Rong sụn nên được trồng trong khu vực quây
lưới kiên cố kết hợp thả cá chẽm để thu được hiệu
quả sinh trưởng và lợi nhuận cao nhất.
Trong trường hợp nuôi trồng đơn, rong nên
được trồng trong khu vực quây lưới bao với kích
thước mắt lưới nhỏ (2a = 2cm) để hạn chế cá dìa
hiệu quả.
Các nghiên cứu điều tra, xác định mức độ
phá hoại của cá dìa theo kích cỡ và mùa vụ, tìm
kiếm thị trường cần được triển khai để nâng cao
hiệu quả kinh tế, đảm bảo thu nhập và ổn định sinh
kế của người trồng rong.
7 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 26/03/2022 | Lượt xem: 215 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu nâng cao năng suất trồng rong sụn (Kappaphycus alvarezii Doty, 1989) bằng cách hạn chế cá dìa (Siganus spp.) ăn rong, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2014
24 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
NGHIÊN CỨU NÂNG CAO NĂNG SUẤT TRỒNG RONG SỤN
(Kappaphycus alvarezii Doty, 1989) BẰNG CÁCH HẠN CHẾ CÁ DÌA
(Siganus spp.) ĂN RONG
RESEARCH ON IMPROVEMENT OF KAPPAPHYCUS (Kappaphycus alvarezii Doty, 1989)
CULTURE PRODUCTION BY PREVENTING RABBIT FISH (Siganus spp.)
Phạm Quốc Hùng1, Lê Thị Hồng Mơ2, Phùng Thế Trung3,
Nguyễn Quang Huy4, Svend Jørgen Steenfeldt5
Ngày nhận bài: 05/10/2013; Ngà y phản biện thông qua: 03/11/2013; Ngày duyệt đăng: 10/3/2014
TÓM TẮT
Nghiên cứu nhằm xác định biện pháp hạn chế cá dìa ăn rong hiệu quả trong vùng trồng rong sụn tại Cam Ranh, nơi
hoạt động trồng rong bị ảnh hưởng lớn bởi sự phá hoại của loài cá này. Thí nghiệm được bố trí ngẫu nhiên hoàn toàn với
12 đơn vị trồng (diện tích mỗi đơn vị 10x10 m2) thuộc 4 nghiệm thức: T1 – quây lưới với kích thước mắt lưới 2a = 2 cm,
T2 – quây lưới 2a= 3 cm, T3 – quây lưới 2a= 5 cm và thả cá chẽm trong vùng trồng, T4 – không quây lưới hạn chế cá dìa.
Kết quả cho thấy, tốc độ sinh trưởng đặc trưng của rong ở T3 cao nhất (3,25% / ngày), tiếp theo là T1 (2,89% / ngày), thấp
nhất là T2 và T4 (lần lượt là 2,49 và 2,57% / ngày). Mặc dù chi phí đầu tư cao nhưng nhờ cho sản lượng lớn, giá thành
sản phẩm rong sụn ở T3 và T1 thấp nhất (15,1 và 16,9 ngàn đồng/kg khô theo thứ tự). Vì thế, hiệu quả kinh tế của hai mô
hình này cao hơn T2 và T4.
Từ khoá: rong sụn, cá dìa, ăn rong, cá dữ, Lates calcarifer
ABSTRACT
An experiment was conducted to determine proper technique for preventing rabbit fi sh from grazing Kappaphycus
on culture area in Cam Ranh, where Kappaphycus cultivation was seriously affected by this herbivorous fi sh species.
Completely randomized design was applied with 12 culture unit (10x10 m2 surface area each) distributed into 4 treatments:
T1 – using net-fence at 2 cm mesh size, T2 – using net-fence at 3cm mesh size, T3 – using net-fence at 5 cm mesh size with
seabass seabass stocked in the area, T4 – without protection. The results showed that, specifi c growth rate of seaweed in
T3 was highest (3.25%.day-1), followed by T1 (2.89%.day-1), and lowest in T2 and T4 (2.49 and 2.57%.day-1, respectively).
Although the investment was high, higher production resulted in the lowest cost prices of seaweed in T3 and T1 (15.1 and
16.9 thousand VND/kg DW, respectively). Therefore, the profi ts of these culture models were higher than T2 and T4.
