IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Ốc đĩa là loài phân tính đực cái riêng biệt và có
thể phân biệt được giới tính của ốc dựa vào màu sắc
của cơ quan sinh dục. Ốc đĩa đực khi thành thục sinh
dục, cơ quan sinh dục có màu vàng nâu; ốc đĩa cái
cơ quan sinh dục màu trắng sữa. Tỷ lệ đực cái của
ốc đĩa thay đổi theo thời gian nghiên cứu. Tỷ lệ đực :
cái trung bình là 1:1,3. Ốc đĩa có cơ quan sinh dục
trải qua 5 giai đoạn phát triển.
Sức sinh sản tuyệt đối (Fa) của ốc đĩa dao động
trong khoảng 32.478 ÷ 197.674 trứng/cá thể, trung
bình 95.221 trứng/cá thể. Sức sinh sản tương đối
(Frg1) dao động trong khoảng 5.612 ÷ 22.482 trứng/g
cá thể, trung bình 11.069 trứng/g cá thể.
Mùa vụ sinh sản của ốc đĩa kéo dài từ tháng 6
đến hết tháng 10, trong đó mùa vụ sinh sản chính từ
tháng 8 đến tháng 10.
2. Kiến nghị
Cần tiến hành nghiên cứu sinh sản nhân tạo
loài ốc đĩa này nhằm góp phần bảo vệ nguồn lợi và
mở rộng đối tượng nuôi trong nuôi trồng thủy sản.
6 trang |
Chia sẻ: thucuc2301 | Lượt xem: 506 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học sinh sản của ốc đĩa (Nerita balteata Reeve, 1885) ở Quảng Ninh - Đặng Khánh Hùng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2014
114 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
KEÁT QUAÛ NGHIEÂN CÖÙU ÑAØO TAÏO SAU ÑAÏI HOÏC
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC SINH SẢN
CỦA ỐC ĐĨA (Nerita balteata Reeve, 1885) Ở QUẢNG NINH
RESEARCH ON SOME REPRODICTIVE BIOLOGICAL CHARACTERISTICS
OF MANGROVE SNAIL (Nerita balteata Reeve, 1885) IN QUANG NINH
Đặng Khánh Hùng1, Vũ Trọng Đại2, Ngô Anh Tuấn3, Nguyễn Đình Huy4
Ngày nhận bài: 31/7/2013; Ngày phản biện thông qua: 14/8/2013; Ngày duyệt đăng:10/3/2014
TÓM TẮT
Ốc đĩa (Nerita balteata) là động vật chân bụng có thịt thơm ngon, giàu dinh dưỡng, sử dụng là một món ăn đặc sản
được nhiều người ưa chuộng. Tuy nhiên, ốc đĩa là đối tượng mới ở nước ta nên sản lượng cung cấp trên thị trường hoàn
toàn là khai thác từ tự nhiên, vì vậy trữ lượng ốc đĩa ngày càng giảm sút do khai thác quá mức. Bài báo trình bày kết quả
nghiên cứu một số đặc điểm sinh học sinh sản của ốc đĩa trong 12 tháng nghiên cứu với tổng số 463 mẫu được thu thập
từ 4 địa phương của vùng biển tỉnh Quảng Ninh. Kết quả nghiên cứu cho thấy ốc đĩa là loài phân tính đực cái riêng biệt,
trong đó ốc đĩa đực có tuyến sinh dục màu vàng nâu; ốc đĩa cái có tuyến sinh dục màu trắng sữa. Tỷ lệ đực: cái trung bình
là 1:1,3. Tuyến sinh dục của ốc đĩa phát triển trải qua 5 giai đoạn. Sức sinh sản tuyệt đối (F
a
) của ốc đĩa dao động trong
khoảng 32.478 ÷ 197.674 trứng/cá thể cái, trung bình 95.221 trứng/cá thể cái. Sức sinh sản tương đối (F
rg
) dao động trong
khoảng 5.612 ÷ 22.482 trứng/g cá thể cái, trung bình 11.069 trứng/g cá thể cái. Mùa vụ sinh sản của ốc đĩa ngoài tự nhiên
là từ tháng 6 đến hết tháng 10, trong đó mùa vụ sinh sản chính từ tháng 8 đến tháng 10.
