SUMMARY
Interleukin-3 và Interleukin-11 are multifunctional cytokine, which modulates the proliferation,
differentiation and maturation of various types of hematopoietic cells. Genes coding for IL-3 and IL-11
(NM_000588 and NM_000641 from GenBank) linked with pelB leader and restriction sequences of NdeI
(5’end), NotI (3’end) were synthesized and then introduced into a cloning vector pUC57. The gene cassets
were incorporated into pET22b(+) at restriction sites for expression of il3 and il11 genes in E. coli BL21.
Following induction with 0.5 mM IPTG at 37oC, a band of 15 kD, corresponding to the size of IL-3 protein
(cleavage of PelB signal sequence) and another band of about 18 kD, corresponding to the size of IL-3 protein
in fusion with PelB. IL-11 protein was expressed with a very faint band of about 19 kD, corresponding to the
human IL-11 size.
6 trang |
Chia sẻ: thucuc2301 | Lượt xem: 549 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu tạo chủng escherichia coli tái tổ hợp biểu hiện Interleukin-3 và Interleukin-11 người dưới dạng lai với PelB - Nguyễn Thị Quý, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ SINH HỌC, 2013, 35(3se): 94-99
94
NGHIÊN CỨU TẠO CHỦNG ESCHERICHIA COLI TÁI TỔ HỢP
BIỂU HIỆN INTERLEUKIN-3 VÀ INTERLEUKIN-11 NGƯỜI
DƯỚI DẠNG LAI VỚI PelB
Nguyễn Thị Quý, Dương Thu Hương, Lê Ngọc Giang,
Lê Thị Thu Hồng, Đỗ Thị Huyền, Trương Nam Hải*
Viện Công nghệ sinh học, Viện Hàn lâm KH & CN Việt Nam, *tnhai@ibt.ac.vn
TÓM TẮT: Interleukin-3 (IL-3) và Interleukin-11 (IL-11) là những cytokine đa chức năng, đóng vai trò
điều hòa sự nhân lên, biệt hóa và trưởng thành của nhiều loại tế bào máu. Gen mã hóa cho protein IL-3 và
IL-11 của người (mã số NM_000588 và NM_000641 trên ngân hàng gen quốc tế) được tổng hợp nhân tạo
cùng tín hiệu tiết pelB và trình tự nhận biết của hai enzyme hạn chế NdeI ở đầu 5' và NotI ở đầu 3', được
đưa vào vector tách dòng pUC57. Sau đó toàn bộ đoạn DNA được chuyển vào vị trí NdeI- NotI của vector
biểu hiện pET22b(+) để tiến hành biểu hiện gen il-3, il-11 trong vi khuẩn E. coli BL21. Kết quả cho thấy ở
37oC và nồng độ chất cảm ứng là 0,5 mM IPTG, IL-3 được biểu hiện dưới hai dạng: dạng đơn (IL-3
nguyên vẹn đã được cắt bỏ tín hiệu tiết PelB) có kích thước khoảng 15 kDa và dạng lai với tín hiệu tiết
PelB (khoảng 18 kDa). Protein IL-11 biểu hiện ở mức độ thấp và ở dạng đơn, có kích thước khoảng 19
kDa đúng với kích thước của protein IL-11 chuẩn.
Từ khóa: Escherichia coli, Interleukin-3, Interleukin-11, Isopropylthio-β-galactoside (IPTG), tín hiệu tiết PelB.
MỞ ĐẦU
Interleukin-11 (IL-11) là một cytokine thuộc
họ Interleukin-6, đóng vai trò điều hòa sự nhân
lên, biệt hóa và trưởng thành của nhiều loại tế
bào máu. Theo Souto et al. (2012) [ 6], protein
IL-11 người tái tổ hợp sản xuất bằng công nghệ
DNA tái tổ hợp từ chủng E. coli hiện nay được
sử dụng trên toàn thế giới để phòng bệnh giảm
tiểu cầu sau hóa trị liệu và giảm nhu cầu truyền
tiểu cầu đối với bệnh nhân bị u tủy ác tính.
Interleukin 3 (IL-3) cũng là một cytokine có
bản chất là glycoprotein, tham gia vào quá trình
tự đổi mới và sống sót của các tế bào nguồn tạo
máu, sự nhân lên, biệt hóa của các tế bào nguồn
và hoạt hóa chức năng của các bạch cầu trưởng
thành [ 3].