Keywords: Kappaphycus alvarezii, rabbit fi sh, carnivorous, Lates calcarifer
1 TS. Phạm Quốc Hùng, 2 ThS. Lê Thị Hồng Mơ, 3 ThS. Phùng Thế Trung: Viện Nuôi trồng thủy sản - Trường Đại học Nha Trang
4 TS. Nguyễn Quang Huy: Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản I
5 GS. Svend Jørgen Steenfeldt: Viện Nghiên cứu Nguồn lợi thủy sản Đan Mạch (DTU Aqua)
THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Rong sụn (Kappaphycus alvarezii) là loài rong
đỏ nhiệt đới phân bố tự nhiên ở một số quốc gia
Châu Á, đặc biệt là Philippines và Indonesia. Đây
là nguồn rong biển kinh tế quan trọng trong chiết
xuất kappa- Carrageenan [6], [7]. Tại Việt Nam, rong
sụn được nuôi tr ồng nhiều ở các tỉnh ven biển Nam
Trung Bộ như Phú Yên, Khánh Hòa và Ninh Thuận
[2], [6]. Đây là loài rong được di nhập từ năm 1993
với mục tiêu xóa đói giảm nghèo và đã thành công
trong việc bảo đảm sinh kế cho nhiều cộng đồng cư
dân ven biển [1], [2]. Nghề trồng rong sụn ven biển
tại Việt Nam còn nhiều tiềm năng phát triển cả về
diện tích lẫn sản lượng. Tuy nhiên, việc phát triển
trồng loại rong này còn gặp phải một số khó khăn
về nguồn giống, giá thu mua, bệnh và địch hại [2].
Vì hoạt động nuôi trồng rong sụn diễn ra trong vùng
biển mở, địch hại mà chủ yếu là các loài thuộc giống
cá dìa Siganus ăn rong là khó khăn thường xuyên
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2014
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 25
làm giảm năng suất nuôi trồng. Việc hạn chế cá dìa
trong vùng trồng rong sụn sẽ nâng cao năng suất,
sản lượng và thu nhập của người trồng rong [1].
Đã có một số biện pháp hạn chế cá dìa ăn rong
như lựa chọn vùng trồng ít cá dìa hoặc quây lưới
quanh vùng trồng rong nhưng hiệu quả mang lại
thấp, chưa được kiểm chứng cũng như chưa xác
định được kích thước mắt lưới phù hợp [2].
Trong bối cảnh đó, việc cải tiến mô hình trồng
rong sụn bằng cách sử dụng lưới bao phù hợp hoặc
thả nuôi cá dữ xua đuổi cá dìa là hướng nghiên cứu
mới hứa hẹn và có ý nghĩa thiết thực. Trong bối
cảnh giá rong nguyên liệu tăng giảm thất thường
như hiện nay, hạn chế sự phá hoại của cá dìa nhằm
tăng năng suất là việc làm cần thiết nhằm đảm bảo
thu nhập ổn định của người trồng rong.
Nghiên cứu này được tiến hành nhằm xác định
được biện pháp hạn chế cá dìa hiệu quả trong vùng
trồng rong sụn. Từ đó góp phần nâng cao năng suất
và hiệu quả kinh tế của nghề trồng rong sụn ven
biển miền Trung.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng và thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu tiến hành trên rong sụn
(Kappaphycus alvarezii) tại vùng biển thuộc vịnh
Cam Ranh từ 4/2013 đến 7/2013.
2. Phương pháp bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm được bố trí với 4 nghiệm thức và
3 lần lặp lại cho mỗi nghiệm thức. Các đơn vị thí
nghiệm (lần lặp) được bố trí ngẫu nhiên hoàn toàn
trên diện tích 10x150 m2. Mỗi đơn vị thí nghiệm
được triển khai trên diện tích 10x10 m2 với mật độ
ra giống khoảng 1 kg/m2.
Các đơn vị thí nghiệm được bố trí cách nhau 5 m.
Vì khu triển khai thí nghiệm có diện tích hẹp, kéo dài
vuông góc với hướng thủy triều lên xuống nên các lô
căng lưới không ảnh hưởng nhiều đến các lô kế cận.
Hình 1. Sơ đồ bố trí ngẫu nhiên hoàn toàn các đơn vị thí nghiệm
Nghiệm thức T1: bao lưới (cước trắng) bảo vệ với kích thước mắt lưới nhỏ 2a = 2 cm.
