4. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Cả 4 chủng L. acidophilus thử nghiệm đều có khả
năng phát triển trong môi trường có pH thấp và có
khả năng ứng dụng lên men nước cà chua. Chủng
L. acidophilus 01A sinh axit lactic cao hơn các
dòng còn lại và được tuyển chọn để sử dụng trong
sản xuất nước cà chua lên men. Dịch ép cà chua
được phối chế với đường sucrose ở tỷ lệ 9% (w/v)
và ủ ở 37 oC trong 12 giờ cho thấy đã sản xuất
được sản phẩm nước cà chua lên men đạt được sự
đánh giá cao của các thành viên trong hội đồng
đánh giá cảm quan sản phẩm cũng như có được
các yêu cầu của một sản phẩm probiotic. Nồng độ
giống chủng là 6 log tb/mL (tỷ lệ chủng giống 1%
(v/v)) sẽ đảm bảo về mặt chất lượng sản phẩm
cũng như yêu cầu về mật số vi khuẩn cần thiết cho
sản phẩm probiotic. Nhiệt độ tồn trữ sản phẩm ở 4
oC đảm bảo được chất lượng sản phẩm và duy trì
được mật số vi khuẩn ổn định trong 4 tuần tồn trữ.
10 trang |
Chia sẻ: thucuc2301 | Lượt xem: 631 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu sản xuất nước cà chua lên men sử dụng chủng vi khuẩn Lactobacillus Acidophilus 01A - Huỳnh Xuân Phong, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 24 – 33
24
NGHIÊN CỨU SẢN XUẤT NƯỚC CÀ CHUA LÊN MEN SỬ DỤNG
CHỦNG VI KHUẨN LACTOBACILLUS ACIDOPHILUS 01A
Huỳnh Xuân Phong1, Nguyễn Thị Pha Ly2, Nguyễn Ngọc Thạnh1, Ngô Thị Phương Dung1
1Trường Đại học Cần Thơ
2Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu Y tế DOMESCO
Thông tin chung:
Ngày nhận bài: 03/08/2015
Ngày nhận kết quả bình duyệt:
22/10/2015
Ngày chấp nhận đăng: 04/2017
Title:
A study on ferment tomato
juice through Lactobacillus
Acidophilus 01A
Keywords:
Lactic acid bacteria, lactic acid
fermentation, Lactobacillus
acidophilus, probiotic
Từ khóa:
Lactobacillus acidophilus,
lên men lactic, probiotic, vi
khuẩn lactic
ABSTRACT
Regarding the low cost and a high nutrition level of tomatoes as well as to
diversify tomatoes’ products, the trials of fermented tomato juice production
were carried out along with 4 experiements of Lactobacillus Acidophilus (01A,
02P, 03C and 04L). All 4 experiements of Lactobacillus acidophilus could grow
up at the low pH conditions and ferment tomato juice. The result indicated that
Lactobacillus Acidophilus 01A could produce the highest lactic acid
concentration (1.38% (w/v)) and grow well up to 8.42 log CFU/mL after 48
hours of fermentation at 37 oC. The fermented tomato juice production which
was supplemented by 9% (w/v) of sucrose together with 6 log cells/mL (the ratio
1% (v/v)) after 12 hours of fermentation at 37 oC satisfied demands of probiotic
requirements (with the bacterial rate higher than 6 log CFU/mL) and had good
sensory evaluation results. The quality of products remained stable when
storaged at 4 oC in 4 weeks.
TÓM TẮT
Với mục đích tận dụng nguồn nguyên liệu rẻ tiền và giá trị dinh dưỡng cao
cũng như đa dạng hóa các sản phẩm có đặc tính tốt từ cà chua. Thử nghiệm sản
xuất nước cà chua lên men được thực hiện với 4 chủng Lactobacillus
acidophilus (01A, 02P, 03C và 04L). Cả 4 chủng thử nghiệm đều có khả năng
phát triển ở điều kiện pH thấp và lên men nước cà chua. Kết quả đánh giá khả
năng ứng dụng để sản xuất nước cà chua lên men cho thấy chủng Lactobacillus
acidophilus 01A cho kết quả tốt nhất với hàm lượng axit lactic đạt 1,38% (w/v)
và mật số đạt 8,42 log CFU/g sau 48 giờ lên men ở 37 oC. Sản phẩm nước cà
chua lên men có bổ sung 9% (w/v) đường sucrose với mật số giống chủng ban
đầu 6 log tế bào/mL (tỷ lệ chủng giống 1% (v/v)) sau 12 giờ lên men ở 37 oC
đảm bảo yêu cầu của sản phẩm probiotic (mật số vi khuẩn lớn hơn 6 log
CFU/mL) và có kết quả đánh giá cảm quan tốt. Chất lượng sản phẩm ổn định
khi được tồn trữ ở 4 oC trong 4 tuần khảo sát.
