Nghiên cứu sự đa dạng sinh học khu hệ cá ở vùng đất ngập nước búng Bình Thiên, tỉnh An Giang - Thái Ngọc Trí

KẾT LUẬN Kết quả nghiên cứu từ năm 2008 đến 2011, tại vùng đất ngập nước Búng Bình Thiên đã thu thập và xác định được 111 loài cá thuộc 27 họ, 10 bộ. Trong đó bộ cá Chép (Cypriniformes) có số lượng nhiều nhất với 44 loài, chiếm 44,39%; bộ cá Nheo (Siluriformes) với 29 loài, chiếm 26,23%; bộ cá Vược (Perciformes) với 19 loài, chiếm 19,17%; bộ Mang liền (Synbranchiformes) với 7 loài, chiếm 7,6%; các bộ còn lại có số lượng ít từ 1 đến 3 loài với tỷ lệ 1,1-3,3%. Có 6 loài cá quý hiếm bị đe dọa với các cấp độ khác nhau, những loài cá này rất có ý nghĩa về mặt khoa học, cần được bảo vệ nhằm bảo tồn tính đa dạng không chỉ cho khu vực Búng Bình Thiên mà còn có ý nghĩa trong bảo tồn đa dạng sinh học của hệ thống sông Mê Kông. Lời cảm ơn: Chương trình nghiên cứu này được thực hiện từ nguồn kinh phí tài trợ bởi DANIDA, Đan Mạch. Chúng tôi trân trọng cảm ơn Lãnh đạo Hợp phần SCAFI, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn/BQL dự án thủy sản tỉnh An Giang, UBND các huyện, xã, cộng đồng và bà con ngư dân tại khu vực triển khai dự án, đã giúp đỡ tạo điều kiện thuận lợi cho chúng tôi trong suốt thời gian thực hiện nghiên cứu

pdf9 trang | Chia sẻ: thucuc2301 | Lượt xem: 532 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu sự đa dạng sinh học khu hệ cá ở vùng đất ngập nước búng Bình Thiên, tỉnh An Giang - Thái Ngọc Trí, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ SINH HỌC, 2012, 34(3SE): 21-29 21 NGHIÊN CỨU SỰ ĐA DẠNG SINH HỌC KHU HỆ CÁ Ở VÙNG ĐẤT NGẬP NƯỚC BÚNG BÌNH THIÊN, TỈNH AN GIANG Thái Ngọc Trí*, Hoàng Đức Đạt, Nguyễn Văn Sang Viện Sinh học nhiệt đới, Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, (*)trifishecoitb@yahoo.com TÓM TẮT: Búng Bình Thiên là vùng đất ngập nước thuộc huyện An Phú, tỉnh An Giang. Kết quả nghiên cứu trong 3 năm (2008-2011), đã thu thập và xác định được 111 loài cá thuộc 27 họ, 10 bộ. Trong đó, bộ cá chép (Cypriniformes) có số lượng nhiều nhất với 44 loài, chiếm tỷ lệ 44,39%; bộ cá nheo (Siluriformes) với 29 loài, chiếm tỷ lệ 26,23%; bộ cá vược (Perciformes) với 19 loài, chiếm tỷ lệ 19,17%; bộ mang liền (Synbranchiformes) với 7 loài, chiếm tỷ lệ 7,6%; các bộ còn lại có số lượng ít từ 1 đến 3 loài với tỷ lệ 1,1-3,3%. Có 6 loài cá quý hiếm được ghi trong Sách Đỏ Việt Nam 2007 và Danh lục đỏ của IUCN ở các cấp bị đe dọa khác nhau. Đã xây dựng mô hình đồng quản lý nghề cá cho vùng đất ngập nước Búng Bình Thiên nhằm quản lý, khai thác, sử dụng và phát triển bền vững nguồn lợi cá thích ứng với sự tác động của biến đổi khí hậu. Từ khóa: Đa dạng sinh học, đồng quản lý nghề cá, khu hệ cá, Búng Bình Thiên. MỞ ĐẦU Búng Bình Thiên (BBT) là một vùng đất ngập nước, có diện tích khoảng hơn 200 ha vào mùa khô và được mở rộng lên đến 800 ha vào mùa lũ. Búng Bình Thiên là nơi cư trú thích hợp cho nhiều loài thủy sinh vật, trong đó có nhiều loài thủy sản đặc trưng của đồng bằng sông Cửu Long di cư vào sinh sống ở khu vực này. Tuy nhiên, trong những năm gần đây do sự liên hệ của BBT với sông ngày càng hạn chế: phần Búng ở phía sông Bình Di thu hẹp, cạn dần, giảm khả năng trao đổi nước giữa Búng với sông, chất thải sinh hoạt của dân cư, các hoạt động khai thác thủy sản chưa hợp lý cùng với sự tác động cực đoan của điều kiện khí hậu. Vì vậy, nghiên cứu đa dạng sinh học khu hệ cá và xây dựng mô hình đồng quản lý nghề cá ở vùng đất ngập nước Búng Bình Thiên, nhằm bảo tồn tính đa dạng sinh học nguồn lợi thủy sản cùng với việc ổn định sinh kế, nâng cao đời sống của cộng đồng. Điều này còn giúp nâng cao vai trò và năng lực của cộng đồng trong việc tham gia bảo vệ đa dạng sinh học và phát triển bền vững nghề cá thích ứng với sự biến đổi khí hậu. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Khảo sát thực địa Thực hiện 8 đợt khảo sát nghiên cứu khu hệ cá và hoạt động nghề cá ở Búng Bình Thiên từ 2008-2011. Sử dụng GPS xác định tọa độ các vị trí được nghiên cứu, khảo sát. Sử dụng các loại ngư cụ khác nhau để nghiên cứu thu thập thành phần loài, như: lưới (gồm nhiều loại kích cỡ khác nhau), chài quăng, câu, đụm, đăng dớn, lợp. Kết hợp với ngư dân trong quá trình thu thập mẫu, khảo sát điểm bán cá tại chỗ trong khu vực của Búng (tại đầu Búng Bình Thiên gần cầu C3, cá đánh bắt được đưa lên bán từ 14 giờ đến 15 giờ 30’ hàng ngày). Tất cả mẫu vật thu thập được chụp hình và xử lý, định hình bằng formalin 10%, đối với những cá thể có kích thước lớn được tiêm formalin 40% trực tiếp vào xoang bụng, đưa về phòng thí nghiệm phân tích, định loại và lưu giữ. Sử dụng phiếu điều tra, tổ chức các hội thảo, phỏng vấn các hộ ngư dân chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp ở khu vực Búng Bình Thiên, thuộc ấp Sa Tô xã Khánh Bình, ấp Búng lớn xã Nhơn Hội, ấp Búng Bình Thiên, xã Quốc Thái. Tiếp xúc và thu thập thông tin từ cán bộ quản lý huyện An Phú, UBND các xã Nhơn Hội, Khánh Bình, Quốc Thái, các cán bộ Trưởng, Phó ấp ở trong khu vực Búng Bình Thiên. Tất cả dữ liệu sơ cấp thu thập ngoài thực địa được ghi chép vào sổ nhật ký thực địa. Thai Ngoc Tri , Hoang Duc Dat, Nguyen Van Sang 22 Hình 1. Búng Bình Thiên và các khu vực thu mẫu () Bảng 1. Ký hiệu và tọa độ các điểm khảo sát STT Ký hiệu điểm khảo sát và thu mẫu Tọa độ Vĩ độ Bắc (N) Kinh độ Đông (E) 1 BT1 10°55'22.08" 105° 5'5.42" 2 BT2 10°55'30.00" 105° 5'5.89" 3 BT3 10°55'9.48" 105° 4'34.61" 4 BT4 10°55'10.92" 105° 4'21.90" 5 BT5 10°55'13.44" 105° 4'6.35" 6 BT6 10°55'1.92" 105° 3'36.79" Xử lý và phân tích mẫu trong phòng thí nghiệm Tất cả mẫu vật thu thập được xử lý, phân tích xác định tên khoa học và sắp xếp các bậc phân loại bộ, họ, giống, loài theo hệ thống phân loại của Eschmeyer (1998) [4]. Tham khảo các tài liệu chính về các khu hệ cá vùng lân cận: Rainboth (1996) [100]; Smith (1945) [101]; Kawamoto et al. (1972) [9]; Mai Đình Yên và nnk. (1992) [13]; Trương Thủ Khoa và nnk. (1993) [8]; Nguyễn Tấn Trịnh (1996) [2]; Nguyễn Văn Hảo & Ngô Sỹ Vân [7]; Sách Đỏ Việt Nam (2007) [1]; Fishbase (2012) [5]. Sử dụng phần mềm EXCEL, SPSS và EVIEWS để cập nhật và phân tích dữ liệu từ phiếu điều tra. Các phương pháp thống kê mô tả và các kỹ thuật phân tích định tính khác được áp dụng để phân tích dữ liệu. Chỉ số định lượng, thang điểm được áp dụng phân tích nhận thức của người dân về quản lý tài nguyên và những vấn đề liên quan. Mẫu vật sau khi phân tích, được bảo quản trong hóa chất formalin 10%. Các mẫu vật được lưu giữ tại phòng thí nghiệm Viện Sinh học nhiệt đới, Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN Thành phần loài khu hệ cá ở vùng đất