Nghiệm thức T2: bao lưới (cước trắng) bảo vệ với kích thước mắt lưới vừa 2a = 3 cm.
Nghiệm thức T3: trồng rong kết hợp thả nuôi cá chẽm (Lates calcarifer) (cỡ 420 ± 26 g/con, mật độ 1kg/10 m2)
trong khu bao lưới (PE đen) mắt lưới lớn 2a = 5 cm. Việc bao lưới PE chủ yếu với mục đích thả nuôi nhốt cá
chẽm, không nhằm hạn chế cá ăn rong bằng cách bao lưới. Cá chẽm không được cho ăn.
Nghiệm thức T4: đối chứng; không sử dụng lưới bao và cá dữ để bảo vệ rong trước cá dìa.
Thí nghiệm được tiến hành trong 12 tuần, trùng thời gian chính vụ trồng rong sụn tại địa phương thí nghiệm.
Tất cá các biện pháp chăm sóc và quản lý khác được bảo đảm tiến hành như nhau ở các lô thí nghiệm.
3. Phương pháp thu thập số liệu
3.1. Theo dõi các yếu tố môi trường
Một số yếu tố môi trường liên quan được xác định hàng tuần theo phương pháp và thiết bị được trình bày
trong bảng 1.
Bảng 1. Phương pháp xác định các yếu tố môi trường nước trong vùng trồng rong
Yếu tố Phương pháp, thiết bị đo Độ chính xác
Nhiệt độ Nhiệt kế thủy ngân 1oC
Độ mặn Khúc xạ kế 1ppt
pH pH test 0,5
Độ trong Đĩa Secchi 5 cm
Ammonia (TAN) Pp Phenate 1 µg/L
Phospho hòa tan (PO4-P) Pp Ascorbic acid 1 µg/L
Chất rắn lơ lửng (TSS) Sấy ở 103oC trong 24h 1 mg/L
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2014
26 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
3.2. Các chỉ tiêu sinh trưởng
Định kỳ hàng tuần thu ngẫu nhiên 30 cụm rong
trong mỗi khung thí nghiệm để cân và tính khối
lượng trung bình. Qua đó, tốc độ sinh trưởng bình
quân ngày (DWG) và tốc độ sinh trưởng đặc trưng
về khối lượng (SGR) được xác định theo thời gian
thu mẫu bằng các công thức sau.
DWG (g/ngày) = (W2 – W1) / (t2 – t1)
SGR (%/ngày) = 100 x ln(W2/W1) / (t2 – t1)
Trong đó: W1 là khối lượng rong (g) tại ngày
nuôi t1, W2 là khối lượng rong (g) tại ngày nuôi t2.
Bên cạnh đó, khoảng 1kg rong tươi trong mỗi
đơn vị thí nghiệm cũng được thu đem đi sấy khô ở
1050C trong 24 giờ để xác định tỷ lệ khô tươi trong
từng lần thu mẫu.
3.3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế
Chi phí cho từng khung rong của từng nghiệm
thức và khấu hao vật liệu cũng được ghi nhận để
xác định tổng chi cho từng nghiệm thức. Từ năng
suất, sản lượng rong thu hoạch ở từng nghiệm thức
kết hợp với giá bán rong nguyên liệu tại thời điểm
thu hoạch, mức thu ở từng nghiệm thức cũng sẽ
được xác định.
Với các số liệu kể trên, giá thành và lợi nhuận
trên từng đơn vị khối lượng rong sản xuất được sẽ
được xác định nhằm so sánh hiệu quả kinh tế giữa
các mô hình trồng rong thí nghiệm.
4. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu
Số liệu được lưu trữ và xử lý trên phần mềm
MS Excel 2007. Khác biệt trong từng chỉ tiêu giữa
các nghiệm thức được so sánh bằng cách phân
tích phương sai một nhân tố (Oneway ANOVA)
và kiểm chứng bằng Turkey Test trên phần mềm
SPSS 20.
Số liệu được trình bày dưới dạng Mean ± SD
(giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn).