1. GIỚI THIỆU
Probiotic là tên gọi chung của nhóm các sản phẩm
có giá trị cao về mặt sinh học, giúp tiêu hóa thức
ăn, hỗ trợ sự tiêu hóa lactose (có nhiều trong sữa),
ngăn chặn tác hại của các vi khuẩn khác xâm nhập
vào đường ruột, giúp cân bằng hệ vi sinh vật
đường ruột do sự ảnh hưởng của rượu, stress,
nhiễm trùng, sử dụng kháng sinh hoặc các thuốc
hóa trị liệu, rối loạn tiêu hóa, viêm ruột cấp tính
hay mãn tính. Đặc điểm quan trọng nhất của sản
phẩm probiotic là các vi khuẩn được sử dụng
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 24 – 33
25
trong sản phẩm phải sống và có mật số tế bào tối
thiểu 6,0 log CFU/g (Ravula & Shah, 1998; Roy,
2001; Shah, 2000; Talwalkar & Kailasapathy,
2004). Vi sinh vật được sử dung phổ biến nhất là
nhóm vi khuẩn lactic, trong đó chủ yếu là nhóm
Lactobacilli (L. acidophilus, L. casei, L.
rhamnosus, L. reuteri, L. plantarum), kế đến là
nhóm vi khuẩn Bifidobacteria (B. longum, B.
bifidum, B. breve, B. infantis) (Fooks & Gibsonm,
2002).
Hầu hết các sản phẩm probiotic là các sản phẩm
từ sữa lên men. Tuy nhiên, có hai hạn chế chính
của các sản phẩm từ sữa đối với người tiêu dùng
là sự không dung nạp lactose. Mattila - Sandholm
và cs. (2002) cho rằng, nước trái cây là một môi
trường tốt cho sự phát triển các vi khuẩn và phát
triển các sản phẩm probiotic. Trái cây và rau cải là
những thực phẩm có lợi cho sức khoẻ bởi vì
chúng chứa nhiều các chất chống oxy hoá,
vitamin, chất xơ và khoáng. Một số công trình
nghiên cứu gần đây cho thấy, việc sản xuất các
sản phẩm probiotic từ các loại rau quả là một
khuynh hướng để tạo ra các sản phẩm có giá trị
dinh dưỡng cao và có giá trị về mặt sinh học.
Trong đó, nước cà chua được xem một trong
những thức uống có giá trị dinh dưỡng cao và tốt
cho sức khoẻ (Suzuki và cs., 2002).
Nghiên cứu được thực hiện với mục đích khảo
sát khả năng ứng dụng của vi khuẩn lactic trong
sản xuất nước cà chua lên men và xác định điều
kiện lên men thích hợp.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Nguyên vật liệu và hóa chất
- Nguyên liệu: Cà chua được mua tại TP. Cần
Thơ.
- Giống vi khuẩn lactic: 4 chủng vi khuẩn L.
acidophilus (ký hiệu 01A, 02P, 03C và 04L)
được phân lập và lưu trữ tại Viện Nghiên cứu
và Phát triển Công nghệ Sinh học, Trường Đại
học Cần Thơ.
- Hóa chất: NaOH 0,1 N, yeast extract (Ấn Độ),
saccharose, peptone, glucose,...
- Môi trường: MRS agar (Merck) và MRS broth
(Merck).
2.2 Khảo sát khả năng ứng dụng vi khuẩn
lactic trong sản phẩm probiotic
Cấy 4 chủng vi khuẩn lactic vào các ống nghiệm
chứa môi trường MRS broth ở 3 mức pH khác
nhau (1,5; 2,5 và 3,5). Thí nghiệm được lặp lại 3
lần. Xác định mật số vi khuẩn khi vừa chủng
giống (T0) và sau 2 giờ ủ (T2) bằng phương pháp
đếm sống trên môi trường MRS agar.
2.3 Khảo sát khả năng sản xuất nước cà chua
lên men bằng vi khuẩn lactic
Cà chua được ép lấy nước và phân phối vào các
tuýp ly tâm 50 mL. Thanh trùng ở 100 ºC trong 15
phút. Để nguội đến khoảng 35 – 40 ºC và chủng
giống (1% (v/v)) vào tuýp. Ủ ở 37 ºC trong 48
giờ. Chỉ tiêu phân tích: pH, Brix, hàm lượng axit
lactic (Lê Thanh Mai và cs., 2005) và mật số vi
khuẩn bằng phương pháp đếm sống trên môi
trường MRS agar. Thí nghiệm được lặp lại 3 lần.
2.4 Khảo sát thời gian lên men và tỷ lệ đường
phối chế
Giống vi khuẩn lactic được nuôi tăng sinh trong
môi trường MRS broth. Phối chế nước cà chua
với các tỷ lệ đường 6, 9, 12 và 15% (w/v). Phân
phối 40 mL/tuýp, đo pH và độ Brix trước lên men.