Trong số các hệ biểu hiện protein ngoại lai
hiện nay thì vi khuẩn Gram âm E. coli vẫn là
một trong những hệ biểu hiện thu hút nhiều
quan tâm nhất vì chúng có tốc độ sinh trưởng
nhanh với mật độ tế bào cao trên môi cơ chất
không đắt tiền cũng như các đặc điểm di truyền
đã được nghiên cứu đầy đủ. Hơn nữa, trên thị
trường hiện nay thương mại nhiều loại vector
tách dòng và chủng đột biến đối với hệ biểu
hiện này.
Protein ngoại lai tổng hợp trong tế bào chất
ở E. coli thường đi kèm với sự cuộn xoắn không
chính xác và tích tụ ở dạng thể vùi. Mặc dù sự
tạo thành thể vùi thuận lợi cho tinh sạch nhưng
việc tái cấu trúc để đảm bảo chức năng sinh học
chưa hiệu quả. Việc tiết protein vào khoang chu
chất sẽ có nhiều ưu điểm, nhất là giảm sự phân
cắt protein đích, tinh sạch dễ dàng, protein độc
với tế bào khu trú trong khoang chu chất. Hầu
hết các protein được tiết ra khoang chu chất là
protein dạng tan, có chức năng sinh học.
Khoang chu chất của tế bào E. coli chứa các
enzyme xúc tác việc tạo thành hoặc tái sắp xếp
cầu disulfide, vì vậy các protein tái tổ hợp biểu
hiện trong E. coli thường được định hướng vận
chuyển đến đây [ 1].
Có nhiều chuỗi tín hiệu xuất phát từ những
protein tiết trong tự nhiên như OmpA, OmpT,
PelB, β-lactamase và alkaline phosphatase giúp
vận chuyển các polypeptide ngoại lai qua màng
trong nếu được thiết kế ở dạng lai với chúng.
Người ta thường thiết kế thêm tín hiệu dẫn
đường vào đầu N của protein đích. Chúng sẽ
định hướng chuyển protein ra khoang chu chất
và sau đó bị cắt bởi peptidase của màng trong,
phần protein còn lại có hoạt tính được định
hướng tới khoang chu chất của tế bào.
Theo Georgiou & Segatori (2005) [ 2], nhờ
Nguyen Thi Quy et al.
95
tiến bộ về công nghệ biểu hiện trong thời gian
qua, nhiều protein của động vật có vú được sản
xuất đều đặn dưới dạng tiết, năng suất lên tới
gam/lít.
Trong bài báo này, chúng tôi thiết kế tín hiệu
tiết PelB ngay trước gen il-3 và il-11 để định
hướng biểu hiện protein IL-3 và IL-11 người tái
tổ hợp ở khoang chu chất của E. coli, đồng thời
tránh sự gắn không mong muốn của methionin
vào đầu chuỗi polypeptide mới tổng hợp.
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Vật liệu
Gen il-3 và il-11 được tổng hợp bởi hãng
Genscript (Hoa Kỳ) và tách dòng trong vector
pUC57. Plasmid pET22b(+) được dùng làm
vector biểu hiện. Chủng E. coli DH10b dùng
cho mục đích tách dòng gen. Chủng E. coli
BL21 (Invitrogen) được dùng làm chủng biểu
hiện protein.
Enzyme hạn chế NotI, NdeI, DNA marker,
protein chuẩn của hãng Fermentas (Đức).
Skimmed milked (Difco), 3,3′,5,5′-
Tetramethylbenzidine (TMB, Sigma). Protein
tái tổ hợp IL-3 người chuẩn (Biovision) và IL-
11 chuẩn (Sigma) được dùng làm đối chứng
dương. Kháng thể kháng IL-3 (Bioworld) và IL-
11 (Abcam) được sử dụng cho phản ứng lai
western blot. Tất cả các hóa chất khác được
mua từ hãng Merck.