ngập nước Búng Bình Thiên Kết quả nghiên cứu từ năm 2008 đến 2011, đã thu thập và xác định được 111 loài cá thuộc 27 họ, 10 bộ. Trong đó, bộ cá Chép (Cypriniformes) có số lượng nhiều nhất, với 44 loài, chiếm 44,39%; kế đến là bộ cá Nheo (Siluriformes) với 29 loài, chiếm 26,23%; bộ cá Vược (Perciformes) với 19 loài, chiếm 19,17%; bộ Mang liền (Synbranchiformes) với 7 loài, chiếm 7,6%; các bộ còn lại có số lượng ít từ 1 đến 3 loài với tỷ lệ 1,1-3,3%. Kết quả khảo sát qua các năm cho thấy, bộ cá Chép (Cypriniformes) vẫn chiếm ưu thế về TẠP CHÍ SINH HỌC, 2012, 34(3SE): 21-29 23 thành phần loài, năm 2008 có 37 loài, năm 2009 có 43 loài và năm 2011 có 44 loài; bộ cá Nheo (Siluriformes) năm 2008 có 23 loài, năm 2009 có 26 loài và năm 2011 có 29 loài. Các bộ còn lại có sự biến động về thành phần loài không đáng kể (hình 2). Hình 2. Biến động về thành phần loài qua các năm khảo sát (2008-2011) Kết quả của các đợt điều tra và giám sát khu hệ cá ở BBT từ năm 2008-2011 cũng cho thấy, khu hệ cá BBT chủ yếu các loài di cư từ sông vào và chiếm số lượng ưu thế và phụ thuộc vào mức độ lũ hàng năm. Số lượng loài cá thu thập được trong một đơn vị diện tích không lớn (khoảng 300 ha vào mùa khô và 800 ha vào mùa lũ) cho thấy, mức độ quan trọng đáng kể của BBT về mặt kinh tế cũng như khoa học. Bảng 2. Thành phần loài cá ở vùng đất ngập nước Búng Bình Thiên, tỉnh An Giang STT Tên khoa học Tên Việt Nam OSTEOGLOSSIFORMES BỘ CÁ THÁT LÁT Notopteridae Họ cá Thát lát 1 Notopterus notopterus (Pallas, 1780) Cá thát lát 2 Chitala ornata (Gray, 1831) Cá còm CLUPEIFORMES BỘ CÁ TRÍCH Clupeidae Họ cá Cơm 3 Corica sobona Hamilton, 1822 Cá cơm sông 4 Clupeoides borneensis Bleeker, 1851 Cá cơm trích Engraulidae Họ cá trỏng 5 Coilia grayii Richardson, 1845 Cá lành canh trắng CYPRINIFORMES BỘ CÁ CHÉP Cyprinidae Họ cá Chép 6 Esomus danricus (Hamilton, 1822) Cá lòng tong bay 7 Leptobarbus hoevennii (Bleeker, 1851) Cá chài 8 Luciosoma setigerum (Valenciennes, 1842) Cá mương nam 9 Luciosoma bleekeri Steindachner, 1879 Cá lòng tong mương 10 Rasbora borapetensis Smith, 1934 Cá đỏ đuôi 11 Rasbora argyrotaenia (Bleeker, 1850) Cá lòng tong đá Thai Ngoc Tri , Hoang Duc Dat, Nguyen Van Sang 24 12 Rasbora sumatrana (Bleeker, 1852) Cá lòng tong vạch 13 Parachela oxygastroides (Bleeker, 1852) Cá lá tre 14 Macrochirichthys macrochirus (Valenciennes, 1844) Cá rựa sông 15 Paralaubuca riveroi (Fowler, 1935) Cá thiểu nam 16 Paralaubuca typus Bleeker, 1865 Cá thiểu mẩu 17 Hampala macrolepidota (Valenciennes, 1842) Cá ngựa nam 18 Hampala dispa Smith, 1934 Cá ngựa chấm 19 Catlocarpio siamensis Boulenger, 1890 Cá hô 20 Cyclocheilichthys apogon (Valenciennes, 1842) Cá cóc đậm 21 Cyclocheilichthys repasson (Bleeker, 1853) Cá ba kỳ 22 Cyclocheilichthys furcatus Sontirat, 1989 Cá cóc 23 Puntius brevis (Bleeker, 1860) Cá dầm 24 Puntius orphoides (Valenciennes, 1842) Cá đỏ mang 25 Barbonymus schwanefeldi (Bleeker, 1853) Cá he vàng 26 Barbonymus altus (Günther, 1868) Cá he đỏ 27 Barbonymus gonionotus (Bleeker, 1850) Cá mè vinh 28 Thynnichthys thynnoides (Bleeker, 1852) Cá linh bản (cám) 29 Cosmochilus harmandi Sauvage, 1878 Cá duồng bay 30 Labiobarbus siamensis (Sauvage, 1881) Cá linh rìa 31 Labiobarbus lineatus (Sauvage, 1878) Cá linh rìa sọc 32 Crossocheilus reticulatus (Fowler, 1934) Cá