iêu chảy cấp ở lợn (Porcine Epidemic Diarrhea, PED) là một bệnh truyền nhiễm với tỷ lệ tử vong
cao, đặc biệt ở heo con đang bú mẹ. Trong số các protein cấu trúc của virrus gây bệnh tiêu chảy cấp ở
lợn (Porcine Epidemic Diarrhea Virus, PEDV), protein S gồm 2 tiểu phần S1 và S2 trên bề mặt PEDV,
là một homotrimer protein, đóng vai trò quan trọng trong việc gắn virus vào các thụ thể tế bào. Trong
đó, tiểu phần S1 được xem như là tiểu phần quan trọng trong việc phát triển vaccine hiệu quả chống lại
PEDV. Trong nghiên cứu này, với mục tiêu biểu hiện S1 dưới dạng cấu trúc nguyên bản trimer và
oligomer của trimer dựa vào tương tác S-tag và S-protein, đoạn gen mã hóa protein S1 của PEDV được
gắn với motif GCN4pII, GCN4pII-Stag, sau đó được gắn vector tách dòng pRTRA dưới sự điều khiển
của promoter 35S CaMV, tiếp đến toàn bộ cassete này được chèn vào vector pCB301 và biến nạp vào
chủng Agrobacterium tumefaciens để biểu hiện tạm thời trên cây thuốc lá Nicotiana benthamiana. Sự
biểu hiện của các protein S1 tái tổ hợp trong cây thuốc lá đã được xác định bằng phương pháp Western
blot. Kết quả cho thấy mức độ biểu hiện của các protein S1 trimer và S1 trimer S-tag trong cây thuốc lá
là bằng nhau, điều này cũng chỉ ra rằng việc dung hợp S-tag không làm ảnh hưởng đến mức độ biểu
hiện của protein, tuy nhiên mức độ biểu hiện của các protein S1 là tương đối thấp, đạt 0,005% protein
tan tổng số. Thêm vào đó, sự biểu hiện đồng thời của hai protein S1 trimer S-tag và Sprotein-tp trong lá
thuốc lá N. benthamiana khi biến nạp đồng thời hai chủng A. tumefaciens mang vector tương ứng cũng
đã được xác định bằng Western blot. Đây là nghiên cứu tiền đề cho việc phát triển vaccine tiểu đơn vị ở
thực vật phòng chống sự lây nhiễm của PEDV.
11 trang |
Chia sẻ: Tiểu Khải Minh | Ngày: 16/02/2024 | Lượt xem: 184 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu sự biểu hiện của kháng nguyên S1 tái tổ hợp của virus gây bệnh tiêu chảy cấp ở lợn (Porcine Epidemic Diarrhea virus) trong cây thuốc lá Nicotiana Benthamiana, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Công nghệ Sinh học 19(1): 95-105, 2021
95
NGHIÊN CỨU SỰ BIỂU HIỆN CỦA KHÁNG NGUYÊN S1 TÁI TỔ HỢP CỦA
VIRUS GÂY BỆNH TIÊU CHẢY CẤP Ở LỢN (PORCINE EPIDEMIC DIARRHEA
VIRUS) TRONG CÂY THUỐC LÁ NICOTIANA BENTHAMIANA
Hồ Thị Thương1, Lê Thu Ngọc1, Nguyễn Thu Giang1, Trịnh Thái Vy1, Phan Trọng Hoàng2,
Phạm Bích Ngọc1, Vũ Huyền Trang1, Hoàng Thị Thu Hằng1, Chu Hoàng Hà1,
1Viện Công nghệ sinh học, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
2Viện Di truyền thực vật và Nghiên cứu cây trồng, Cộng hoà Liên bang Đức
Người chịu trách nhiệm liên lạc. E-mail: chuhoangha@ibt.ac.vn
Ngày nhận bài: 07.11.2019
Ngày nhận đăng: 17.01.2020
TÓM TẮT
Tiêu chảy cấp ở lợn (Porcine Epidemic Diarrhea, PED) là một bệnh truyền nhiễm với tỷ lệ tử vong
cao, đặc biệt ở heo con đang bú mẹ. Trong số các protein cấu trúc của virrus gây bệnh tiêu chảy cấp ở
lợn (Porcine Epidemic Diarrhea Virus, PEDV), protein S gồm 2 tiểu phần S1 và S2 trên bề mặt PEDV,
là một homotrimer protein, đóng vai trò quan trọng trong việc gắn virus vào các thụ thể tế bào. Trong
đó, tiểu phần S1 được xem như là tiểu phần quan trọng trong việc phát triển vaccine hiệu quả chống lại
PEDV. Trong nghiên cứu này, với mục tiêu biểu hiện S1 dưới dạng cấu trúc nguyên bản trimer và
oligomer của trimer dựa vào tương tác S-tag và S-protein, đoạn gen mã hóa protein S1 của PEDV được
gắn với motif GCN4pII, GCN4pII-Stag, sau đó được gắn vector tách dòng pRTRA dưới sự điều khiển
của promoter 35S CaMV, tiếp đến toàn bộ cassete này được chèn vào vector pCB301 và biến nạp vào
chủng Agrobacterium tumefaciens để biểu hiện tạm thời trên cây thuốc lá Nicotiana benthamiana. Sự
biểu hiện của các protein S1 tái tổ hợp trong cây thuốc lá đã được xác định bằng phương pháp Western
blot. Kết quả cho thấy mức độ biểu hiện của các protein S1 trimer và S1 trimer S-tag trong cây thuốc lá
là bằng nhau, điều này cũng chỉ ra rằng việc dung hợp S-tag không làm ảnh hưởng đến mức độ biểu
hiện của protein, tuy nhiên mức độ biểu hiện của các protein S1 là tương đối thấp, đạt 0,005% protein
tan tổng số. Thêm vào đó, sự biểu hiện đồng thời của hai protein S1 trimer S-tag và Sprotein-tp trong lá
thuốc lá N. benthamiana khi biến nạp đồng thời hai chủng A. tumefaciens mang vector tương ứng cũng
đã được xác định bằng Western blot. Đây là nghiên cứu tiền đề cho việc phát triển vaccine tiểu đơn vị ở
thực vật phòng chống sự lây nhiễm của PEDV.