Phương pháp
Thiết kế plasmid mang gen il-3 và il-11
Trình tự gen mã hóa protein IL-3 và IL-11
người được tổng hợp dựa trên trình tự gen mã
số NM_000588 và NM_000641 trên Ngân hàng
gen quốc tế, trong đó trình tự amino acid của
IL-11 giống với trình tự amino acid của IL-11
đã được thương mại của hãng Neumega (không
có Prolin). Để định hướng protein tiết ra khoang
chu chất và đảm bảo methionin được cắt khỏi
protein đích, gen il-3 và il-11 được thiết kế thêm
đoạn peptide dẫn đường pelB ở đầu mỗi gen.
Ngoài ra, trình tự nhận biết bởi enzyme hạn chế
NdeI và NotI được đưa vào hai đầu của mỗi gen
để thuận tiện cho việc tách dòng các gen. Trình
tự cassette biểu hiện gen il-3, il-11 được gửi
sang hãng Genscript để tổng hợp và tách dòng
trong vector pUC57. Sau đó, đoạn gen pelBil3,
pelBil11 được cắt khỏi vector tách dòng bằng
NdeI và NotI và nối vào vector pET22b(+) cũng
đã được xử lý bằng hai enzyme hạn chế trên để
tạo thành vector pET22pelBil3, pET22pelBil11.
Biểu hiện gen il-3 và il-11
Các tế bào E. coli mang vector biểu hiện
pET22pelBil3, pET22pelBil11 được nuôi cấy
trong môi trường Luria Broth có ampicillin
(LBamp) nồng độ 100 µg/ml qua đêm ở 37oC,
200 vòng/phút rồi chuyển sang sang môi trường
LBamp mới sao cho OD600 ban đầu là 0,1. Tiếp
tục nuôi cấy trong cùng điều kiện cho tới khi
OD600=0,4-0,6 thì bổ sung 0,5 mM
Isopropylthio-β-galactoside (IPTG) để cảm ứng
promoter tổng hợp protein ngoại lai ở 37oC và
thu mẫu sau 4 giờ nuôi cấy cảm ứng. Tế bào
được thu lại bằng cách ly tâm và hòa lại trong
đệm TrisHCl 20 mM sao cho OD600=10. Sau đó,
tế bào được xử lý trực tiếp bằng đệm xử lý mẫu
để giải phóng protein tổng số. Protein tổng số
có chứa protein tái tổ hợp được phân tích bằng
SDS-PAGE và Western blot.
Tính kháng nguyên của IL-3 và IL-11 được
đánh giá thông qua khả năng liên kết với kháng
thể đặc hiệu.
Mẫu protein được điện di biến tính trên gel
SDS-PAGE 15% và chuyển màng bằng bộ
chuyển màng của BioRad trong 1 giờ, 120 V.
Màng được lấy ra và phủ bằng sữa tách béo 5%,
rồi ủ với kháng thể 1 là kháng thể kháng IL-3
(hoặc IL-11) người trong 1 giờ. Sau bước rửa
bằng đệm TBS 1X, màng tiếp tục được ủ với
kháng thể 2 cộng hợp với enzyme peroxidase
trong 1 giờ và hiện màu với 3,3′,5,5′-
Tetramethylbenzidine (TMB).
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Thiết kế plasmid mang gen il3 và il11 để biểu
hiện trong E. coli
Các gen il-3, il-11 của người có kích thước
tương ứng là 405 bp và 537 bp. Khi được gắn
pelB và trình tự nhận biết enzyme hạn chế vào đầu
5', kích thước gen tăng lên tương ứng là 488 bp và
620 bp (hình 1). Do trong vector có thêm trình tự
nhận biết của NdeI nên khi cắt bằng cặp enzyme
hạn chế này vector đã bị cắt thành hai đoạn có
kích thước khoảng 2,5 kb và 0,25 kb (hình 1).
TẠP CHÍ SINH HỌC, 2013, 35(3se): 94-99
96
Hình 1. DNA plasmid được xử lý
bằng enzyme hạn chế
1. pUC57pelBil11/NdeI+NotI;
2: pUC57pelBil3/NdeI+NotI; M: DNA marker 1 kb.
Gen il-3 và il-11, pET22b(+) sau khi xử lý
với NdeI và NotI được phân tách trên gel
agarose và được tinh sạch bằng kít của Qiagen.
Cả ba đoạn DNA pET22b(+), il3, il11 giới hạn
bởi NdeI+NotI có kích thước lần lượt là 5,37 kb,
488 bp, 620 bp đều được cắt và tinh sạch hiệu
quả (hình 2).