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
1. Diễn biến các yếu tố môi trường nước khu
vực nghiên cứu
Hầu hết các yếu tố môi trường trong vùng
trồng rong tương đối ổn định giữa các đơn vị thí
nghiệm khác nhau. Qua thời gian thí nghiệm, nhiệt
độ dao động trong khoảng 25 - 320C, phù hợp với
khoảng thích nghi của cả rong sụn [5], [7] và cá
chẽm [3], [4]. pH chỉ thỉnh thoảng đạt giá trị cao,
gần 9 vào buổi chiều. Độ mặn cũng tương đối ổn
định, giao động từ 28 - 33 ppt do không có mưa lớn
kéo dài. Yếu tố môi trường thay đổi lớn nhất là độ
trong, dao động trong khoảng 65 - 120 cm do ảnh
hưởng của con nước thủy triều và sự phát triển
của tảo chủ yếu xả thải ra từ khu nuôi tôm gần đó.
Độ trong ảnh hưởng lớn đến sinh trưởng của rong
biển vì gián tiếp ảnh hưởng đến lượng ánh sáng
rong sử dụng cho quang hợp. Tuy vậy, thời gian độ
trong thấp tại vùng thí nghiệm không kéo dài nên
không ảnh hưởng lớn đến sinh trưởng của rong
sụn nuôi trồng.
Bảng 2. Diễn biến các yếu tố môi trường nước tại vùng thí nghiệm
Yếu tố Trung bình Thấp nhất Cao nhất
Nhiệt độ (0C) Sáng 28 ± 1,4 25 29
Chiều 30 ± 1,9 27 32
pH Sáng - 7,5 8,0
Chiều - 8,0 9,0
Độ mặn (ppt) 30 ± 1,5 28 33
Độ trong (cm) 92 ± 18,3 65 120
Ammonia tổng số (µg/L) 54 ± 8,7 41 70
Phospho hòa tan (µg/L) 12 ± 2,0 9 16
Chất rắn lơ lửng (mg/L) 19 ± 8,8 12 38
Các yếu tố môi trường có sự biến động theo
thời gian thí nghiệm. Theo đó, nhiệt độ có xu hướng
tăng dần từ thấp đến cao theo thời gian chuyển mùa.
Độ mặn biến động tùy thuộc vào con nước và ảnh
hưởng của nước ngọt đổ về sau các cơn mưa. Cũng
trong thời gian thí nghiệm, hàm lượng ammonia tổng
số có chiều hướng giảm đều ở tất cả các đơn vị thí
nghiệm trong khi hàm lượng chất rắn lơ lửng tăng
nhẹ; còn hàm lượng phospho hòa tan lại tương đối
ổn định. Những biến đổi này có thể là do tác động
tổng hợp của mùa vụ, sự lên xuống của thủy triều
cũng như việc xả thải nước từ khu nuôi tôm ven bờ
gần khu vực thí nghiệm. Hàm lượng ammonia tổng
số thường chiếm hơn 55% hàm lượng nitrogen tổng
số trong nước biển [5]. Như vậy, có thể thấy hàm
lượng nitrogen trong nước biển vùng trồng rong thí
nghiệm đạt giá trị trung bình trên 0,1 mg/L, phù hợp
với nhu cầu sinh trưởng của rong sụn nuôi trồng.
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2014
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 27
Kết quả phân tích phương sai một nhân tố cho
thấy, sinh trưởng của rong sụn khác nhau ở các
nghiệm thức khác nhau. Trong hai tuần đầu sau khi
ra giống, khối lượng trung bình của các cụm rong ở
tất cả các nghiệm thức tương đương nhau. Nhưng
tuần tiếp theo, sự khác biệt này ngày càng rõ rệt.
Theo đó, sinh khối rong trồng trong khu vực kết hợp
thả cá chẽm tăng nhanh và đều, tiếp theo bởi rong
trồng trong vùng quây lưới dày, thấp hơn là vùng
quây lưới thưa và cuối cùng là rong trồng trong vùng
không được bảo vệ bởi cả cá và lưới. Kết quả này
thể hiện rõ trong hình 2 và bảng 3.
Số liệu trình bày trong bảng 3 cho thấy, từ ngày
nuôi thứ 15, rong sụn trồng trong khu vực được bảo vệ
bởi cá chẽm thể hiện sự tăng nhanh vượt trội về sinh
khối khi khối lượng trung bình thường xuyên cao hơn
có ý nghĩa so với các nghiệm thức còn lại. Kết quả này
có thể do tác dụng hạn chế cá dìa của cá chẽm trong
vùng trồng rong sụn; vì với điều kiện môi trường tương
đồng giữa các nghiệm thức, chỉ có cá dìa là đối tượng
kìm hãm sinh trưởng của rong thí nghiệm.