chuồn nút 33 Labeo chrysophekadion (Bleeker, 1850) Cá ét mọi 34 Henicorhynchus siamensis (Sauvager, 1881) Cá linh ống 35 Cirrhinus molitorella (Valenciennes, 1844) Cá trôi 36 Cirrhinus microlepis Sauvager, 1878 Cá duồng 37 Osteochilus hasselti (Valenciennes, 1842) Cá mè lúi 38 Osteochilus microcephalus (Valenciennes, 1842) Cá lúi sọc 39 Osteochilus melanopleurus (Bleeker, 1852) Cá mè hôi 40 Osteochilus schlegeli (Bleeker, 1851) Cá mè hương 41 Puntioplites falcifer Smith, 1929 Cá dảnh điện biên 42 Puntioplites proctozysron (Bleeker, 1865) Cá dảnh Nam Bộ Cobitidae Họ cá Chạch 43 Botia beauforti H. M. Smith Cá heo chấm 44 Yasuhikotakia horae Smith, 1931 Cá heo rê 45 Yasuhikotakia helodes Sauvage, 1876 Cá heo rừng 46 Yasuhikotakia modesta (Bleeker, 1864) Cá heo vạch 47 Acanthopsis sp 1 Rainboth, 1996 Cá Khoai 48 Acantopsis choirorhynchos (Bleeker, 1854) Cá khoai 49 Acantopsis octoactinotos Siebert, 1991 Cá khoai SILURIFORMES BỘ CÁ NHEO Bagridae Họ cá Lăng 50 Leiocassis siamensis Regan, 1913 Cá chốt bông 51 Mystus atrifasciatus Fowler, 1937 Cá chốt sọc át tri 52 Mystus bocourti Bleeker, 1864 Cá chốt cờ 53 Mystus misticetus Roberts, 1992 Cá chốt sọc mít ti 54 Mystus rhegma Fowler, 1935 Cá chốt vạch 55 Mystus vittatus (Bloch, 1794) Cá chốt sọc TẠP CHÍ SINH HỌC, 2012, 34(3SE): 21-29 25 56 Mystus gulio (Hamilton, 1822) Cá chốt 57 Mystus singaringan Bleeker, 1846 Cá chốt giấy 58 Hemibagrus nemurus (Valenciennes, 1840) Cá lăng nha 59 Hemibagrus filamentus (Fang & Chaux, 1949) Cá lăng điện biện 60 Hemibagrus wyckii (Bleeker, 1858) Cá lăng ki 61 Hemibagrus microphthalmus (Day, 1877) Cá lăng đỏ Siluridae Họ cá Nheo 62 Belodontichthys dinema (Bleeker, 1851) Cá trèn răng 63 Wallago attu (Bloch & Schneider, 1801) Cá leo 64 Ompok bimaculatus (Bloch, 1797) Cá trèn bầu 65 Kryptopterus cheveyi Durand, 1940 Cá trèn lá 66 Kryptopterus moorei Smith, 1945 Cá trèn mỡ 67 Micronema bleekeri Gunther, 1864 Cá kết Pangasiidae Họ cá Tra 68 Pseudolais micronemus (Bleeker, 1847) Cá tra nuôi 69 Pangasius macronema Bleeker, 1851 Cá sát sọc 70 Pangasius polyuranodon Bleeker, 1852 Cá dứa 71 Pangasius larnaudii Bocourt, 1866 Cá vồ đém 72 Pangasianodon gigas Chevey, 1930 Cá tra dầu Sisoridae Họ cá Chiên 73 Bagarius yarrelli (Sykes, 1841) Cá chiên nam Clariidae Họ cá Trê 74 Clarias batrachus (Linnaeus, 1758) Cá trê trắng 75 Clarias macrocephalus Gunther, 1864 Cá trê vàng BELONIFORMES BỘ CÁ NHÁI Belonidae Họ cá Nhái 76 Xenentodon cancila (Hamilton, 1822) Cá nhái Hemiramphidae Họ cá Lim kìm 77 Zenarchopterus ectuntio (Hamilton) Cá lìm kìm sông 78 Hemirhamphus unifasciatus (Ranzani) Cá kìm sông SYNGNATHIFORMES BỘ CÁ NGỰA XƯƠNG Syngnathidae Họ cá Ngựa xương 79 Doryichthys boaja (Bleeker, 1851) Cá ngựa xương bô a SYNBRANCHIFORMES BỘ CÁ MANG LIỀN Synbranchidae Họ cá Lịch đồng 80 Monopterus albus (Zuiew, 1793) Lươn đồng 81 Ophisternon bengalensis Mc Clelland, 1844 Cá lịch đồng Mastacembelidae Họ cá Chạch sông 82 Macrognathus sp. Cá chạch 83 Macrognathus siamensis Gunther, 1861 Cá chạch lá tre 84 Macrognathus taeniagaster (Fowler, 1935) Cá chạch rằng 85 Mastacembelus armatus (Lacépède, 1800) Cá chạch sông 86 Mastacembelus favus Hora, 1923 Cá chạch bông lớn PERCIFORMES BỘ CÁ VƯỢC Ambassidae Họ cá Sơn 87 Parambassis ranga (Hamilton, 1822) Cá sơn gián 88 Parambassis