Các đoạn gen il-3, il-11 lần lượt được nối
vào vector pET22b(+) để tạo thành vector
pET22pelBil3 và pET22pelBil11. Sự có mặt của
gen il-3, il-11 trong vector biểu hiện được kiểm
tra bằng chính cặp enzyme hạn chế NdeI và
NotI (hình 3) và giải trình tự gen (kết quả không
trình bày).
Hình 2. pET22b(+), gen pelBil3 và pelBil11 tinh
sạch sau khi xử lý bằng NotI và NdeI.
1. pET22b(+)/NdeI+NotI; 2: pelBil3/NdeI+NotI;
3: pelBil11/NdeI+NotI; M: DNA marker 1kb
(fermentas).
Hình 3. Cắt kiểm tra vector biểu hiện mang gen
bằng enzyme hạn chế
1. pET22pelBil3/NdeI+NotI; 2: pET22pelB
il11/NdeI+NotI; M: DNA marker 1 kb
(fermentas).
Hình 4. Kiểm tra protein biểu hiện từ các dòng E. coli BL21 mang pETpelBil3
bằng Coomassie (a) và phản ứng lai western blot (b)
1-6. các dòng mang pETpelBIL-3; DC: chủng đối chứng không mang gen;
K. chủng mang gen không cảm ứng IPTG; M1. thang protein chuẩn (Fermentas);
M2. thang protein màu chuẩn (Fermentas); P: protein chuẩn hIL3 (Biovision)
1 M 2
250
500
750
1000
1500
2000
10000
bp
6000
2500
3000
4000
250
500
750
1000
1500
2000
10000
bp
6000
2500
1 M 2 3
250
500
750
1000
1500
2000
10000
bp
6000
2500
1 M 2
kDa
10
70
15
25
35
40
55
b 1 M 2 P 2 3 DC 4 5 K kDa
14,4
18,4
25,0
35,0
45,0
66,2
116,
a 1 M 1 2 3 4 DC 5 K
Nguyen Thi Quy et al.
97
Biểu hiện gen il-3 và il-11 trong E. coli
Vector tái tổ hợp mang gen pelBil-3 và il-11
được biến nạp vào tế bào biểu hiện E. coli
BL21. Các dòng biến nạp được nuôi cấy trong
môi trường LBamp và cảm ứng với IPTG. Dịch
phá tế bào được điện di biến tính trên gel SDS-
PAGE 15% để kiểm tra sự có mặt của protein
quan tâm (hình 4 và 5).
Kết quả nhuộm Coomassie trên hình 4a cho
thấy sau cảm ứng, tất cả các dòng biến nạp (1-
6) đều biểu hiện protein ngoại lai, thể hiện với
một băng protein có kích thước khoảng 15 kDa
tương ứng với kích thước của protein IL-3 và
một băng protein khác có kích thước khoảng
gần 18 kDa, trong khi dòng đối chứng âm
(đường chạy DC) là dòng chỉ mang vector
pET22b(+) và dòng mang gen nhưng không
được cảm ứng IPTG (đường chạy K) đều không
cho hai băng protein này. Theo lý thuyết, đoạn
peptide tín hiệu PelB có kích thước khoảng 2,42
kDa. Sự xuất hiện băng protein có kích thước
khoảng 18 kDa trên điện di đồ được cho là băng
của protein IL-3 gắn với PelB và trong quá trình
biểu hiện có thể chỉ một phần protein IL-3 được
cắt khỏi đoạn peptide tín hiệu. Để chứng minh
lập luận trên, phản ứng lai western blot dựa trên
sự liên kết đặc hiệu giữa kháng nguyên – kháng
thể được thực hiện. Kết quả phân tích miễn dịch
trên Hình 4b cho thấy có hai băng màu xuất
hiện được đánh dấu bằng mũi tên, đó là băng
protein IL-3 (khoảng 15 kDa) và IL-3 liên kết
với PelB (khoảng 18 kDa). Kết quả liên kết
miễn dịch này hoàn toàn thống nhất với kết quả
phân tích SDS-PAGE.