Từ khóa: Agrobacterium tumefaciens, biểu hiện tạm thời, PEDV, protein S1 tái tổ hợp, vaccine thực vật
MỞ ĐẦU
Tiêu chảy cấp ở lợn (Porcine Epidemic
Diarrhea, PED) là một bệnh truyền nhiễm với tỷ
lệ tử vong cao, đặc biệt ở heo con đang bú mẹ
(Jung et al., 2015). Khi lợn khi bị lây nhiễm với
PEDV qua đường miệng, PEDV sẽ di chuyển
đến ruột non và nhân lên nhanh chóng tại lông
nhung ruột non, phá hủy hệ thống lông nhung
ruột, làm teo và ngắn lông nhung ruột non. Điều
này làm giảm hoạt động của các enzyme bề mặt
ruột non, làm giảm sự hấp thu dinh dưỡng, dẫn
đến lợn bị tiêu chảy, còi cọc, nôn mửa, mất
nước, cuối cùng lợn bị chết. PED và virus gây
bệnh tiêu chảy cấp PEDV được phát hiện ở lợn
châu Âu vào những năm 1970 (Oldham et al.,
1972), sau đó bùng phát lẻ tẻ ở nhiều nước nuôi
lợn ở châu Á, bao gồm Hàn Quốc, Trung Quốc,
Thái Lan và Philippines. PEDV được phát hiện
ở Việt Nam từ năm 2009 (Kim et al., 2015).
Hồ Thị Thương et al.
96
Năm 2010, các chủng PEDV mới và có độc lực
cao đã được xác định ở Trung Quốc, đã tấn
công vào các trang trại nuôi lợn với tỷ lệ mắc
bệnh ở lợn từ 80 đến 100% (Tian et al., 2013).
Sau đó dịch bệnh lây lan sang một số quốc gia
khác dẫn đến thiệt hại kinh tế nghiêm trọng cho
ngành chăn nuôi lợn (Chiou et al., 2015).
PEDV thuộc chi Alphacoronavirus, họ
Coronaviridae, là một loại virus có vỏ bọc chứa
bộ gen RNA dương, đơn chuỗi dài 28 kb. Bộ
gen PEDV bao gồm năm khung đọc mở (ORF)
mã hóa cho ba protein phi cấu trúc (ORF1a, 1b,
và ORF3) và bốn protein cấu trúc (spike [S],
protein vỏ, màng và nucleocapsid) (Song et al.,
2012). Trong số các protein cấu trúc của PEDV,
protein S trên bề mặt PEDV đóng vai trò quan
trọng trong việc gắn virus vào các thụ thể tế bào
(Chang et al., 2002). Ngoài ra, protein S là mục
tiêu để trung hòa cảm ứng kháng thể vì nó chứa
các epitope trung hòa virus và là yếu tố quyết
định kháng nguyên (Song et al., 2012). Protein
S được lắp ráp tự nhiên tạo thành cấu trúc
trimer với một số vị trí glycosyl hóa được dự
đoán (Walls et al., 2016). Protein S hình thành
dạng trimer và đóng vai trò quan trọng trong
việc tương tác với các phân tử thụ thể của tế bào
chủ (Cruz et al., 2008). Sự phân cắt của protein
S thành S1 và S2 là quan trọng đối với sự xâm
nhập của PEDV chủng dại vào trong tế bào
nhưng không phải với chủng PEDV đã thích
ứng trong nuôi cấy tế bào. Đột biến đa điểm của
protein S tạo thành 2 nhóm PEDV khác nhau,
G1 và G2 (chủng dại và chủng bị đột biến)
(Chen et al., 2013) và những nghiên cứu gần
đây cho thấy rằng đã có những biến đổi kháng
nguyên xuất hiện giữa G1 và G2 (Wang et al.,
2016).
Tiểu phần S1 có chứa amino acid từ 21–793
bao gồm: NTD (từ acid amin 21 đến 324) và
CTD (từ acid amin 253 đến 638) (Leeet al.,
2015) được liên kết với porcine aminopeptidase
N (pAPN). pAPN có vai trò quan trọng trong
việc dung hợp màng và xâm nhập của virus, nó
cũng là kháng nguyên mục tiêu cho việc sản
sinh kháng thể trung hòa (Deng et al., 2016).
Do vậy, sự biến đổi của S1 đã được sử dụng
rộng rãi cho nghiên cứu về tiến hóa và đa dạng
di truyền của PEDV (Suzuki et al., 2015). Tiểu
phần S1 được xem như là tiểu phần quan trọng
trong việc phát triển vaccine hiệu quả chống lại
PEDV (Makadiya et al., 2016).
Việc phát triển vaccine nhanh chóng, an
toàn và hiệu quả để bảo vệ lợn chống lại PEDV
là điều hết sức cần thiết. Một số vaccine PEDV
sống nhược độc, dựa trên các chủng PEDV dại,
như CV777 (Sun et al., 2016), DR13 (Park et
al., 2011) và 83P-5 (Sato et al., 2011) đã được
phát triển ở châu Á trong nhiều năm. Tại Hoa
Kỳ, hai loại vaccine được cấp phép có điều kiện
bao gồm vaccine dựa trên vector alphavirus
(vaccine Harris) và vaccine PEDV vô hoạt
(Zoetis) có sẵn trên thị trường. Tuy nhiên, một
số nghiên cứu cho thấy, chúng không hiệu quả
trong việc phòng chống PEDV (Langel et al.,
2016). Cho đến nay, không có loại vaccine
thương mại nào có hiệu quả để kiểm soát PED
trên toàn thế giới. Vaccine tiểu đơn vị từ thực
vật đã được báo cáo có ưu điểm chung là chi phí
sản xuất thấp, dễ mở rộng quy mô, chi phí cơ sở
hạ tầng thấp, tính ổn định cao (Topp et al.,
2016). Phương pháp biểu hiện tạm thời ở N.
benthamiana đã được chứng minh là một
phương pháp rất nhanh và hiệu quả để tạo ra
protein tái tổ hợp trong thực vật (Chen et al.,
2013). Như vậy, hướng nghiên cứu sản xuất
protein S1 tái tổ hợp ở thực vật nhờ công nghệ
biểu hiện tạm thời là có triển vọng.