Thanh trùng ở 100 ºC trong 15 phút. Chủng 0,4
mL giống/tuýp và ủ lên men ở 37 ºC trong các
khoảng thời gian khác nhau (12, 24, 36 và 48
giờ). Các chỉ tiêu phân tích: pH, độ Brix, hàm
lượng axit lactic, mật số vi khuẩn và cảm quan
sản phẩm sau lên men. Cảm quan sản phẩm được
thực hiện theo thang điểm ưa thích Hedonic
(Stone & Sidel, 1993) với hội đồng gồm 10 thành
viên.
2.5 Khảo sát nồng độ giống chủng và nhiệt độ
ủ thích hợp
Thí nghiệm được bố trí với 2 nhân tố là nồng độ
giống chủng và nhiệt độ ủ. Giống chủng được pha
loãng với nước muối sinh lý ở nồng độ 6, 7 và 8
log tb/mL. Chủng 1% (v/v) giống vào các tuýp
(nồng độ giống chủng ban đầu tương ứng là 4, 5
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 24 – 33
26
và 6 log tb/mL). Ủ lên men ở 25 oC, 30 oC và 37
oC theo thời gian được xác định từ thí nghiệm trên
và phân tích các chỉ tiêu sau lên men.
2.6 Khảo sát nhiệt độ và thời gian tồn trữ sản
phẩm
Sản phẩm nước cà chua lên men được chuẩn bị
dựa trên các thông số được xác định từ các thí
nghiệm trên. Sau khi kết thúc quá trình lên men,
sản phẩm được tồn trữ ở các nhiệt độ (-5 oC đến 0
oC, 4 oC và 25 oC) và thời gian khác nhau (1, 2, 3
và 4 tuần). Các chỉ tiêu theo dõi trong quá trình
tồn trữ sản phẩm bao gồm pH, độ Brix, hàm
lượng axit lactic và mật số vi khuẩn lactic.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1 Khả năng ứng dụng vi khuẩn lactic trong
sản phẩm probiotic
Một trong những tiêu chuẩn của sản phẩm
probiotic là khả năng sống sót của vi sinh vật sau
quá trình tiêu hoá (Guarner & Schaafsma, 1998;
Marteau, de Vrese, Cellier, & Schrezenmier,
2001). Trong hệ thống tiêu hoá, pH của dịch dạ
dày rất thấp (khoảng 1 – 2) cho nên đa số vi sinh
vật đều khó tồn tại ở khoảng pH này. Tuy nhiên,
các vi sinh vật cũng chỉ chịu đựng ở mức pH thấp
này trong dạ dày khoảng 1 đến 2 giờ và sau đó sẽ
di chuyển xuống ruột già, có giá trị pH gần trung
tính hơn. Do đó, để khảo sát khả năng ứng dụng
của các dòng vi khuẩn lactic phân lập được vào
trong sản phẩm probiotic, tiến hành thử khả năng
tồn tại của các chủng L. acidophilus trong môi
trường MRS lỏng ở pH thấp (1,5; 2,5 và 3,5) với
nồng độ giống chủng ban đầu là 4 log tb/mL. Mật
số vi khuẩn ở thời điểm ban đầu (T0) và sau 2 giờ
(T2) ủ ở 37 oC bằng phương pháp đếm sống được
thể hiện ở Bảng 1.
Bảng 1. Mật số vi khuẩn trong môi trường MRS lỏng có pH thấp
Các số liệu trong bảng là giá trị trung bình của 3 lần lặp lại. Các giá trị có mẫu tự giống nhau thì khác biệt
không ý nghĩa về mặt thống kê với độ tin cậy 95%.
Sau 2 giờ ủ ở 37 oC với các độ pH thấp khác
nhau, tất cả các chủng L. acidophilus đều gia tăng
mật số. Mật số vi khuẩn ban đầu là 4 log tb/mL
nhưng khi chủng vào môi trường MRS với pH 1,5
và 2,5 thì mật số của chúng ở thời điểm T0 giảm
đi đáng kể (chỉ còn 1,08 - 1,38 log CFU/mL),
pH
Chủng
L. acidophilus
T0
(log CFU/mL)
T2
(log CFU/mL)
1,5
01A 1,26de 6,61a
02P 1,08f 6,48a
03C 1,15ef 6,55a
04L 1,18ef 6,49a
2,5
01A 1,38c 6,47a
02P 1,36cd 6,39a
03C 1,36cd 6,54a
04L 1,34cd 6,30a
3,5
01A 3,43b 6,53a
02P 3,36b 6,55a
03C 3,33b 6,46a
04L 3,58a 6,62a
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 24 – 33
27
nguyên nhân là do pH quá thấp nên đa số vi khuẩn
bị sốc; tuy nhiên sau khi ủ, chúng lại phục hồi và
hoạt động để gia tăng mật số (lên đến 6,30 - 6,55
log CFU/mL). Ở pH 3,5, đa số vi khuẩn chịu được
độ pH này nên mật số của chúng ở thời điểm T0
giảm không đáng kể (3,33 - 3,58 log CFU/mL).