Như đã đề cập ở trên, để protein biểu hiện
dưới dạng tiết thì người ta thường thiết kế thêm
tín hiệu tiết vào đầu N của protein đích. Tuy
nhiên, hiệu suất biểu hiện thường thấp hơn
nhiều và không phải tất cả protein biểu hiện đều
được tiết vào khoang chu chất mà còn tìm thấy
ở trong môi trường, trong tế bào chất và màng
nguyên sinh chất [ 1, 7]. Kết quả biểu hiện
protein IL-3 từ chủng E. coli tái tổ hợp do
chúng tôi thiết kế cũng giống như trường hợp
trên. Mặc dù được thiết kế gắn thêm pelB vào
đầu gen nhưng chỉ một phần protein biểu hiện
ra được cắt khỏi PelB và phần còn lại vẫn gắn
với tín hiệu tiết này. Theo Mergulhao et al.
(2005) [ 5], kích thước protein có thể ảnh hưởng
đến hiệu quả tiết. Thành phần amino acid của
peptide tín hiệu và protein đích cũng đóng vai
trò quan trọng. Tốc độ vận chuyển protein ngoại
lai ra khoang chu chất có thể bắt nguồn từ khả
năng tiết hạn chế của bộ máy vận chuyển trong
E. coli. Khi khả năng này bị lấn át thì phần lớn
protein biểu hiện ra dưới dạng thể vùi. Vì thế
việc tối ưu mức độ biểu hiện là điều rất quan
trọng.
Tương tự như vậy, các dòng biến nạp với gen
il-11 cũng được nuôi cấy và cảm ứng với IPTG
để phân tích sự biểu hiện protein IL-11 người tái
tổ hợp trong dịch phá tế bào. Sự biểu hiện protein
ngoại lai được phân tích trên gel SDS-PAGE và
phản ứng lai western blot (hình 5).
Hình 5. Kiểm tra protein biểu hiện từ các dòng E. coli BL21 mang pETpelBil11
bằng Coomassie (a) và phản ứng lai western blot (b)
1-5. các dòng mang vector pETpelBil11; ĐC. chủng đối chứng không mang gen;
K. chủng mang gen không cảm ứng IPTG; P: protein chuẩn human IL-11 (Sigma);
M1. thang protein chuẩn (Fermentas); M2. thang protein màu chuẩn (Fermentas).
kDa
10
70
15
25
35
40
55
170
b 1 K DC P M2 2 3 4 5 DC
14,4
18,4
25,0
35,0
45,0
66,2
116,
kDa 1 K DC P M1 2 3 4 5 a
TẠP CHÍ SINH HỌC, 2013, 35(3se): 94-99
98
Kết quả nhuộm Coomassie trên hình 5a cho
thấy so với dòng đối chứng (ĐC) và dòng không
cảm ứng IPTG (K) thì các dòng còn lại đều
không quan sát thấy băng protein khác biệt
trong khi kết quả lai với kháng thể kháng IL-11
người (hình 5b) cho một băng duy nhất bắt màu
rất yếu, tương ứng với kích thước của protein
IL-11 chuẩn (đường chạy P, mũi tên) ở các dòng
số 1, 3, 4 và 5. Như vậy IL-11 biểu hiện kém
trong chủng chủ và dưới dạng đơn, không giống
như trường hợp IL-3. Mức độ biểu hiện yếu của
IL-11 trong chủng tái tổ hợp có thể liên quan
đến cấu trúc gen il-11 và tính chất của protein
tạo ra. Thành phần nucleotide của gen liên quan
đến mã bộ ba mã hóa cho amino acid.
Khi phân tích sự phù hợp của gen il-11 đối
với chủng chủ thì thấy thành phần GC của gen
lên tới 71,13% và chỉ số phù hợp codon là 0,61.
Thông thường để gen biểu hiện tốt trong chủng
chủ thì chỉ số phù hợp codon lớn hơn 0,8 và
thành phần GC nằm trong ngưỡng 30-70%.
Mức độ biểu hiện protein ngoại lai trong chủng
chủ phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. Theo
Mehlin at el. (2006) [ 4], sự phù hợp của gen,
kích thước phân tử, điểm đẳng điện (PI) của
protein đích đối với E. coli liên quan mật thiết
đến khả năng biểu hiện trong chủng chủ.