Để nâng cao hiệu quả của vaccine tái tổ hợp
được sản xuất ở thực vật trong việc kích thích
khả năng gây đáp ứng miễn dịch chống lại sự
xâm nhiễm của PEDV, việc biểu hiện protein
S1 dưới dạng cấu trúc nguyên bản trimer là
hướng nghiên cứu được quan tâm. Trong nghiên
cứu này, chúng tôi nghiên cứu để thiết kế và
biểu hiện được protein S1 dưới dạng cấu trúc tự
nhiên (trimer) thông qua việc dung hợp motif
GCN4pII. Ngoài ra, với mục tiêu tăng khả năng
đáp ứng miễn dịch hơn nữa, chúng tôi đã đồng
thời nghiên cứu thiết kế và biểu hiện S1 dạng
oligomer của trimer dựa vào tương tác S-tag và
S-protein. Đây là hai sản phẩm được tạo ra từ sự
phân cắt giới hạn của RNase A với subtilisin. S-
tag có chứa acid amin từ 1-20, trong khi đó
protein S có chứa acid amin từ 21-124. Hai
Tạp chí Công nghệ Sinh học 19(1): 95-105, 2021
97
đoạn này hình thành phức hợp ổn định gọi là
RNase S, với khả năng bảo toàn hoạt tính
ribonuclease. Phan Trọng Hoàng và đồng tác
giả (2017) đã chứng minh rằng việc đồng biểu
hiện kháng nguyên H5 trimer dung hợp S tag
với kháng nguyên S protein-tp tạo ra H5
oligomer có khối lượng phân tử lớn hơn và có
khả năng gây đáp ứng miễn dịch tốt hơn khi gây
đáp ứng miễn dịch trên chuột. Cho đến nay,
chưa có nghiên cứu nào về sự biểu hiện của
protein S1 trimer và oligomer ở thực vật. Như
vậy, xuất phát từ những cơ sở khoa học và thực
tiễn trên, việc nghiên cứu thiết kế và biểu hiện
protein S1 trimer và S1 oligomer dựa vào tương
tác S-tag và S-protein-tp ở thực vật là có triển
vọng. Trong nghiên cứu này, chúng tôi trình bày
kết quả nghiên cứu sự biểu hiện tạm thời của
protein S1 tái tổ hợp trong cây thuốc lá N.
benthamiana bằng công nghệ biểu hiện tạm
thời.
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
Vật liệu
Vật liệu thực vật
Cây thuốc lá N. benthamiana 4-5 tuần tuổi
được trồng thủy canh trong nhà kính ở 22oC,
chiếu sáng 16 giờ sáng/8 giờ tối, độ ẩm 55% tại
Phòng Công nghệ tế bào thực vật, Viện Công
nghệ sinh học
Vector, chủng vi khuẩn và kháng thể
Vector pRTRA-35S-SP-H5-GCN4pII-His-
cmyc-KDEL, pRTRA-35S-SP-H5-GCN4pII-
Stag-His-cmyc-KDEL và pCB301-35S-SP-
Sprotein-tp-His-cmyc-KDEL do Phan Trọng
Hoàng và đtg (2013, 2017) cung cấp. Vector
pCB301-Kan được cung cấp bởi Xiang và đtg
(1999).
Chủng vi khuẩn Escherichia coli DH5α
được sử dụng như tế bào chủ cho bước nhân
dòng gen; Chủng Agrobacterium tumefaciens
C58C1 PGV2260 do Phòng Công nghệ tế bào
thực vật, Viện Công nghệ sinh học cung cấp.
Kháng thể kháng cmyc được cung cấp bởi
Viện Di truyền thực vật và Nghiên cứu cây
trồng, CHLB Đức. Kháng thể anti-mouse IgG
cộng hợp HRP (Invitrogen).
Cặp mồi sử dụng
Cặp mồi 35S-SQF (5’- CACTGACGTAAG
GGATGACGC-3’) và 35S-Term (5’-
CTGGGAACTACTCACACA-3’) được sử
dụng để khuyếch đại và giải trình tự gen S1.
Mồi được tổng hợp bởi Công ty LTD Sinh hóa
Phù Sa, Việt Nam.
Phương pháp
Thiết kế vector tách dòng gen mã hóa protein
S1 của PEDV
Đoạn DNA mã hóa protein S1 (1-2316
nucleotie) của chủng PEDV đang gây bệnh ở
Việt Nam (có mã số truy cập GenBank:
KT941120) được gắn hai đầu với trình tự của
enzyme BamHI ở đầu N và PspOMI (Bsp120I)
ở đầu C, tối ưu mã biểu hiện trong thuốc lá và
tổng hợp nhân tạo bởi Công ty POCH (Life
Science Missouri City, Texas 77489), sau đó
được gắn vào vector tách dòng. Để thu đoạn
DNA mã hóa protein S1, vector tách dòng được
nhân dòng trong E. coli DH5α, sau đó plasmid
được tách chiết và xử lý với enzyme cắt giới
hạn BamHI và Bsp120I theo hướng dẫn của nhà
sản xuất (Thermo Fisher Scientific). Đồng thời
vector tách dòng pRTRA-35S-SP-H5-GCN4pII-
His-cmyc-KDEL và pRTRA-35S-SP-H5-
GCN4pII-Stag-His-cmyc-KDEL cũng được xử
lý bằng BamHI và Bsp120I, để loại bỏ gen mã
hóa protein H5. Đoạn DNA mã hóa protein S1
sau đó được gắn vào 2 vector pRTRA trên bằng
enzyme T4 ligasse theo hướng dẫn của nhà sản
xuất (Thermo Fisher Scientific). Plasmid tái tổ
hợp được biến nạp vào tế bào E. coli DH5α và
chọn lọc khuẩn lạc trên môi trường thạch LB bổ
sung kháng sinh chọn lọc carbenicilin 50 mg/L.
Để chọn những dòng E. coli mang plasmid
tái tổ hợp pRTRA-35S-SP-S1-GCN4pII-His-
cmyc-KDEL (viết tắt là pRTRA-S1-pII) và
pRTRA-35S-SP-S1-GCN4pII-Stag-His-cmyc-
KDEL (viết tắt là pRTRA-S1-pII-Stag) , chúng
tôi tiến hành phản ứng PCR khuẩn lạc sử dụng
cặp mồi 35S-SQF/35S-Term. Thành phẩn của
phản ứng PCR khuẩn lạc bao gồm: 25 µL hỗn
Hồ Thị Thương et al.
98
hợp bao gồm 0,15 µM primer; 0,1 µM dNTP;
1,25U Pwo SuperYield DNA polymerase, 2,5
µL đệm 10X Pwo SuperYield PC và 20 ng
khuôn. Quá trình nhân đoạn gồm các bước sau:
94oC/3 min; 32 chu kỳ lặp lại các bước 94oC/30
s, 55oC/50 s, 72oC/1 min; 72oC/10 min, sản
phẩm được giữ ở 4oC và điện di kiểm tra trên
gel agarose 0,8%. Tiếp đến, plasmid tái tổ hợp
được xác nhận bằng phản ứng cắt với enzyme
giới hạn BamHI và Bsp120I. Cuối cùng plasmid
pRTRA mang gen mã hóa protein S1 được giải
trìnhtự động theo phương pháp của Sanger và
đtg (Sanger et al., 1977) sử dụng cặp mồi 35S-
SQF và 35S-Term. Các trình tự nucleotide được
phân tích bằng BioEdit 7.0 và Lasergen 7
(DNAstarinc., Madison, WI, USA).