Sau 2 giờ ủ, vi khuẩn đã gia tăng mật số đến 6,46
- 6,62 log CFU/mL.
Kết quả xử lý thống kê cho thấy mật số của các
chủng L. acidophilus ở thời điểm T0 trong môi
trường với các mức độ pH khác nhau thì khác biệt
có ý nghĩa. Mật số của 4 dòng vi khuẩn lactic ở
pH 3,5 đều cao hơn ở pH 2,5 và mật số của 4
chủng vi khuẩn lactic này ở pH 2,5 lại cao hơn ở
pH 1,5. Điều này chứng tỏ pH càng thấp càng ảnh
hưởng đến khả năng hoạt động của vi khuẩn
lactic. Tất cả 4 chủng L. acidophilus sau 2 giờ ủ ở
3 mức độ pH thấp khác nhau đều có sự gia tăng
mật số và qua xử lý thống kê thì mật số vi khuẩn
ở các nghiệm thức khác biệt không ý nghĩa với độ
tin cậy 95%. Kết quả cho thấy các chủng L.
acidophilus đều có thể thích nghi và phát triển
được trên môi trường có độ pH thấp và đều có khả
năng ứng dụng vào trong sản phẩm probiotic.
3.2 Khả năng sản xuất nước cà chua lên men
bằng vi khuẩn lactic
Nước ép cà chua có độ Brix là 5,40 và pH là 4,39;
nồng độ giống chủng ban đầu là 4 log tb/mL. Mật
số vi khuẩn lactic ở thời điểm T0 và sau 48 (T48)
giờ ủ ở 37 oC và các chỉ tiêu như độ Brix, pH và
hàm lượng acid lactic được phân tích và trình bày
ở Bảng 2.
Bảng 2. Mật số vi khuẩn, °Brix, pH và hàm lượng acid sau quá trình lên men
Chủng
L. acidophilus
oBrix pH
Axit
(% w/v)
Log T0
(log CFU/mL)
Log T48
(log CFU/mL)
01A 4,83a 3,21b 1,38a 3,85a 8,42a
02P 4,87a 3,45b 1,35a 3,82a 8,35a
03C 4,83a 3,52ab 1,21b 3,85a 8,37a
04L 4,93a 3,59a 1,17b 3,84a 8,33a
Các số liệu trong bảng là giá trị trung bình của 3 lần lặp lại. Các giá trị có mẫu tự giống nhau thì khác biệt không ý nghĩa
về mặt thống kê ở độ tin cậy 95%.
Tất cả các chủng L. acidophilus sau 48 giờ lên
men nước cà chua đều có sự gia tăng mật số, độ
Brix giảm, hàm lượng axit lactic tăng và giảm pH
của môi trường. Độ Brix của các nghiệm thức sau
lên men đều giảm so với ban đầu, nguyên nhân là
do vi khuẩn lactic đã sử dụng đường có sẵn trong
nước cà chua để tăng sinh khối và tạo axit. Sự
giảm độ Brix của các dòng vi khuẩn khác biệt
không ý nghĩa. Sau 48 giờ lên men, pH môi
trường của các dòng vi khuẩn trên đều giảm từ
4,39 xuống còn 3,21 - 3,59. Ở khoảng pH này, vi
khuẩn lactic vẫn còn khả năng sống sót và phát
triển theo như kết quả của thí nghiệm trên.
Nguyên nhân của sự giảm pH là do trong quá
trình phát triển vi khuẩn lactic đã sản sinh ra axit
lactic. Hàm lượng axit sinh ra từ 2 chủng L.
acidophilus 01A và 02P khác biệt không ý nghĩa
với nhau và khác biệt so với các chủng còn lại ở
độ tin cậy 95%.
Mật số của các dòng vi khuẩn lactic ở thời điểm
T0 đều gần bằng với nồng độ giống chủng ban
đầu, sau khi ủ tất cả chúng đều có hoạt động tăng
sinh khối đáng kể. Kết quả xử lý thống kê cho
thấy, mật số của các dòng vi khuẩn lactic ở thời
điểm T0 và sau 48 giờ lên men khác biệt không ý
nghĩa. Mật số của các dòng vi khuẩn sau 48 giờ
lên men đều lớn hơn 6 log CFU/mL, phù hợp với
tiêu chuẩn của sản phẩm probiotic cho nên tất cả
các dòng này đều có khả năng ứng dụng trong sản
xuất nước cà chua lên men. Mặc dù, 2 chủng L.
acidophilus 01A và 02P không có sự khác biệt ý
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 24 – 33
28
nghĩa ở tất cả các chỉ tiêu nhưng chủng L.
acidophilus 01A luôn có giá trị cao hơn (hàm
lượng axit 1,38% (w/v) và mật số vi khuẩn 8,42
log CFU/mL) so với chủng L. acidophilus 02P
(tương ứng với 1,35% (w/v) và 8,35 log CFU/mL)
nên được chọn để tiến hành các thí nghiệm tiếp
theo.