Giữa hai nghiệm thức T1 và T2, phải đến ngày
nuôi thứ 40, hiệu quả của việc quây lưới dày so với
lưới thưa mới được thể hiện rõ ràng. Vào thời điểm
này, sự xuất hiện nhiều của cá dìa con được ghi
nhận. Chúng đi thành từng đàn với sức phá hoại lớn
hơn đối với rong sụn so với cá dìa ở các kích cỡ lớn
hơn. Điều này phù hợp với ý kiến cho rằng, cá dìa
giai đoạn nhỏ đi thành từng đàn lớn, thích ăn ngọn
non vốn là đỉnh sinh trưởng của rong sụn làm rong
gần như không sinh trưởng được (Huỳnh Quang
Năng, 2004 – thông tin trao đổi trực tiếp). Như vậy,
việc quây lưới với kích thước mắt lưới nhỏ đã hạn
chế phần nào sự tấn công của đàn cá này trong khi
lưới quây với kích thước lớn hơn hầu như không
có tác dụng với chúng. Chính điều này đã dẫn đến
sinh khối rong sụn trồng trong vùng quây lưới thưa
ngày càng trở nên tương đồng với vùng trồng rong
không được bảo vệ sau mùa sinh sản của cá dìa.
Bằng chứng của việc cá dìa con xuất hiện nhiều là
khi nhiều ngư dân thông báo rằng chỉ sau 15 phút
thả lưới với chiều dài 10 0m, họ có thể thu được hơn
1 kg cá dìa có kích cỡ dưới 20 g/con (Nguyễn Văn
Hải, 2013 - thông tin trao đổi trực tiếp).
2. Sinh trưởng của rong sụn trồng với các biện pháp hạn chế cá dìa khác nhau
Hình 2. Sinh trưởng của rong sụn trồng tại các nghiệm thức khác nhau
Các ký tự a,b,c,d trên đồ thị thể hiện sự sai khác về mặt thống kê (p<0,05)
Bảng 3. Khối lượng rong sụn (g/cụm) ở các nghiệm thức thí nghiệm
Ngày nuôi T1 T2 T3 T4
1 98 ± 0,6a 98 ± 0,6a 97 ± 2,1a 98 ± 2,1a
9 121 ± 2,0a 120 ± 4,4a 127 ± 4,0a 117 ± 5,5a
15 140 ± 1,5b 129 ± 4,6ab 158 ± 2,1c 120 ± 7,0a
23 186 ± 3,6b 155 ± 6,8a 221 ± 13,5c 142 ± 11,8a
30 233 ± 2,6b 214 ± 9,6ab 281 ± 8,0c 188 ± 15,6a
39 319 ± 2,1b 277 ± 28,0a 365 ± 10,8c 237 ± 9,9a
47 474 ± 0,6c 420 ± 30,9b 528 ± 7,4d 249 ± 17,5a
54 643 ± 10,6c 484 ± 31,4b 797 ± 13,4d 316 ± 15,0a
61 786 ± 25,0c 571 ± 46,9b 1077 ± 65,0d 400 ± 41,2a
68 884 ± 43,2c 687 ± 65,4b 1329 ± 69,5d 483 ± 30,7a
75 1020 ± 56,0b 746 ± 100,4a 1486 ± 106,0c 605 ± 53,7a
88 1221 ± 40,4b 916 ± 49,1a 1641 ± 80,3c 851 ± 72,7a
Trên cùng một hàng, các ký tự a, b, c, d thể hiện sự sai khác về mặt thống kê (p<0,05)
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2014
28 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Nhìn chung, tốc độ sinh trưởng tuyệt đối
của rong sụn cao nhất ở nghiệm thức T3, đạt
17,7 ± 0,93 g/ngày, tương đương với tốc độ sinh
trưởng đặc trưng đạt 3,25 ± 0,072 %/ngày, và sai
khác có ý nghĩa về mặt thống kê so với tất cả các
nghiệm thức còn lại. Tiếp theo là nghiệm thức
bảo vệ rong bằng lưới với kích thước mắt lưới nhỏ
(2a = 2cm) với tốc độ sinh trưởng tuyệt đối đạt
12,9 ± 0,47 g/ngày. Tốc độ sinh trưởng của rong
ở nghiệm thức T2 và T4 thấp nhất khi chỉ đạt giá
trị dưới 10 g/ngày và sai khác không có ý nghĩa về
mặt thống kê (p < 0,05).