Thiết kế vector biểu hiện thực vật mang gen
mã hóa protein S1 của PEDV
Các vector pRTRA có chứa đoạn gen mã
hóa của kháng nguyên S1 và pCB301 được
phân cắt bằng HindIII và loại bỏ gốc phosphate
với SAP. Sản phẩm ghép nối DNA vào vector
pCB301 được biến nạp vào tế bào E. coli DH5α
và chọn lọc khuẩn lạc trên môi trường thạch LB
có bổ sung kanamycin 50 mg/L. Các plasmid tái
tổ hợp pCB301-35S-SP-S1-GCN4pII-His-
cmyc-KDEL và vector pCB301-35S-SP-S1-
GCN4pII-Stag-His-cmyc-KDEL sau khi được
chọn dòng bằng PCR khuẩn lạc với cặp mồi
35SQF và 35S-Term được cắt bằng enzyme giới
hạn NcoI sẽ được biến nạp vào vi khuẩn
A.tumefaciens C58C1/pGV2260 bằng phương
pháp xung điện để phục vụ cho thí nghiệm biểu
hiện tạm thời.
Biểu hiện tạm thời protein tái tổ hợp trong lá
thuốc lá N. benthamiana
Hai khuẩn lạc của chủng A. tumefaciens
mang vector chứa gen mã hóa cho protein Hc-
pro và hai khuẩn lạc của hai chủng A.
tumefaciens mang từng vector pCB301 tái tổ
hợp được cho vào mỗi ống falcon riêng biệt có
chứa 5 mL LB có bổ sung kháng sinh chọn lọc
carbenicilin 50 mg/L, kanamycin 50 mg/L,
rifamycin 50 mg/L. Khuẩn được nuôi lắc 120
rpm/min, 14-16 h ở 28oC. Tiếp tục chuyển toàn
bộ dịch khuẩn nuôi cấy trên vào bình chứa 50
mL LB và tiếp tục nuôi khoảng 14-16 h. Khuẩn
được thu nhận bằng cách ly tâm 5000 rpm/min
trong 10 min ở 4oC. Cặn khuẩn A. tumefaciens
chứa cấu trúc mang gen mã protein S1-
GCN4pII, protein S1-GCN4pII-Stag hoặc cặn
khuẩn chứa cấu trúc mang gen mã protein S1-
GCN4pII-Stag và S protein-tp (cho việc đồng
biểu hiện S1 oligomer) được trộn với cặn
khuẩn mang cấu trúc mang gen mã hóa HcPro,
sau đó được hòa tan trong đệm MES (10 mM
MgCl2, 10 mM MES, pH 5,6) tới khi OD600 đạt
giá trị 1. Dịch huyền phù vi khuẩn được dùng
cho biến nạp vào các lá non trên cây N.
benthamiana bằng hút chân không trong thời
gian 1 min 30 s, 27 inches, 0 atm. Các cây thuốc
lá sau khi biến nạp được đưa trở lại vào nhà lưới
để tiếp tục phát triển. Sau 6 ngày biến nạp, toàn
bộ lá được thu và bảo quản ở -80oC.
Đánh giá sự biểu hiện tạm thời của protein S1
tái tổ hợp trong cây thuốc lá N. benthamiana
bằng Western blot
Mẫu lá thuốc lá được cho vào ống 2 mL đã
được bổ sung 2 viên bi trước đó, sau đó được
làm lạnh trong Nitơ lỏng. Mẫu lá được nghiền
bằng máy Mixer Mill MM 300 (Retsch, Haan,
Germany), sau đó protein tổng số được chiết
trong đệm mẫu SDS (50 mM Tris-HCl, pH 6,8,
2% SDS, 0,1% (w/v), Bromophenolblue, 10%
(v/v) Glycerol), biến tính mẫu ở 95oC, 10 min
và ly tâm 19.000 rpm, 30 min, 4oC. Mười đến
ba mươi µg protein sau khi được phân tách bằng
điện di SDS-PAGE (10% polyacrylamide), sau
đó chuyển lên màng nitrocellulose bằng máy
chuyển màng Fast blotter (Thermo Fisher
scientific) ở 25V, 1,3A trong 20 min. Sau khi
được blocking bằng sữa tách béo 5% pha trong
PBS qua đêm, màng được ủ với kháng thể
kháng cmyc trong 2 h. Tiếp đến màng được rửa
ba lần với sữa 0,5% pha trong PBS, mỗi lần
cách nhau 5 min. Sau đó màng được ủ với
kháng thể anti-mouse IgG cộng hợp HRP trong
1 h. Sau đó, màng tiếp tục được rửa ba lần với
sữa 0,5% pha trong PBS, mỗi lần cách nhau 5
min, và lần cuối với PBS. Sự có mặt của S1 gắn
cmyc trong mẫu được phát hiện nhờ phản ứng
hiện màu bằng cơ chất DAB dưới sự có mặt của
0,04% H2O2. Mức độ biểu hiện của các protein
Tạp chí Công nghệ Sinh học 19(1): 95-105, 2021
99
được bán định lượng dựa vào độ sáng của băng
sau khi định lượng bằng phần mềm ImageJ và
đường chuẩn được xây dựng dựa trên nồng độ
protein chuẩn TNF-ELP (100 ng, 200 ng, 400
ng, 800 ng).
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Thiết kế vector tách dòng gen mã hóa protein
S1 của PEDV
Thông tin về trình tự gen mã hóa protein S1
của các chủng PEDV đã gây bệnh ở Việt Nam
được thu thập từ Ngân hàng gen quốc tế NCBI
và dựa trên các công bố của Kim và đồng tác
giả (2015). Theo Kim và đtg (2015), khi phân
tích đa dạng di truyền của các trình tự
nucleotide mã hóa protein S của các chủng
PEDV từ Việt Nam cho thấy có 2 nhóm khác
nhau. Chủng PEDV (HUA-PED45 và HUA-
PED47) thuộc nhóm G2b, cùng nhóm với các
chủng của Trung Quốc, Mỹ và Hàn Quốc đã
bùng nổ vào các năm 2010, 05/2013 và
11/2013. Trong khi đó, 6 chủng thu thập ở
Quảng Trị lại thuộc nhóm G1b, cùng nhóm với
các chủng ở Trung Quốc và Mỹ. Như vậy, các
chủng PEDV của Việt Nam được xác định trên
lợn có genotype thuộc cả 2 nhóm G2b và G1b.