3.3 Ảnh hưởng của thời gian lên men và tỷ lệ
đường phối chế
Kết quả thí nghiệm về thời gian lên men và tỷ lệ
đường phối chế được trình bày ở Bảng 3. Tương
tự, kết quả cho thấy giá trị pH trước và sau lên
men có sự khác biệt rõ (từ 4,13 - 4,24 giảm xuống
2,40 - 2,95). Độ Brix cũng giảm nhưng không
đáng kể (10,2 - 17,6 xuống 9,6 - 15,6).
Bảng 3. Giá trị pH và độ Brix của thời gian lên men và tỷ lệ đường phối chế
Thời gian (h) Nồng độ đường (%)
pH Độ Brix
Trước lên
men
Sau lên
men
Trước lên
men
Sau lên men
12
6 4,24 2,92 10,2 10,1
9 4,24 2,94 12,8 12,6
12 4,19 2,95 15,0 13,2
15 4,13 2,87 17,6 15,6
24
6 4,24 2,61 10,2 10,0
9 4,24 2,64 12,8 12,4
12 4,19 2,70 15,0 14,6
15 4,13 2,93 17,6 14,3
36
6 4,24 2,52 10,2 9,9
9 4,24 2,53 12,8 12,1
12 4,19 2,51 15,0 14,6
15 4,13 2,83 17,6 15,5
48
6 4,24 2,40 10,2 9,6
9 4,24 2,41 12,8 12,2
12 4,19 2,47 15,40 14,6
15 4,13 2,75 17,60 15,4
Ghi chú: Các số liệu trong bảng là giá trị trung bình của 3 lần lặp lại.
Ở cùng một giá trị về hàm lượng đường trong
dịch lên men, hàm lượng axit tăng dần theo thời
gian lên men là do quá trình chuyển hóa và tích tụ
axit được sinh ra bởi vi khuẩn axit lactic (Hình 1).
Kết quả khi so sánh về ảnh hưởng của hàm lượng
đường ban đầu trong dịch lên men cho thấy, ở
cùng một thời gian lên men, hàm lượng axit ở
nghiệm thức bổ sung 6% (w/v) đường sucrose là
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 24 – 33
29
cao nhất trong bốn nghiệm thức khảo sát và hàm
lượng axit là thấp nhất với nghiệm thức bổ sung
đến 15% (w/v) đường sucrose. Mặc dù, đường
sucrose là cơ chất để vi khuẩn axit lactic chuyển
hóa sinh ra axit trong trường hợp này nhưng cũng
tùy vào nồng độ thích hợp cho mỗi loại vi khuẩn
mà lượng axit sinh ra là cao nhất.
Hình 1. Sự thay đổi hàm lượng axit theo thời gian và nồng độ đường
Ở cùng nồng độ đường, hàm lượng axit đạt giá trị
thấp ở 12 giờ ủ vì với khoảng thời gian này chưa
đủ cho vi khuẩn phát triển. Khi tăng thời gian thì
hàm lượng axit cũng tăng và ở 48 giờ ủ hàm
lượng axit đạt giá trị cao nhất trong các khoảng
thời gian khảo sát (Hình 1). Tương tự như trên,
kết quả ở Hình 2 cho thấy, ở hàm lượng đường bổ
sung 6% (w/v) có mật số vi khuẩn đạt cao nhất
trong các nghiệm thức bố trí ở cả bốn khoảng thời
gian lên men. Tuy nhiên, sau 12 giờ lên men, mật
số vi khuẩn ở nghiệm thức bổ sung 6% và 9%
(w/v) đường sucrose là như nhau. Ở nghiệm thức
bổ sung 6% (w/v) đường, mật số tăng theo thời
gian ủ và đạt giá trị cao nhất sau 36 giờ ủ. Mật số
giảm sau đó là do lượng axit sinh ra cao nên ức
chế ngược lại vi khuẩn. Trong trường hợp nghiệm
thức bổ sung 9% (w/v) đường thì hàm lượng axit
đạt giá trị cao nhất và gần như không thay đổi
trong khoảng thời gian 24 - 48 giờ lên men.
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 24 – 33
30
Hình 2. Sự thay đổi mật số vi khuẩn theo thời gian và nồng độ đường
Mục đích chính của cả quy trình là sản xuất sản
phẩm phục vụ cho người tiêu dùng. Vì thế, giá trị
cảm quan của sản phẩm rất quan trọng. Cảm quan
được đánh giá theo mô tả thang điểm ưa thích
Hedonic với 9 thang điểm (điểm 1, chán cực độ
đến điểm 9, thích cực độ) (Stone & Sidel, 1993).
Kết quả đánh giá cảm quan theo sở thích của hội
đồng gồm 10 thành viên được trình bày ở Bảng 4.