Bảng 4. Tốc độ sinh trưởng và tỷ lệ khô tươi của rong sụn ở các nghiệm thức
Nghiệm thức DWG (g/ngày) SGR (%/ngày) Tỷ lệ khô tươi (%)
T1 12,9 ± 0,47b 2,89 ± 0,039b 8,61 ± 0,012b
T2 9,4 ± 0,57a 2,57 ± 0,067a 8,50 ± 0,023a
T3 17,7 ± 0,93c 3,25 ± 0,072c 8,74 ± 0,010c
T4 8,7 ± 0,82a 2,49 ± 0,081a 8,50 ± 0,035a
Trên cùng một cột, các ký tự a,b,c,d thể hiện sự sai khác về mặt thống kê (p<0,05)
Cũng tương tự tốc độ sinh trưởng, tỷ lệ khô tươi
của rong trồng ở các nghiệm thức cũng thể hiện sai
khác với lượng chất khô cao nhất thuộc về rong thu
ở nghiệm thức T3, tiếp theo là nghiệm thức T1 và
cuối cùng là 2 nghiệm thức T2 và T4. Một số nghiên
cứu cho rằng, rong sụn bị tàn phá bởi cá dìa ở mức
độ vừa phải có khả năng kích thích sinh trưởng và
làm cho rong tích lũy tốt hơn, thể hiện ở tỷ lệ khô
tươi cao hơn (Trần Kha, 2004 – thông tin trao đổi
trực tiếp). Tuy nhiên, trong trường hợp này, rong
sụn chịu sự tàn phá liên tục bởi các đàn cá dìa kích
thước nhỏ làm tốc độ sinh trưởng giảm mạnh cùng
tỷ lệ tích lũy vật chất kém hơn rong được bảo vệ tốt.
Tóm lại, do môi trường tương đối đồng nhất,
sự khác biệt về sinh trưởng của rong ở các nghiệm
thức khác nhau chủ yếu do tác động của cá dìa ăn
rong. Trong giai đoạn đầu của thí nghiệm, cá dìa
xuất hiện ít và chủ yếu có kích thước lớn, gây hại
không nhiều và khó xâm nhập vào vùng trồng rong
có quây lưới để ăn rong. Trong giai đoạn sau, cá dìa
con với kích thước nhỏ xuất hiện nhiều gây hại cho
rong ở cả ngoài và trong khu vực quây lưới bảo vệ.
Tuy nghiệm thức 3 chỉ được quây bằng lưới thưa
(2a = 5cm), sự hiện diện của cá chẽm đã hạn chế
hiệu quả sự phá hoại của cá dìa giúp rong sụn sinh
trưởng tốt hơn các nghiệm thức còn lại.
3. Đánh giá sơ bộ hiệu quả kinh tế ở các nghiệm thức
Bảng 5. Chi phí sản xuất (triệu đồng/vụ) ở các nghiệm thức khác nhau
Mục chi T1 T2 T3 T4
Dây phao 0,1 0,1 0,1 0,1
Rong giống 1,0 1,0 1,0 1,0
Ra giống 0,1 0,1 0,1 0,1
Lưới, cọc 0,6 0,5 0,8 0,2
Cá chẽm giống 0,0 0,0 1,5 0,0
Chăm sóc 0,6 0,6 0,6 0,6
Lắp đặt 0,4 0,4 0,8 0,2
Thu hoạch 0,2 0,2 0,2 0,2
Thanh lý cá chẽm -0,0 -0,0 -1,5 -0,0
Sơ chế 0,1 0,1 0,1 0,1
Tổng chi 3,1 3,0 3,7 2,5
Chi phí tính cho 100m2 diện tích nuôi trồng; cá chẽm không được cho ăn nên không có chi phí thức ăn.
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2014
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 29
Bảng 6 cũng cho thấy, giá thành sản phẩm
rong ở nghiệm thức T3 thấp nhất tuy sai khác
không có ý nghĩa thống kê so với nghiệm thức T1.