Sau khi tìm kiếm và khai thác thông tin trên
Ngân hàng gen quốc tế NCBI, chúng tôi đã lựa
chọn được trình tự nucleotide của gen mã hóa
cho kháng nguyên S1 của chủng PEDV (với mã
số GenBank: KT941120) bao gồm 2316
nucleotide mã hóa cho 772 acid amin. Khi biểu
hiện trong tế bào thực vật, với mục đích giữ lại
protein kháng nguyên S1 ở lưới nội chất, chúng
tôi đã loại bỏ chuỗi peptide tín hiệu gồm 18 acid
amin dẫn đầu. Đồng thời, trong quá trình thiết
kế vector chuyển gen sau này, chúng tôi sẽ sử
dụng đoạn trình tự gồm 75 nucleotide mã hóa
cho LeB4 ER-signal peptide là đoạn peptide tín
hiệu của gen LeB4 (mã hóa cho protein legumin
type B ở cây đậu ngựa Vicia faba) để nối ghép
với đoạn gen S1.
Để cải biến mã theo hướng phù hợp với bộ
máy sản xuất protein của thực vật, các codon
hiếm và các trình tự gây bất ổn cho quá trình
phiên mã như ATTTA đã được loại bỏ. Mặc
khác, để thuận tiện cho việc cắt và nối ghép gen
trong quá trình thiết kế vector chuyển gen vào
thực vật, hai vị trí nhận biết của BamHI và
Bsp120I được thêm vào đầu 5’ và 3’ của gen S1.
Việc đổi mã được chúng tôi thực hiện dựa trên
cơ sở các bộ mã thay đổi sao cho phù hợp với
hệ thống biểu hiện ở thực vật nhưng không làm
thay đổi trình tự của acid amin. Trình tự
nucleotide và trình tự acid amin suy diễn của
các đoạn gen trước và sau khi đổi mã được kiểm
tra và so sánh bằng phần mềm BioEdit. Kết quả
cho thấy, các vị trí sai khác không làm ảnh
hưởng đến quá trình dịch mã, trình tự axit amin
suy diễn từ các gen vẫn đạt độ tương đồng là
100%. Trình tự gen S1 đã đổi mã và thiết kế
thêm các điểm cắt của BamHI và Bsp120I được
đặt tổng hợp nhân tạo và nhân dòng trong
vector thương mại pEZ-Amp-S1.
Kết quả điện di sản phẩm cắt vector pEZ-
Amp-S1 với BamHI và Bsp120I để thu nhận
đoạn gen mã hóa protein S1 và sản phẩm cắt
plasmid pRTRA tái tổ hợp với BamHI và
Bsp120I được thể hiện ở hình 1A. Kết quả thu
được các băng đoạn đúng như kích thước lý
thuyết của gen mã hóa S1 (khoảng 2,3 kb),
khung vector pRTRA chứa cassette biểu hiện
(khoảng 3,7 kb). Kết quả kiểm tra các dòng
khuẩn lạc mang plasmid pRTRA tái tổ hợp bằng
PCR khuẩn lạc được thể hiện ở hình 1B. Kết
quả thu được các băng đúng kích thước lý
thuyết. Trong phản ứng PCR khuẩn lạc, khi sử
dụng cặp mồi 35-SQR/35-Term sẽ nhân được
đoạn có kích thước 2788 bp. Trong khi đó, để
chọn đúng plasmid tái tổ hợp, khi xử lý với
BamHI và Bsp120I, kết quả cho các băng có
kích thước tương ứng là khoảng 2,3 kb (kích
thước của gen S1) và 3,7 kb (kích thước của
khung vector pRTRA). Dòng khuẩn lạc số 3 và
số 4 cho các băng thu được đúng so với tính
toán: khoảng 2,7 kb (tương ứng với kích thước
của gen S1 + promoter 35S) trong phản ứng
PCR khuẩn lạc (hình 1B) và 2 băng khoảng 2,3
kb (tương ứng với kích thước của gen S1) và
3,7 kb (tương ứng với kích thước của khung
vector pRTRA) sau khi xử lý bằng BamHI và
Bsp120I (hình 1C). Kết quả, chúng tôi đã thu
Hồ Thị Thương et al.
100
được dòng plasmid tái tổ hợp mang vector
pRTRA-S1-pII và vector pRTRA-S1-pII-Stag.
Sơ đồ cassette biểu hiện của hai cấu trúc trên
được trình bày ở Hình 2.
Hình 1. Kết quả thiết kế vector tách dòng mang gen mã hóa S1 tái tổ hợp của PEDV. A. Kết quả xử lý vector
thương mại pEZ-Amp-S1 và vector pRTRA-35S-SP-H5-GCN4pII-His-cmyc-KDEL bằng enzyme BamHI và
Bsp120I. B. Kết quả PCR khuẩn lạc chọn lọc các dòng khuẩn lạc mang gen mã hóa S1 tái tổ hợp bằng cặp
mồi 35SSQF /35Term; 1-5: dòng khuẩn lạc mang cấu trúc pRTRAS1-pII; 6-10: dòng khuẩn lạc mang cấu trúc
pRTRA S1-pII-Stag. (+): Đối chứng dương; plasmid pRTRA-35S-SP-COE-GCN4pII-Stag-His-cmyc-KDEL.
Marker: GeneRuler 1 kb DNA Ladder (Thermo Fisher Scientific) C. Kết quả điện di sản phẩm sau khi xử lý với
enzyme BamHI và Bsp120I chọn lọc các dòng khuẩn pRTRA tái tổ hợp mang gen mã hóa S1. 1,3: dòng
plasmid mang cấu trúc pRTRAS1-pII; 2,4: dòng plasmid mang cấu trúc pRTRA -S1pII-Stag.
Hình 2. Sơ đồ cassette biểu hiện mang gen mã hóa protein S1 tái tổ hợp.