Bảng 4. Kết quả đánh giá cảm quan sản phẩm theo thời gian lên men và nồng độ đường phối chế
Thời gian (h) Nồng độ đường (%) Điểm trung bình
12
6 5,42e
9 8,96a
12 8,25b
15 6,74d
24
6 3,42h
9 4,34g
12 4,81f
15 7,30c
36
6 2,21j
9 2,49ij
12 2,50ij
15 2,74i
48
6 0,95m
9 1,16lm
12 1,09lm
15 1,47k
Các số liệu trong bảng là giá trị trung bình của 3 lần lặp lại với hội đồng đánh giá cảm quan gồm 10 thành
viên. Các giá trị có mẫu tự giống nhau thì khác biệt không ý nghĩa về mặt thống kê ở độ tin cậy 95%.
7.75
8.20
8.71
8.47
7.75
7.99 7.99
7.74
7.56 7.63
7.75
7.497.42 7.49
7.59
7.36
6.0
6.5
7.0
7.5
8.0
8.5
9.0
12 24 36 48
M
ật
s
ố
vi
k
hu
ẩn
(
lo
g
C
F
U
/m
L
)
Thời gian (h)
6%
9%
12%
15%
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 24 – 33
31
Kết quả cho thấy, mẫu được ủ ở 36 giờ và 48 giờ
có điểm thấp nhất vì những mẫu này có hàm
lượng axit cao nên sản phẩm có mùi rất nồng và
vị rất chua không thích hợp để sản xuất. Mẫu
được ủ ở 12 giờ và 24 giờ có hàm lượng axit sinh
ra ít hơn nên mùi và vị tốt hơn. Với kết quả kiểm
định LSD ở độ tin cậy 95% thì mẫu có thời gian
lên men là 12 giờ với nồng độ đường là 9% (w/v)
có sự khác biệt có ý nghĩa so với các mẫu còn lại
vì mẫu này có mùi thơm đặc trưng của cà chua, vị
hài hòa và dạng đồng nhất. Do đó, mẫu này được
để tiến hành các thử nghiệm sau.
3.4 Ảnh hưởng của nồng độ giống chủng và
nhiệt độ lên men
Tương tự với các thí nghiệm trên, giá trị pH và
Brix có chiều hướng giảm sau lên men. Kết quả ở
Bảng 5 cho thấy, ở cùng nồng độ giống chủng,
hàm lượng axit ở nhiệt độ 25 oC thấp hơn 30 oC
và 37 oC. Ở 37 oC, hàm lượng axit đạt giá trị cao
nhất cho thấy đây là nhiệt độ thích hợp cho sự
sinh trưởng của vi khuẩn. Kết quả cũng thể hiện
khi ở nhiệt độ lên men 30 oC và 37 oC, ở nồng độ
giống chủng là 6 log tb/mL thì có hàm lượng axit
sinh ra cao hơn ở nồng độ 4 log tb/mL và 5 log
tb/mL vì nồng độ giống chủng ban đầu cao hơn thì
khả năng sinh axit cũng nhiều hơn. Tuy nhiên, khi
nhiệt độ lên men ở 25 oC thì không có sự khác
biệt với nghiệm thức ở nồng độ giống chủng là 5
log tb/mL và 6 log tb/mL. Ở cùng một nồng độ
giống chủng, mật số vi khuẩn tăng dần theo nhiệt
độ, giá trị cao nhất đạt được ở 37 oC và thấp nhất
ở 25 oC.
Bảng 5. Kết quả khảo sát nồng độ giống chủng và nhiệt độ ủ
Giống chủng
(log tb/mL)
Nhiệt độ
(oC)
Độ Brix
HL axit
(% w/v)
Mật số
(log CFU/mL)
4
25 12,73 0,52c 5,00f
30 12,69 0,52c 5,42ef
37 12,67 0,53c 5,52e
5
25 12,73 0,53c 5,46ef
30 12,70 0,54c 5,83de
37 12,67 0,55c 6,13c
6
25 12,64 0,53c 6,09cd
30 12,60 0,61b 6,46b
37 12,52 0,73a 6,88a
Ghi chú: Các số liệu trong bảng là giá trị trung bình của 3 lần lặp lại. Các giá trị trong cùng một cột có mẫu tự theo
sau giống nhau thì khác biệt không ý nghĩa về mặt thống kê với độ tin cậy 95%.
Các mẫu có nồng độ giống chủng là 4 log tb/mL
thì mật số sau lên men đều nhỏ hơn 6 log
CFU/mL, tương tự với các mẫu có nồng độ giống
chủng là 5 log tế bào/mL với nhiệt độ ủ 25 oC và
30 oC. Các mẫu này không đáp ứng yêu cầu của
sản phẩm probiotic (mật số vi khuẩn phải bằng
hoặc cao hơn 6 log CFU/mL). Tóm lại, để đạt yêu
cầu sản phẩm probiotic, với nồng độ giống chủng
ban đầu là 5 log tb/mL, có thể ủ lên men ở 37 oC
và khi nồng độ giống chủng là 6 log tb/mL thì có
thể ủ ở cả 3 mức nhiệt độ 25 oC, 30 oC và 37 oC
(Bảng 5).