Giá thành sản phẩm cao nhất ở nghiệm thức T2 và
sai khác có ý nghĩa với tất cả các nghiệm thức còn
lại. Như vậy, trồng rong sụn với biện pháp hạn chế
cá dìa bằng cách quây lưới thả cá chẽm bảo vệ
hoặc bằng lưới có kích thước mắt lưới nhỏ mang
lại hiệu quả kinh tế cao. Ngược lại, hiệu quả kinh
tế của việc đầu tư trồng rong trong vùng bảo vệ
bằng lưới có mắt lưới lớn còn thấp hơn so với vùng
không quây lưới bảo vệ. Do đó, trong vùng cá dìa
xuất hiện nhiều, đặc biệt sau mùa cá dìa sinh sản,
nếu quây lưới hạn chế cá dìa ăn rong chỉ nên sử
dụng lưới với kích thước mắt lưới nhỏ (2a = 2 cm),
nhỏ hơn loại lưới thường được người dân sử dụng
hiện nay (2a = 3 cm).
Ở thời điểm hiện tại, giá rong sụn nguyên liệu
rất không ổn định. Rong sụn thường xuyên ở mức
giá dưới 20 ngàn đồng/kg sau sơ chế dẫn đến
doanh thu không bù được chi phí. Vì thế, hàng loạt
khu trồng rong tại Cam Ranh hiện đang bị bỏ hoang,
người dân trồng rong không quan tâm chăm sóc và
thu hoạch. Với mức giá 20 ngàn đồng/kg, trồng rong
theo mô hình thông thường hiện nay (nghiệm thức
T2) sẽ bị thua lỗ. Vì thế, rong nên được trồng bằng
các mô hình hiệu quả hơn (nghiệm thức T3, T1).
Mặt khác, chính quyền và các cơ quan quản lý
cần có biện pháp tìm đầu ra với giá rong nguyên
liệu cao ổn định như thời điểm trước năm 2010 để
người trồng rong không còn bỏ nghề đi đánh bắt
thủy sản ven bờ, phá hoại môi trường sinh thái. Khi
giá rong cao trở lại, việc trồng rong với biện pháp
bảo vệ kết hợp quây lưới và thả cá chẽm hạn chế
cá dìa ăn rong có thể mang lại hiệu suất đầu tư trên
30%/tháng (với giá bán 30 ngàn đồng/kg).
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Các yếu tố môi trường nước tương đồng giữa
các nghiệm thức. Do đó, việc quây lưới, thả cá
chẽm (1 kg/10 m2) ảnh hưởng không đáng kể đến
các yếu tố môi trường trong khu vực trồng rong sụn.
Rong sụn sinh trưởng tốt nhất ở nghiệm thức
quây lưới bao (2a = 5 cm) kết hợp thả cá chẽm,
tiếp đến là nghiệm thức quây lưới có mắt lưới nhỏ
(2a = 2 cm). Việc quây lưới có mắt lưới vừa
(2a = 3 cm) rong sinh trưởng thấp nhất, tương
đương với biện pháp trồng rong không quây lưới.
Mặc dù chi phí đầu tư trồng rong trong vùng
quây lưới thả nuôi cá chẽm bảo vệ cao nhất, giá
thành sản phẩm rong thu hoạch ở nghiệm thức này
Bảng 6. Giá thành và lợi nhuận của hoạt động trồng rong sụn ở từng mô hình
Nghiệm thức T1 T2 T3 T4
Sản lượng tươi (kg/100m2) 1221 916 1641 851
Sản lượng sau sơ chế (kg/100m2) 183 ± 6,1b 137± 7,4a 246 ± 12,0c 128 ± 10,9a
Chi phí (triệu đồng/100m2) 3,1 3 3,7 2,5
Giá thành (ngàn đồng/kg) 16,9 ± 0,56ab 21,9 ± 1,21c 15,1 ± 0,75a 19,7 ± 1,67bc
Lợi nhuận (ngàn đồng/kg)
Với giá bán 20 ngàn/kg 3,1 -1,9 4,9 0,3
Với giá bán 30 ngàn/kg 13,1 8,1 14,9 10,3
Tỷ suất lợi nhuận (%/tháng)
Với giá bán 20 ngàn/kg 6,0 -2,8 10,9 0,6
Với giá bán 30 ngàn/kg 25,7 12,4 33,1 17,5
Chi phí cho một đơn vị thí nghiệm được tính
toán và liệt kê trong bảng 5. Sự khác biệt về chi
phí trong từng hạng mục chủ yếu đến từ yêu cầu
khác nhau về mức độ kiên cố của công trình. Số
liệu cho thấy, đầu tư cho 100m2 trồng rong kết hợp
thả cá chẽm là 3,7 triệu đồng, chỉ cao gấp khoảng
1,2 lần các mô hình quây lưới bảo vệ và gần
1,5 lần mô hình trồng rong không bảo vệ. Trong
khi đó, nhờ sản lượng rong thu hoạch cao nhất
(246 ± 12 kg sau sơ chế), giá thành sản xuất 1 kg
rong sụn ở nghiệm thức 3 thấp nhất dẫn đến lợi
nhuận và tỷ suất đầu tư trồng rong ở mô hình
này cao nhất. Kết quả này được trình bày trong
bảng 6.