Thiết kế vector biểu hiện mang cấu trúc
pCB301-S1-pII và pCB301-S1-pII-Stag và
tạo chủng A. tumefaciens mang vector tái tổ
hợp tương ứng
Kết quả điện di sản phẩm sau khi xử lý
vector pRTRA tái tổ hợp với HindIII để thu
cassette biểu hiện chứa đoạn gen mã hóa S1-
GCN4pII và S1-GCN4pII-Stag thu được các
băng vạch đúng theo kích thước tính toán lý
thuyết của cassette biểu hiện (khoảng 3,1 kb),
được thể hiện ở Hình 3A. Kết quả kiểm tra
plasmid pCB301 tái tổ hợp mong muốn bằng
phản ứng PCR khuẩn lạc và cắt bằng NcoI được
thể hiện ở Hình 3B, 3C. Dòng khuẩn lạc số 1 và
số 2 cho các băng vạch thu được đều đúng so
với tính toán lý thuyết (4,1 kb và 4,6 kb) với
đúng chiều quan tâm. Kết quả trên cho thấy
Tạp chí Công nghệ Sinh học 19(1): 95-105, 2021
101
chúng tôi đã thiết kế thành công 2 vector
chuyển gen pCB301-S1-pII và pCB301-S1-pII-
Stag.
Để biểu hiện các protein tái tổ hợp ở thực
vật, các plasmid tái tổ hợp đã được biến nạp
vào tế bào A. tumefaciens C58C1. Kết quả điện
di sản phẩm PCR khuẩn lạc thu được các băng
vạch theo đúng kích thước lý thuyết (khoảng 2,7
kb), kết quả thể hiện qua Hình 3D. Kết quả PCR
khuẩn lạc cho thấy chúng tôi đã tạo được dòng
A. tumefaciens mang vector tái tổ hợp tương
ứng.
Hình 3. Kết quả thiết kế vector biểu hiện mang gen mã hóa protein S1 tái tổ hợp. A. Kết quả xử lý vector
pRTRA-S1-pII và pRTRA-S1-pII-Stag bằng enzyme HindIII. 1.Xử lý vector pRTRA-S1-pII; 2. Xử lý vector
pRTRA-S1-pII-Stag; B. Kết quả PCR khuẩn lạc chọn lọc các dòng khuẩn lạc mang gen mã hóa S1; 1-5: Dòng
khuẩn lạc chứa vector pCB301S1-pII. 6-10: Dòng khuẩn lạc mang vector pCB301 -S1-pII-Stag. C. Kết quả
điện di sản phẩm sau khi xử lý với enzyme NcoI chọn lọc các dòng khuẩn pCB301 tái tổ hợp mang gen mã
hóa S1. 1: các dòng ngược chiều chứa vector pCB301 -S1-pII; 2: dòng ngược chiều chứa vector pCB301 -S1-
pII-Stag; 3: dòng xuôi chiều; D. Kết quả chọn dòng vi khuẩn A. tumefaciens mang vector tái tổ hợp bằng PCR
khuẩn lạc; 1-4: Dòng khuẩn lạc chứa vector pCB301 -S1-pII. 6-10: Dòng khuẩn lạc mang vector pCB301S1-
pII-Stag, (+) đối chứng dương: plasmid pCB301 tái tổ hợp mang gen S1 được sử dụng làm khuôn. Marker:
GeneRuler 1 kb DNA Ladder (Thermo Fisher Scientific)
Đánh giá sự biểu hiện tạm thời của các
protein S1 tái tổ hợp ở thực vật
Sự biểu hiện tạm thời của các protein S1 tái
tổ hợp được đánh giá bằng phản ứng Western
blot sử dụng kháng thể kháng c-myc. Kết quả
kiểm tra sự biểu hiện của các protein S1 được
thể hiện ở Hình 4. Kết quả cho thấy, các protein
S1-GCN4pII và S1-GCN4pII-Stag đã được biểu
hiện trong thuốc lá, tuy nhiên, theo tính toán lý
thuyết, kích thước protein S1 tái tổ hợp là 86,9
kDa, kích thước thực tế thu được là khoảng 150
KDa. Điều này có thể được giải thích là do trên
protein S1 có các vị trí N-glycosylation
(Makadiya et al., 2016), điều này làm ảnh
hưởng đến sự di chuyển của protein trong quá
trình điện di. Mức độ biểu hiện của các protein
S1 tái tổ hợp trong thực vật được tính toán dựa
vào độ đậm, nhạt của các băng vạch khi phân
tích bằng phần mềm ImageJ sử dụng đối chứng
dương TNF-ELP (Conrad et al., 2011) (100 ng,
200 ng, 400 ng, 800 ng) để xây dựng đường
chuẩn. Mức độ biểu hiện của các protein S1
trimer và S1 trimer S-tag sau khi được tính toán
là 0,005% protein tan tổng số. Như vậy, việc
dung hợp S-tag không làm ảnh hưởng đến mức
độ biểu hiện của protein. Trong khi đó, sự biểu
hiện của S protein-tp lại cao hơn. Mức độ biểu
hiện của S-protein được tính toán là khoảng
0,25% protein tan tổng số.
Khi đồng biến nạp chủng A. tumefaciens
mang cấu trúc pCB301-35S-SP-S1-GCN4pII-
His-cmyc-KDEL và pCB301-35S-SP-S1-
Hồ Thị Thương et al.
102
GCN4pII-Stag-His-cmyc-KDEL, S1 oligomer
được hình thành dựa vào tương tác của S-tag và
S protein, mô hình tạo thành S1 oligomer được
mô phỏng ở Hình 5. Nghiên cứu trước đây cho
thấy rằng, chỉ có 15 acid amin ở đầu N của
RNase A (1-15 aa-S tag) là cần thiết cho việc tái
thiết lập toàn bộ hoạt động RNase S với S
protein (Kim et al., 1993). Trong quá trình này,
S-tag kết hợp với S-protein đã được cuộn gấp và
sau đó tái cuộn gấp. Hiện tại, tương tác của S-
tag và S-protein đã được áp dụng để phát hiện
và tinh sạch protein tái tổ hợp dựa vào tinh sạch
ái lực. Hơn nữa, sự tương tác ái lực cao giữa S-
protein và S-tag (Kd=1.1 × 10-7 M) đã được sử
dụng để dẫn thuốc (Asai et al., 2005).
Sự biểu hiện của từng protein S1-GCN4-
Stag và S protein-tp ở trong thuốc lá khi đồng
biểu hiện cũng được xác nhận bằng Western
blot sử dụng kháng thể kháng c-myc. Tuy nhiên,
mức độ biểu hiện của các protein cũng tương
đối thấp, chỉ chiếm 0,255% protein tan tổng số.