Các mẫu đáp ứng yêu cầu của sản phẩm probiotic
được đánh giá cảm quan bởi hội đồng gồm 10
người và kết quả được trình bày ở Bảng 6. Kết
quả đánh giá cảm quan cho thấy, mẫu có nồng độ
giống chủng là 5 log tb/mL, nhiệt độ ủ 37 oC và
mẫu có nồng giống chủng là 6 log tb/mL, nhiệt độ
ủ 25 oC có mùi thơm đặc trưng của cà chua ít, vị
ngọt rất nhiều. Ở nồng độ giống chủng ban đầu là
6 log tb/mL, mùi vị của sản phẩm có sự khác biệt
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 24 – 33
32
có ý nghĩa giữa các nhiệt độ ủ. Ở nhiệt độ 30 oC,
sản phẩm có mùi thơm ít, vị ngọt nhiều và ít chua.
Khi ủ lên men ở 37 oC, sản phẩm có mùi vị hài
hòa và khác biệt có ý nghĩa so với 3 mẫu còn lại
với độ tin cậy 95% (điểm trung bình 8,84/9,0).
Bảng 6. Kết quả đánh giá cảm quan về nồng độ giống chủng và nhiệt độ ủ
Nồng độ giống chủng (log tế
bào/mL)
Nhiệt độ (oC) Điểm trung bình
5 37 7,16c
6
25 7,19c
30 8,22b
37 8,84a
Ghi chú: Các số liệu trong bảng là giá trị trung bình của 3 lần lặp lại với hội đồng đánh giá cảm quan gồm 10
thành viên. Các giá trị có mẫu tự giống nhau thì khác biệt không ý nghĩa về mặt thống kê ở độ tin cậy 95%.
3.5 Ảnh hưởng của nhiệt độ và thời gian tồn
trữ sản phẩm
Vấn đề quan trọng đối với sản phẩm probiotic là
sau khi sản xuất chúng được tồn trữ để đảm bảo
chất lượng sản phẩm. Kết quả khảo sát ảnh hưởng
của nhiệt độ và thời gian tồn trữ sản phẩm được
trình bày ở Bảng 7.
Bảng 7. Kết quả khảo sát ảnh hưởng của nhiệt độ và thời gian tồn trữ sản phẩm
Thời gian
(tuần)
Hàm lượng axit
(% w/v)
Mật số vi khuẩn
(log CFU/mL)
-5 oC - 0 oC 4 oC 25 oC -5 oC - 0 oC 4 oC 25 oC
0 0,62cd 6,85bc
1 0,55f 0,60de 1,61b 5,58e 6,80c 7,44a
2 0,58ef 0,60cde 1,61b 4,91f 6,93bc 5,85d
3 0,58ef 0,60de 1,66a 4,41g 6,90bc 4,41g
4 0,59de 0,63c 1,66a 4,42g 7,02b 5,55e
Ghi chú: Các số liệu trong bảng là giá trị trung bình của 3 lần lặp lại. Các giá trị trong cùng nhóm chỉ tiêu có mẫu tự
giống nhau thì khác biệt không ý nghĩa về mặt thống kê ở độ tin cậy 95%.
Kết quả cho thấy mẫu có nhiệt độ tồn trữ là -5 đến
0 oC có mật số vi khuẩn thấp hơn 6 log CFU/mL
chỉ sau 1 tuần tồn trữ, có thể là do sự hình thành
các tinh thể đá phá hủy vách tế bào dẫn đến tế bào
vi khuẩn bị chết, vì thế không đáp ứng yêu cầu
của sản phẩm probiotic. Mẫu trữ ở nhiệt độ là 25
oC thì mật số sau 1 tuần vẫn tiếp tục tăng (đến
7,44 log CFU/mL), đồng thời hàm lượng axit
cũng tăng và khác biệt có ý nghĩa so với trước tồn
trữ là do ở nhiệt độ này vi khuẩn vẫn phát triển và
tiếp tục lên men. Chính sự phát triển này đã làm
cho sản phẩm sau tồn trữ có mùi rất nồng khó
chịu và vị rất chua. Nhưng từ tuần thứ 2 trở đi thì
mật số vi khuẩn bắt đầu giảm vì hàm lượng axit
do chính vi khuẩn tạo ra đã ức chế ngược lại chính
nó nên hàm lượng axit không tăng nữa và mật số
giảm nhanh chóng (< 6 log CFU/mL). Như vậy,
nhiệt độ này không thích hợp để tồn trữ vì không
giữ được đặc tính của sản phẩm và không thỏa
mãn yêu cầu của sản phẩm probiotic. Những mẫu
còn lại với nhiệt độ tồn trữ là 4 oC thì mật số và
hàm lượng axit tương đối ổn định sau 4 tuần tồn
trữ, tương tự với kết quả nghiên cứu của Yoon và
cs. (2004). Đồng thời, khác biệt không ý nghĩa về
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 24 – 33
33
mặt thống kê với độ tin cậy 95%. Tóm lại, nhiệt
độ 4 oC thích hợp để tồn trữ sản phẩm, đảm bảo
ổn định hàm lượng axit và mật số vi khuẩn so với
sản phẩm trước tồn trữ.
4. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Cả 4 chủng L. acidophilus thử nghiệm đều có khả
năng phát triển trong môi trường có pH thấp và có
khả năng ứng dụng lên men nước cà chua. Chủng
L. acidophilus 01A sinh axit lactic cao hơn các
dòng còn lại và được tuyển chọn để sử dụng trong
sản xuất nước cà chua lên men. Dịch ép cà chua
được phối chế với đường sucrose ở tỷ lệ 9% (w/v)
và ủ ở 37 oC trong 12 giờ cho thấy đã sản xuất
được sản phẩm nước cà chua lên men đạt được sự
đánh giá cao của các thành viên trong hội đồng
đánh giá cảm quan sản phẩm cũng như có được
các yêu cầu của một sản phẩm probiotic. Nồng độ
giống chủng là 6 log tb/mL (tỷ lệ chủng giống 1%
(v/v)) sẽ đảm bảo về mặt chất lượng sản phẩm
cũng như yêu cầu về mật số vi khuẩn cần thiết cho
sản phẩm probiotic. Nhiệt độ tồn trữ sản phẩm ở 4
oC đảm bảo được chất lượng sản phẩm và duy trì
được mật số vi khuẩn ổn định trong 4 tuần tồn trữ.
LỜI CẢM TẠ
Nhóm tác giả xin chân thành cảm ơn sự hỗ trợ
kinh phí của Trường Đại học Cần Thơ cho đề tài
nghiên cứu khoa học cấp cơ sở và một phần hỗ trợ
từ đề tài Nghị định thư của Bộ Khoa học và Công
nghệ (09/2014/HĐ-NĐT).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Fooks L. J. and G. R. Gibson. (2002). Probiotics
as modulators of the gut flora. British Journal
of Nutrition, 88, S39-S49.
Guarner F. and G. J. Schaafsma. (1998).
Probiotics. International Journal of Food
Microbiology, 39, 237 - 238.
Lê Thanh Mai, Nguyễn Thị Hiền, Phạm Thu
Thủy, Nguyễn Thanh Hằng và Lê Thị Lan Chi.
(2005). Các phương pháp phân tích ngành
công nghệ lên men. Hà Nội: Nhà xuất bản
Khoa học và Kỹ thuật.
Marteau, P., de Vrese M., Cellier C. J., and
Schrezenmier J. (2001). Protection from
gasterointestinal diseases with the use of
probiotics. The Amerian Journal of Clinical
Nutrition, 73(2), 430S - 436S.
Mattila-Sandholm, T., P. Myllarinen, R.
Crittenden, G. Mogensen, R. Fonden, and M.
Saarela. (2002). Technological challenges for
future probiotic foods. International Dairy
Journal, 12, 173 - 182.
Ravula, R. R. and Shah, N. P. (1998). Selective
enumeration of Lactobacillus casei from
yoghurts and fermented milk drinks.
Biotechnology Techniques, 12(11), 819 - 822.
Roy, D. (2001). Media for the isolation and
enumeration of Bifidobacteria in dairy
products. International Journal of Food
Microbiology, 69, 167 - 182.
Shah, N. P. (2000). Probiotic bacteria: Selective
enumeration and survival in dairy food. Jounal
of Dairy Science, 83(4), 894 - 907.
Stone, H. S. and Sidel, J. L. (1993). Sensory
evaluation practices. San Diego: Academic.
Suzuki, T., K. Tomita-Yokotani, H. Tsubura, S.
Yoshida, I. Kusakabe, K. Yamada, Y. Miki,
and K. Hasegawa. (2002). Plant growth
promoting oligosaccharides produced from
tomato waste. Bioresource Technology, 81, 91
- 96.
Talwalkar, A., and Kailasapathy, K. (2004).
Comparison of selective and differential media
for accurate enumeration of strains of
Lactobacillus acidophilus, Bifidobacterium
spp. and Lactobacillus casei complex from
commercial yoghurts. International Dairy
Journal, 14, 142 - 149.
Yoon, Y. Kyung, Edward E. Woodams, and Yong
D. Hang. (2004). Probiotication of Tomato
Juice by Lactic Acid Bateria. The Journal of
Microbiology, 42(8), 315 - 318.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 03_huynh_xuan_phong_0_8062_2024222.pdf