KẾT LUẬN
Gen il-3 và il-11 đã được thiết kế gắn với tín
hiệu tiết pelB và đưa vào vector biểu hiện
pET22b(+) và biểu hiện trong tế bào E. coli
BL21. Protein IL-3 tái tổ hợp tạo ra ở dạng đơn
và dạng lai với tín hiệu tiết PelB trong khi
protein IL-11 biểu hiện ở dạng đơn. Phân tích
miễn dịch cho thấy protein IL-11 biểu hiện ở
mức độ thấp, thể hiện ở tín hiệu yếu với kháng
thể kháng IL-11.
Lời cảm ơn: Công trình được thực hiện từ
nguồn kinh phí của đề tài độc lập cấp nhà nước
“Nghiên cứu sản xuất Interleukin-3 và
Interleukin-11 tái tổ hợp chất lượng cao dùng
trong y học (điều trị)” giai đoạn 2013-2015.
Công trình có sử dụng trang thiết bị của Phòng
thí nghiệm Trọng điểm Công nghệ Gen.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Baneyx F., 1999. Recombinant protein
expression in Escherichia coli. Curr Opin
Biotechnol., 10(5): 411-21.
2. Georgiou G., Segatori L., 2005. Preparative
expression of secreted proteins in bacteria:
status report and future prospects. Curr Opin
Biotechnol., 16(5): 538-545.
3. Kaushansky K., Shoemaker S. G., Broudy
V. C., Lin N. L., Matous J. V., Alderman E.
M., Aghajanian J. D., Szklut P. J., VanDyke
R. E., Pearce M. K., 1992. Structure-
function relationships of interleukin-3. An
analysis based on the function and binding
characteristics of a series of interspecies
chimera of gibbon and murine interleukin-3.
J. Clin. Invest., 90(5): 1879-1888.
4. Mehlin C., Boni E., Buckner F. S., Engel L.,
Feist T., Gelb M. H., Haji L., Kim D., Liu
C., Mueller N., Myler P. J., Reddy J. T.,
Sampson J. N., Subramanian E., Van
Voorhis W. C., Worthey E., Zucker F., Hol
W. G., 2006. Heterologous expression of
proteins from Plasmodium falciparum:
results from 1000 genes. Mol. Biochem.
Parasitol., 148(2): 144-160.
5. Mergulhao F. J. M., Summers D. K.,
Monteiro G. A., 2005. Recombinant protein
secretion in Escherichia coli. Biotechnology
Advances 23: 177-202.
6. Souto R. B., Stamm F. P., Ribela M. T.,
Bartolini P., Calegari G. Z., Dalmora S. L.,
2012. Validation of a stability-indicating
RP-LC method for the assessment of
recombinant human interleukin-11 and its
correlation with bioassay. Anal Sci., 28(3):
215-220.
7.
es/protein_expression/ecoli/improving_prot
ein_solubility/
Nguyen Thi Quy et al.
99
DESIGNING RECOMBINANT ESCHERICHIA COLI STRAIN
FOR EXPRESSION OF INTERLEUKIN-3 AND INTERLEUKIN-11
IN FUSION FORM WITH PelB
Nguyen Thi Quy, Duong Thu Huong, Le Ngoc Giang,
Le Thi Thu Hong, Do Thi Huyen, Truong Nam Hai
Institute of Biotechnology, VAST
SUMMARY
Interleukin-3 và Interleukin-11 are multifunctional cytokine, which modulates the proliferation,
differentiation and maturation of various types of hematopoietic cells. Genes coding for IL-3 and IL-11
(NM_000588 and NM_000641 from GenBank) linked with pelB leader and restriction sequences of NdeI
(5’end), NotI (3’end) were synthesized and then introduced into a cloning vector pUC57. The gene cassets
were incorporated into pET22b(+) at restriction sites for expression of il3 and il11 genes in E. coli BL21.
Following induction with 0.5 mM IPTG at 37oC, a band of 15 kD, corresponding to the size of IL-3 protein
(cleavage of PelB signal sequence) and another band of about 18 kD, corresponding to the size of IL-3 protein
in fusion with PelB. IL-11 protein was expressed with a very faint band of about 19 kD, corresponding to the
human IL-11 size.
Keywords: Escherichia coli, Interleukin-3 và Interleukin-11, Isopropylthio-β-galactoside (IPTG), pelB leader.
Ngày nhận bài: 30-6-2013
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3845_13355_1_pb_2727_2016643.pdf