Chưa có một công bố nào về sự biểu hiện của
protein S1 ở thực vật. Việc biểu hiện protein S1
tái tổ hợp đã được nghiên cứu trong các đối
tượng khác như trong baculovirus, nấm men, tế
bào động vật (Makadiya et al., 2016). Các
nghiên cứu về sự biểu hiện protein tái tổ hợp
của PEDV ở thực vật chủ yếu tập trung vào biểu
hiện một phần của S1, vùng chứa epitope trung
hòa CO-26K equivalent (COE). Sự biểu hiện
của S1-COE trong các cây trồng chuyển gen
như lúa, ngô, thuốc lá... dao động từ 0,083%
đến 2,1% (Bae et al., 2003; Huy et al., 2012;
Kun et al., 2014). Trong những nỗ lực nghiên
cứu để tăng cường mức độ biểu hiện protein ở
thực vật, Phan Trọng Hoàng và đtg (2013) đã
chứng minh rằng protein H5 dung hợp ELP đã
giúp tăng cường biểu hiện rất nhiều lần protein
H5 không dung hợp ELP (Phan et al., 2013). Vì
vậy, các nghiên cứu tiếp theo cần tập trung để
tăng cường sự biểu hiện của toàn bộ protein S1
tái tổ hợp bằng cách dung hợp thêm các motif
như ELP hoặc biểu hiện vùng S1-COE trong
thực vật, sau đó đánh giá khả năng gây đáp ứng
miễn dịch trên động vật thí nghiệm.
Hình 4. Đánh giá sự biểu hiện của các protein S1 tái tổ hợp ở thực vật bằng Western blot sử dụng kháng thể
kháng c-myc. Ba mươi µg protein tan tổng số được điện di trên SDS-PAGE gel 4-12%.
Tạp chí Công nghệ Sinh học 19(1): 95-105, 2021
103
Hình 5. Mô phỏng sự hình thành S1 oligomer ở thực vật dựa vào tương tác S-tag và S-protein.
KẾT LUẬN
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã thiết kế
và biểu hiện thành công protein S1 tái tổ hợp
dung hợp GCN4pII, GCN4pII-Stag. Mặc dầu,
mức độ biểu hiện của protein S1 trimer và
protein S1 oligomer tạo ra nhờ tương tác S-tag
và S-protein-tp là tương đối thấp, tuy nhiên đây
là nghiên cứu đầu tiên về việc biểu hiện protein
S1 ở thực vật, điều này sẽ là tiền đề cho việc
phát triển vaccine tiểu đơn vị ở thực vật phòng
chống sự lây nhiễm của PEDV.
Lời cảm ơn: Kết quả nghiên cứu này thuộc đề
tài “Nghiên cứu biểu hiện S1 oligomer tái tổ
hợp của Porcine epidemic diarrhea virus
(PEDV) - gây bệnh tiêu chảy cấp ở lợn trên cây
thuốc lá Nicotiana benthamiana định hướng tạo
vaccine thế hệ mới”, mã số đề tài
VAST02.02/18-19.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Asai T, Wims LA, Morrison SL (2005) An
interaction between S tag and S protein derived from
human ribonuclease 1 allows site-specific
conjugation of an enzyme to an antibody for targeted
drug delivery. J Immunol Methods 299: 63-76.
Bae JL, Lee JG, Kang TJ, Jang HS, Jang YS, Yang
MS (2003) Induction of antigen-specific systemic
and mucosal immune responses by feeding animals
transgenic plants expressing the antigen. Vaccine 21:
4052-4058.
Chang SH, Bae JL, Kang TJ, Kim J, Chung GH, Lim
CW, Laude H, Yang SM, Jang SY (2002)
Identification of the epitope region capable of
inducing neutralizing antibodies against the porcine
epidemic diarrhea virus. Mol Cells 14: 295-299.
Chen Q, Lai H, Hurtado J, Stahnke J, Leuzinger K,
Dent M (2013) Agroinfiltration as an effective and
scalable strategy of gene delivery for production of
pharmaceutical proteins. Adv Tech Biol Med 1: 103.
doi: 10.4172/atbm.1000103.
Chiou HY, Huang YL, Deng MC, Chang CY, Jeng
CR, Tsai PS, Yang C, Pang VF, Chang HW (2015)
Phylogenetic analysis of the spike (S) gene of the
new variants of porcine rpidemic diarrhoea virus in
taiwan. Transbound Emerg Dis 64: 157–166. doi:
10.1111/tbed.12357.
Hồ Thị Thương et al.
104
Conrad U, Plagmann I, Malchow S, Sack M, Floss
DM, Kruglov AA, Nedospasov SA, Rose-John S,
Scheller J (2011) ELPylated anti-human TNF
therapeutic single-domain antibodies for prevention
of lethal septic shock. Plant Biotechnol J. 9: 22–31
doi: 10.4172/2379-1764.1000103.
Cruz DJ, Kim CJ, Shin HJ (2008) The GPRLQPY
motif located at the carboxyterminal of the spike
protein induces antibodies that neutralize porcine
epidemic diarrhea virus. Virus Res 132:1926.
Deng F, Ye G, Liu Q, Navid MT, Zhong X, Li Y,
Wan C, Xiao S, He Q, Fu ZF, Peng G (2016)
Identification and comparison of receptor binding
haracteristics of the spike protein of two porcine
pidemic diarrheavirus strains. Viruses. doi:
10.3390/v8030055.
Jung K, Saif LJ (2015) Porcine epidemic diarrhea
virus infection: Etiology, epidemiology,
pathogenesis and immunoprophylaxis. Vet J 204:
134–143.
Huy NX, Kim SH, Yang MS, Kim TG (2012)
Immunogenicity of a neutralizing epitope from
porcine epidemic diarrhea virus: M cell targeting
ligand fusion protein expressed in transgenic rice
calli. Plant Cell Rep 31: 1933-1942.
Khamis Z (2016) Producing a subunit vaccine for
porcine epidemic diarrhea virus. Electronic thesis
and dissertation. Repository: 4296.
Kim YK, Lim SI, Lim JA, Cho IS, Park EH, Le VP,
Hien NB, Thach PN, Quynh do H, Vui TQ, Tien NT,
An DJ (2015) A novel strain of porcine epidemic
diarrhea virus in Vietnamese pigs. Arch Virol
160(6):1573-7.
Kim JS, Raines RT (1993) Ribonuclease S-peptide
as a carrier in fusion proteins. Protein Sci 2: 348–
356.
Kun M, BingY, Jing X, XiangJie Q, HongZhuan Z,
FuZhou X, ChengYang X, FengPing Y, LiQuan Z,
XiangLong L (2014) Expression of core neutralizing
epitope gene of porcine epidemic diarrhea virus in
maize. JASFT (Beijing) 16, 28-35.