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2014
30 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
thấp nhất, chỉ sai khác không có ý nghĩa với nghiệm
thức quây lưới có mắt lưới nhỏ (2a = 2 cm). Trồng
rong sụn trong vùng quây lưới có kích thước mắt
lưới vừa (2a = 3 cm) tốn kém nhưng hiệu quả kinh
tế mang lại không cao.
2. Kiến nghị
Rong sụn nên được trồng trong khu vực quây
lưới kiên cố kết hợp thả cá chẽm để thu được hiệu
quả sinh trưởng và lợi nhuận cao nhất.
Trong trường hợp nuôi trồng đơn, rong nên
được trồng trong khu vực quây lưới bao với kích
thước mắt lưới nhỏ (2a = 2cm) để hạn chế cá dìa
hiệu quả.
Các nghiên cứu điều tra, xác định mức độ
phá hoại của cá dìa theo kích cỡ và mùa vụ, tìm
kiếm thị trường cần được triển khai để nâng cao
hiệu quả kinh tế, đảm bảo thu nhập và ổn định sinh
kế của người trồng rong.
Lời cảm ơn
Nghiên cứu này là kết quả hợp tác giữa Viện
Nuôi trồng thủy sản, Trường Đại học Nha Trang
với Phân viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản Bắc
Trung bộ trong khuôn khổ dự án “Sử dụng hợp lý
nguồn dinh dưỡng để phát triển nuôi trồng thủy sản
bền vững ở miền Trung Việt Nam trong bối cảnh của
biến đổi khí hậu’’. Dự án do Chính phủ Đan Mạch tài
trợ thông qua Bộ Ngoại giao Đan Mạch. Chúng tôi
chân thành cảm ơn Chính phủ Đan Mạch đã tài trợ
cho dự án nói trên.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Nguyễn Xuân Lý, Huỳnh Quang Năng và Nguyễn Hữu Dinh, 1998. Bước đầu thử nghiệm trồng rong Sụn Kappaphycus
alvarezii (Doty) Doty ở vùng biển ven bờ Khánh Hoà và Ninh Thuận. Tuyển tập các Công trình nghiên cứu Nghề cá biển,
Tập 1: 282-287.
2. Huỳnh Quang Năng và Nguyễn Hữu Dinh, 1998. Kết quả nghiên cứu di trồng rong Sụn Kappaphycus alvarezii vào vùng biển
Việt Nam. Tuyển tập Báo cáo Hội nghị KHCN Biển toàn quốc, Tập IV: 942-947.
Tiếng Anh
3. FAO, 1989. Propagation of seabass Lates calcarifer in captivity. FAO Fisheries and Aquaculture Department, Rome.
4. Katersky, R.S. and Carter, C.G., 2007. High growth effi ciency occurs over a wide temperature range for juvenile barramundi
Lates calcarifer fed a balanced diet. Aquaculture, 272: 444-450.
5. Muñoz, J., Freile-Pelegrín, Y. and Robledo, D., 2004. Mariculture of Kappaphycus alvarezii (Rhodophyta, Solieriaceae)
color strains in tropical waters of Yucatán, México. Aquaculture, 239: 161-177.
6. Ohno, M., Nang, H.Q. and Hirase, S., 1996. Cultivation and Carrageenan yield and quality of Kappaphycus alvarezii in the
waters of Vietnam. Journal of Applied Phycology, 8: 431-437.
7. Trono, G.C., 1992. Eucheuma and Kappaphycus: Taxonomy and cultivation. Kochi University: Bulletin for Marine Science
and Fish, 12: 51-56.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nghien_cuu_nang_cao_nang_suat_trong_rong_sun_kappaphycus_alv.pdf