wolffi (Bleeker, 1851) Cá sơn bầu To1otoidae Họ cá Mang rổ Thai Ngoc Tri , Hoang Duc Dat, Nguyen Van Sang 26 89 Toxotes chatareus (Hamilton, 1822) Cá mang rổ Nandidae Họ cá Rô sông 90 Pristolepis fasciata (Bleeker, 1851) Cá rô sông Cichloridae Họ cá Rô phi 91 Oreochromis niloticus niloticus (Linnaeus, 1758) Cá rô phi vằn Eleotridae Họ cá Bống đen 92 Oxyeleotris marmoratus (Bleeker, 1852) Cá bống tượng 93 Oxyeleotris siamensis (Gunther, 1861) Cá bống dừa xiêm Gobiidae Họ cá Bống trắng 94 Glossogobius aureus Akihito & Meguro, 1975 Cá bống cát 95 Glossogobius giuris (Hamilton, 1822) Cá bống cát tối 96 Glossogobius sparsipapillus Akihito & Meguro, 1976 Cá bống cát trắng 97 Brachygobius sua (Smith, 1931) Cá bống ống điếu Anabantidae Họ cá Rô đồng 98 Anabas testudineus (Bloch, 1792) Cá rô đồng Osphronemidae Họ cá Tai tượng 99 Trichogaster microlepis (Günther, 1861) Cá sặc điệp 100 Trichogaster pectoralis Regan, 1910 Cá sặc rằn 101 Trichogaster trichopterus (Pallas, 1770) Cá sặc bướm 102 Trichopsis vittatus (Cuvier, 1831) Cá bãi trầu 103 Betta taeniata Regan, 1910 Cá thia tia Channidae Họ cá Lóc 104 Channa micropeltes (Cuvier, 1831) Cá lóc bông 105 Channa striata (Bloch, 1795) Cá lóc PLEURONECTIFORMES BỘ CÁ BƠN Soleidae Họ cá Bơn sọc 106 Brachirus siamensis (Sauvager, 1876) Cá bơn lá mít 107 Brachirus harmandi (Sauvage, 1878) Cá bơn lưỡi mèo Cynoglossidae Họ cá Bơn cát 108 Paraplagusia bilineata (Bloch, 1787) Cá lưỡi trâu TETRAODONTIFORMES BỘ CÁ NÓC Tetraodontidae Họ cá Nóc 109 Tetraodon cochinchinensis (Steindachner, 1866) Cá nóc Nam bộ 110 Tetraodon cambodgiensis (Chabanaud, 1923) Cá nóc khơ me 111 Tetraodon biocellatus Tirant, 1885 Cá nóc chấm Các loài có giá trị kinh tế và ý nghĩa khoa học Trong tổng số 111 loài cá đã được xác định, có 6 loài có tên trong Sách Đỏ Việt Nam (SĐVN) 2007 [1] ở các mức độ đe dọa khác nhau. Trong số 6 loài cá này, có hai loài được IUCN đề cập với mức độ cực kỳ nguy cấp (bảng 3). Đây là những loài có ý nghĩa về mặt khoa học, cần phải được bảo vệ nhằm bảo tồn đa dạng sinh học không chỉ cho khu vực Búng Bình Thiên mà còn có ý nghĩa cho hệ thống sông Mê Kông. Đa số các loài cá khai thác được trong khu vực Búng Bình Thiên đều được ngư dân sử dụng làm thực phẩm. Tuy nhiên, không phải tất cả chúng đều được xem như là cá kinh tế trong khu vực. Búng Bình Thiên có khoảng 33 loài cá có giá trị kinh tế (chiếm 29,73% tổng số loài). Các loài cá này là nguồn cung cấp thực phẩm cho dân cư sống quanh Búng và các khu vực lân cận. Ngoài ra thì các loài cá kinh tế cũng là nguồn sống chủ yếu của một số hộ dân sống bằng nghề cá trong khu vực. TẠP CHÍ SINH HỌC, 2012, 34(3SE): 21-29 27 Bảng 3. Danh lục các loài cá bị đe dọa ở Búng Bình Thiên STT Tên khoa học Tên Việt Nam SĐVN IUCN OSTEOGLOSSIFORMES BỘ CÁ THÁT LÁT Notopteridae Họ cá thát lát 1 Chitala ornata (Gray, 1831) Cá còm VU CYPRINIFORMES BỘ CÁ CHÉP Cyprinidae Họ cá chép 2 Catlocarpio siamensis Boulenger, 1890 Cá hô EN CR 3 Cirrhinus microlepis Sauvager, 1878 Cá duồng VU 4 Puntioplites falcifer Smith, 1929 Cá dảnh điện biên LC SILURIFORMES BỘ CÁ NHEO Pangasiidae Họ cá tra 5 Pangasianodon gigas Chevey, 1930 Cá tra dầu (*) EN CR Sisoridae Họ cá chiên 6 Bagarius yarrelli (Sykes, 1841) Cá chiên nam VU PERCIFORMES BỘ CÁ VƯỢC Toxotoidae Họ cá mang rổ 7 Toxotes chatareus (Hamilton, 1822) Cá mang rổ VU (*). Không thu được mẫu, phỏng vấn qua ngư dân. Các cấp đánh giá trên theo IUCN (1994): CR. Rất nguy cấp; EN. nguy cấp; VU. sẽ nguy cấp; LC. Ít lo ngại. Một số loài cá là đối tượng khai thác khá quan trọng trong Búng. Tuy sản lượng khai thác của chúng không cao nhưng có giá trị về mặt thương phẩm như: cá trèn lá (Kryptopterus cheveyi), cá chạch bông lớn (Mastacembelus favus), cá chạch sông (Mastacembelus armatus)... Hàng năm chúng cũng đóng góp đáng kể vào việc ổn định đời sống của một số hộ dân trong khu vực Búng. Ngoài ra, loài cá duồng cũng phân bố khá nhiều trong khu vực. Tuy nhiên, loài cá này chỉ xuất hiện trong thời gian mùa mưa lũ. Theo ngư dân, loài cá này cũng có thể được xem là đối tượng có giá trị kinh tế. Ngoài giá trị về mặt thực phẩm, đưa lại hiệu quả kinh tế đáng kể cho đời sống của ngư dân trong khu vực, Búng Bình Thiên còn là nơi sống của nhiều loài cá có ý nghĩa khác, đó là các loài cá có khả năng làm cảnh nhờ những yếu tố về hình dáng, màu sắc hoặc một số tập tính khác. Đây cũng là một thế mạnh cần được phát huy trong tương lai. Ngoài cá thịt, Búng Bính Thiên còn cung cấp cá giống cho nghề nuôi. Giống loài cá lóc (Channa striata), cá bống tượng (Oxyeleotris marmoratus), cá tra (Pseudolais micronemus), vồ đém (Pangasius larnaudii)... những loài cá này được thu gom trong vùng nước tự nhiên của Búng Bình Thiên. Nguồn giống tự nhiên các loài cá này đã cung cấp một số lượng lớn cho nghề nuôi trồng trong khu vực. Nhiều loài cá ăn các ấu trùng và trưởng thành côn trùng có hại cho cây trồng nông nghiệp, lâm nghiệp và sức khỏe cộng đồng: nhiều loài trong bộ cá vược, bộ cá chép, bộ cá nheo. Một số loài cá lại đóng vai trò như nguồn thức ăn chủ yếu của một số loài động vật có xương sống như ếch, nhái, các loài rắn nước, các loài chim nước. Các loài cá di cư và môi trường sống Do BBT nằm ở khu vực thượng nguồn của khu vực đồng bằng sông Cửu Long, vì vậy, khu hệ cá của BBT chủ yếu là các loài có nguồn gốc nước ngọt và một số loài cá rộng sinh thái. Khu hệ cá Búng Bình Thiên gồm hai nhóm: nhóm cá tại chỗ và nhóm cá sông. Nhiều loài trong bộ cá Chép (Cypriniformes), cá Nheo (Siluriformes) phân bố rộng trong mùa lũ, giảm số lượng hoặc di cư hẳn ra sông Hậu trong mùa khô. Chúng thường theo nước lũ di cư từ sông Hậu, từ Campuchia vào Búng. Nhiều loài trong các họ cá Lóc Thai Ngoc Tri , Hoang Duc Dat, Nguyen Van Sang 28 (Channidae), họ cá Sặc (Belotidae), họ cá Rô (Anabantidae), họ cá Trê (Claridae), một số loài trong họ cá Lăng (Bagridae), bộ cá Mang liền (Synbranchiformes) được coi là các loài cá “bản địa”. Mùa lũ chúng phân bố rộng do theo nước lũ đi vào vùng ngập các cánh đồng. Như vậy, vào mùa lũ, thành phần loài của khu hệ cá ở BBT có xu hướng gia tăng tính đa dạng: tăng số lượng loài, tăng số lượng cá thể, mở rộng vùng phân bố (và mở rộng sinh cảnh). Điều này được giải thích: mùa lũ diện tích đất ngập nước tăng lên, thức ăn (thực vật nổi, động vật nổi...) trở nên phong phú hơn, BBT trở thành vùng nước thuận lợi cho sự sinh sản, sự phát triển, sinh trưởng của các loài cá và nhiều loài thủy sinh vật khác. Mùa khô, diện tích đất ngập nước giảm, nguồn nước sông Hậu vào làm giảm hẳn các loài cá ưa nước chảy, chịu phèn kém, chúng rút ra sông Hậu, một số ngược dòng lên Campuchia và xa