Langel SN, Paim FC, Lager KM, Vlasova AN, Saif
LJ (2016) Lactogenic immunity and vaccines for
porcine epidemic diarrhea virus (PEDV): historical
and current concepts. Virus Res 226: 93–107.
Lee C (2015) Porcine epidemic diarrhea virus: An
emerging and re-emerging epizootic swine virus.
Virol J 12:193.
Makadiya N, Brownlie R, van den Hurk J, Berube N,
Allan B, Gerdts V, Zakhartchouk A (2016) S1
domain of the porcine epidemic diarrhea virus spike
protein as a vaccine antigen. Virol J 13:57.
Oldham J (1972) Letter to the editor. Pig Farming
10:72-3.
Park SJ, Kim HK, Song DS, An DJ, Park BK (2012)
Complete genome sequences of a Korean virulent
porcine epidemic diarrhea virus and its attenuated
counterpart. J Virol 86: 5964.
Phan HT, Ho TT, Chu HH, Vu TH, Gresch U,
Conrad U (2017) Neutralizing immune responses
induced by oligomeric H5N1-hemagglutinins from
plants. Vet Res 48: 53.
Phan HT, Pohl J, Floss DM, Rabenstein F, Veits J,
Le BT, Chu HH, Hause G, Mettenleiter T, Conrad U
(2013) ELPylated haemagglutinins produced in
tobacco plants induce potentially neutralizing
antibodies against H5N1 viruses in mice. Plant
Biotechnol J 11: 582-93.
Sanger F, Nicklen S, Coulson AR (1977) DNA
sequencing with chain-terminating inhibitors. Proc
Natl Acad Sci USA 74(12): 5463-
5467.doi:10.1073/pnas.74.12.5463.
Sato T, Takeyama N, Katsumata A, Tuchiya K,
Kodama T, Kusanagi K (2011) Mutations in the
spike gene of porcine epidemic diarrhea virus
associated with growth adaptation in vitro and
attenuation of virulence in vivo. Virus Genes 43: 72–
78.
Song D, Park B (2012) Porcine epidemic diarrhoea
virus: a comprehensive review of molecular
epidemiology, diagnosis, and vaccines. Virus Genes
44: 167-75.
Suzuki T, Murakami S, Takahashi O, Kodera A,
Masuda T, Itoh S, Miyazaki A, Ohashi S, Tsutsui T
(2015) Molecular characterization of pig epidemic
diarrhoea viruses isolated in Japan from 2013 to
2014. Infect Genet Evol 36:363– 8.
Tian Y, Yu Z, Cheng K, Liu Y, Huang J, Xin Y, Li
Y, Fan S, Wang T, Huang G, Feng N, Yang Z, Yang
S, Gao Y, Xia X (2013) Molecular characterization
and phylogenetic analysis of new variants of the
Tạp chí Công nghệ Sinh học 19(1): 95-105, 2021
105
porcine epidemic diarrhea virus in Gansu, China in
2012. Viruses 5: 1991–2004.
Topp E, Irwin R, McAllister T, Lessard M, Joensuu
JJ, Kolotilin I, Conrad U, Stöger E, Mor T,
Warzecha H, Hall JC, McLean MD, Cox E,
Devriendt B, Potter A, Depicker A, Virdi V,
Holbrook L, Doshi K, Dussault M, Friendship R,
Yarosh O, Yoo HS, MacDonald J, Menassa R
(2016) The case for plantmade veterinary
immunotherapeutics. Biotechnol Adv 34:597–604.
doi: 10.1016/j.biotechadv.2016.02.007
Wang X, Chen J, Shi D, Shi H, Zhang X, Yuan J,
Jiang S, Feng L (2016) Immunogenicity and
antigenic relationships among spike proteins of
porcine epidemic diarrhea virus subtypes G1 and G2.
Arch Virol 161:537–47.
Walls AC, Tortorici MA, Bosch BJ, Frenz B, Rottier
PJM, DiMaio F (2016) Cryo-electron microscopy
structure of a coronavirus spike glycoprotein trimer.
Nature. 531: 114–117. doi: 10.1038/nature16988.
29. Xiang C, Han P, Lutziger I, Wang K, Oliver D
(1999) A mini binary vector series for plant
transformation. Plant Mol Biol 40:711.
TRANSIENT EXPRESSION OF RECOMBINANT S1 PROTEIN OF PORCINE
EPIDEMIC DIARRHEA VIRUS IN NICOTIANA BENTHAMIANA
Ho Thi Thuong1, Le Thu Ngoc1, Nguyen Thu Giang1, Trinh Thai Vy1, Phan Trong Hoang2,
Pham Bich Ngoc1, Vu Huyen Trang1, Hoang Thi Thu Hang1, Chu Hoang Ha1
1Institute of Biotechnology, Vietnam Academy of Science and Technology
2Leibniz-Institute for Plant Genetic and Crop Plant Research, Germany
SUMMARY
Porcine Epidemic Diarrhea (PED) is an infectious disease with high mortality especially in
suckling piglets. Among the structural proteins of Porcine Epidemic Diarrhea Virus (PEDV), the S
protein (including sub-domain S1 and S2), is a homotrimer protein that plays an important role in
attaching the viruses to the cell receptors. In particular, the S1 protein is considered as an important
sub-component in the development of effective vaccines against PEDV. In this study, for the
purpose of expressing S1 in the original form of trimmer and oligomer of trimer based on S-tag and
S-protein interactions, the DNA encoding for S1 protein was fused with GCN4pII or GCN4pII-
Stag, was then inserted to the pRTRA cloning vector under the control of the 35S CaMV promoter.
After that, the whole cassete was inserted into the pCB301 vector and transformed into
Agrobacterium tumefaciens for transient expression on Nicotiana benthamiana. The expression of
recombinant S1 proteins in tobacco was determined by Western blot. The results showed that the
expression levels of S1 trimer and S1 trimer S-tag proteins were equal in plants, which also
indicated that S-tag fusion did not affect the expression level of the S1 protein. However, the
expression level of S1 proteins was relatively low, reaching 0.005% of total soluble protein. In
addition, the expression of S1 trimer S-tag protein and Sprotein-tp protein by co-transformation of
two A. tumefaciens strains containing corresponding vectors in plants were also determined by
Western blot. This is a premise study for the development of subunit vaccines in plants that prevent
the spread of PEDV.
Keywords: Agrobacterium tumefaciens, PEDV, plant-based vaccine, recombinant S1 protein,
transient expression
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nghien_cuu_su_bieu_hien_cua_khang_nguyen_s1_tai_to_hop_cua_v.pdf