/ Al2O3 NANOMATERIALS
AND TREATMENT TEST OF NO, CO GASES
Nguyen Thi Ngoc Linh
1*
, Nguyen Thi Hue
2
, Nguyen Tuyet Van
2
1College of Science – Thainguyen University
2Institute of Environmenttal Technology,Vietnam Academy of Science and Technology
In this work, we studied to manufacture TiO2/Al2O3 nanomaterials (anatas-TiO2 membrane layer coating
on the surface of Alumina fibers) by sol-gel method. Sol-TiO2 solution was prepared by original
substances such as tetraisopoxide titanium, acetyl acetone, water, and ethanol with molar ratios
corresponding to 1:1:3:20 (sol A) and 1:2:3:20 (sol B). Through the analysis of results by means of XRD,
SEM showed that the best time in the aerosol A and B samples is 90 minutes for spherical nano-sized
anatas - TiO2 particles coating on the surface alumina fiber; samples generated from sol B give particles
size smaller and more equal compared to sol A. NO and CO gases treatment test showed that under the
effect of light source wavelength at 360nm, material TiO2/Al2O3 decomposed these gases relatively well.
Anatas-TiO2/Al2O3, with the ability of high photochemical activity, has great potential in treatment of
NO and CO gases created from traffic activities.
Key words: nano TiO2, sol-gel method, catalytic activity
* Tel: 0984792522; Email: ngoclinhtn84@yahoo.com.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- brief_32453_36012_88201291759nghiencuutonghop_414_2052806.pdf