hơn. Nhóm cá “bản địa” thích nghi sống trong BBT, vùng trũng, phần lớn chúng bị khai thác trong mùa khô. Vì vậy, số lượng loài giảm đi. Mùa lũ có vai trò quan trọng trong sự phát triển, tồn tại của khu hệ cá và các loài thủy sinh vật ở BBT. Đây là điều kiện không thể thiếu trong chu kỳ sống của chúng. Khu hệ cá ở BBT có mối quan hệ mật thiết với khu hệ cá Đồng bằng sông Cửu Long và có thể được xem là một bộ phận của khu hệ cá đồng bằng sông Cửu Long. Nhóm cá tại chỗ: gồm các loài cá sống quanh năm (cá đen) trong khu vực BBT. Các đại diện điển hình của nhóm này như: cá lóc (Channa striata), cá rô đồng (Anabas testudineus), lươn đồng (Monopterus albus), cá sặc bướm (Trichogaster trichopterus), cá sặc điệp (Trichogaster microlepis)... Nhóm cá này thích nghi với nước tĩnh hoặc chảy chậm, có khả năng chịu ngưỡng oxy thấp, pH thấp, nhiệt độ cao trong mùa khô. Trong mùa mưa lũ, các loài cá này di chuyển lên vùng ngập, sinh sản, cá con và cá trưởng thành đều sống trong vùng ngập cho đến cuối mùa lũ rút xuống khu vực BBT. Các vùng ngập lũ là nơi sinh sống của cá trưởng thành và cá con. Nhóm cá sông (cá trắng): các loài cá thường thích nghi nước chảy. Chúng thường phân bố nhiều ở sông, tuy nhiên, các loài cá trong nhóm này cũng có thể sống trong các khu vực có nước đứng hoặc chảy chậm. Trong nhóm này có một số loài có thể sống quanh năm hoặc một thời gian dài trong Búng như: cá cóc (Cyclocheilichthys enoplos), cá rựa sông (Macrochirichthys macrochilus), cá chạch lá tre (Macrognathus siamensis), cá chạch sông (Mastacembelus armatus), cá chạch bông (Mastacembelus favus), cá ngựa nam (Hampala macrolepidota), cá rô sông (Pristolepis fasciata), cá vồ đém (Pangasius larnaudii), cá ét mọi (Labeo chrysophekadion), cá lăng nha (Hemibagrus nemurus)... và một số loài khác là những đối tượng di cư. Các loài cá di cư có thể có mặt trong khu vực BBT theo mùa, cũng có thể sống trong BBT một thời gian dài (thậm chí là cả trong mùa khô). Vào mùa mưa, các loài cá này từ sông di cư vào khu vực Búng để kiếm ăn, một số sinh sản. Nhưng đến mùa khô, chúng lại di chuyển ra sông sinh sống. Các đại diện của nhóm này có thể kể như: cá duồng (Cirrhinus microlepis), cá linh ống (Henicorhynchus siamensis), linh bản (Thynnichthys thynnoides).... KẾT LUẬN Kết quả nghiên cứu từ năm 2008 đến 2011, tại vùng đất ngập nước Búng Bình Thiên đã thu thập và xác định được 111 loài cá thuộc 27 họ, 10 bộ. Trong đó bộ cá Chép (Cypriniformes) có số lượng nhiều nhất với 44 loài, chiếm 44,39%; bộ cá Nheo (Siluriformes) với 29 loài, chiếm 26,23%; bộ cá Vược (Perciformes) với 19 loài, chiếm 19,17%; bộ Mang liền (Synbranchiformes) với 7 loài, chiếm 7,6%; các bộ còn lại có số lượng ít từ 1 đến 3 loài với tỷ lệ 1,1-3,3%. Có 6 loài cá quý hiếm bị đe dọa với các cấp độ khác nhau, những loài cá này rất có ý nghĩa về mặt khoa học, cần được bảo vệ nhằm bảo tồn tính đa dạng không chỉ cho khu vực Búng Bình Thiên mà còn có ý nghĩa trong bảo tồn đa dạng sinh học của hệ thống sông Mê Kông. Lời cảm ơn: Chương trình nghiên cứu này được thực hiện từ nguồn kinh phí tài trợ bởi DANIDA, Đan Mạch. Chúng tôi trân trọng cảm ơn Lãnh đạo Hợp phần SCAFI, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn/BQL dự án thủy sản tỉnh An Giang, UBND các huyện, xã, cộng đồng và bà con ngư dân tại khu vực triển khai dự án, đã giúp đỡ tạo điều kiện thuận lợi cho TẠP CHÍ SINH HỌC, 2012, 34(3SE): 21-29 29 chúng tôi trong suốt thời gian thực hiện nghiên cứu. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Khoa học và Công nghệ, Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, 2007. Sách Đỏ Việt Nam. Phần I: Động vật. Nxb. Khoa học tự nhiên và Công nghệ, Hà Nội. 2. Bộ Thủy sản (Nguyễn Tấn Trịnh trưởng ban biên tập), 1996. Nguồn lợi thuỷ sản Việt Nam. Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội. 3. Hoàng Đức Đạt, Thái Ngọc Trí, 2001. Khu hệ cá và nghề cá ở Đồng Tháp Mười. Tuyển tập công trình nghiên cứu Khoa học Công nghệ Viện Sinh học nhiệt đới. Trang 390- 395. Nxb. Nông Nghiệp, Hà Nội. 4. Eschmeyer W. N. (ed.), 2010. Catalog of Fishes electronic version (12 July 2010). Accessible at 5. Fish base, 2012. List of Freshwater Fishes for Viet Nam, electronic version 2012. hecklist.php?c_code=704&vhabitat=fresh& csub_code=. 6. Gayanllo F. C., Sparre Jr. P., Pauly D., 1996. Stock assessment tools. User’s manual. Food and Agriculture Organization of the United Nations. Rome. 7. Nguyễn Văn Hảo, Ngô Sỹ Vân, 2001. Cá nước ngọt Việt Nam, tập I. Họ cá Chép (Cyprinidae). Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội. 8. Trương Thủ Khoa, Trần Thị Thu Hương, 1993. Định loại cá nước ngọt vùng đồng bằng sông Cửu Long. Khoa Thủy sản - Trường đại học Cần Thơ. 9. Kawamoto M., Nguyen Viet Truong, Tran Thi Tuy Hoa, 1972. Illustration of some freshwater fishes of Mekong delta. Vietnam Contribution of faculty of agriculture. 10. Rainboth W. J., 1996. Fishes of the Cambodian Mekong. Food and Agriculture Organization of the United Nations. Rome. 265pp. 11. Smith H. M., 1945. The freshwater fishes of siam or Thailand. United states national museum. Bulletin 188. 12. Sperre P., Venema S. C., 1998. Introdution to tropical fish stock assessment. Part I: manual. Food and Agriculture Organization of the United Nations. Rome. 13. Mai Đình Yên (chủ biên), Nguyễn Văn Trọng, Nguyễn Văn Thiện, Lê Hoàng Yến, Hứa Bạch Loan, 1992. Định loại các loài cá nước ngọt Nam Bộ. Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội. 14. Wilson E. O., Frances M. Peter, 1988. Biodiversity. National Academy press, Washington, D. C. STUDY ON FISH FAUNA DIVERSITY OF BUNG BINH THIEN WETLAND, AN GIANG PROVINCE Thai Ngoc Tri , Hoang Duc Dat, Nguyen Van Sang Institute of Tropical Biology, VAST SUMMARY Bung Binh Thien belongs to the An Phu district, An Giang province, there were 111 fish species belonging to 27 families in 10 orders. Of the total species collected, there were 44 species of Cypriniformes or 44.39%; the order Siluriformes comprised 29 species or 26.23%; the order Perciformes 19 species or 19.17%; the order Synbranchiformes 7 species or 7.60%; the other orders comprise fewer numbers of species or percentage of total. There are 6 threatened species listed in the Red Book of Vietnam, 2007, and Red list of IUCN. The model fishery co-management at Bung Binh Thien wetland area seemed to respond to climate change and development of fish resources. Keywords: Biodiversity, fishery co-management, fauna, Bung Binh Thien, An Giang province. Ngày nhận bài: 21-6-2012

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf1764_5633_1_pb_1446_2016694.pdf