Từ khóa: ốc đĩa, Nerita balteata, đặc điểm sinh sản, tuyến sinh dục, sức sinh sản
ABSTRACT
Mangrove snail (Nerita balteata) belongs to the class of gastropods is delicious food with full of nutrition and highly
commercial value. However, due to a new species in Vietnam, a production of mangrove snail has been exploited from the
sea; therefore, the yield of this species is being depleted because of over catching. This paper presents an investigated
result on some reproductive biological characteristics of mangrove snail after 12 months with 463 specimens collected from
4 areas in Quang Ninh province. The result showed that, mangrove snail is a sex separated species, in which a gonadal
organ colour of male snail is brown yellow and female is milky white. The average of male and female ratio was 1:1.3. The
gonadal development of mangrove snail underwent 5 stages. The absolute fecundity (F
a
) ranged from 32.478 to 197.674
eggs/female (average: 95.221 eggs/female). The relative fecundity (F
rg
) was ranged from 5.612 to 22.482 eggs/ g of female
(average: 11.069 eggs/female).
Keywords: Mangrove snail, Nerita balteata, reproductive biology, gonadal organ, fecundity
1 Đặng Khánh Hùng: Cao học Nuôi trồng thủy sản 2010 – Trường Đại học Nha Trang
2 ThS. Vũ Trọng Đại, 3 TS. Ngô Anh Tuấn, 4 ThS. Nguyễn Đình Huy: Viện Nuôi trồng thủy sản – Trường Đại học Nha Trang
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ốc đĩa (Nerita balteata) là loài hải sản có giá trị
cao và được xem như là món ăn đặc sản của vùng
biển Quảng Ninh. Ở nước ta, ốc đĩa phân bố tập
trung ở các vùng bãi triều, rừng ngập mặn tại Quảng
Ninh và một số tỉnh phía Nam. Loài ốc này có giá
trị kinh tế cao, ở Quảng Ninh giá bán ốc đĩa trên
thị trường dao động trong khoảng 400 - 500 ngàn
đồng/kg (Ngô Anh Tuấn, 2012).
Trong những năm gần đây, nhu cầu tiêu thụ
nội địa đối với loài ốc này là rất lớn, đặc biệt là ở
Quảng Ninh. Chính vì vậy, người dân đã chạy theo
lợi nhuận, khai thác ốc đĩa quá mức dẫn đến nguồn
lợi ngoài tự nhiên đang đứng trước nguy cơ bị suy
giảm một cách nghiêm trọng. Tuy nhiên, cho đến nay
chưa có bất cứ công trình nghiên cứu khoa học nào
nghiên cứu về đặc điểm sinh học sinh sản cũng như
quy trình kỹ thuật sản xuất giống nhân tạo ốc đĩa
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2014
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 115
tại Việt Nam. Do đó, việc nghiên cứu một số đặc
điểm sinh học sinh sản của ốc đĩa là rất cần thiết,
làm cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu xây dựng
quy trình kỹ thuật sản xuất giống nhân tạo ốc đĩa ở
nước ta.
II. ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
1. Địa điểm, thời gian và đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: ốc đĩa (Nerita balteata).
Mẫu ốc đĩa được thu ngẫu nhiên tại 4 địa phương
của tỉnh Quảng Ninh (Hạ Long, Cẩm Phả, Vân Đồn,
Tiên Yên, Đầm Hà), trong thời gian 12 tháng (từ
tháng 1/2012 đến tháng 12/2012). Mẫu ốc sau đó
được chuyển về phân tích tại Phòng Thực hành
bệnh học, Trung tâm Thí nghiệm Thực hành -
Trường Đại học Nha Trang.
2. Nội dung nghiên cứu
Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học sinh sản
của ốc đĩa Quảng Ninh, gồm có các chỉ tiêu sau:
phân biệt giới tính và tỷ lệ đực, cái; các giai đoạn
phát triển tuyến sinh dục; xác định sức sinh sản và
mùa vụ sinh sản của ốc đĩa.
3. Phương pháp thu và phân tích mẫu
3.1. Phương pháp thu mẫu
Mẫu ốc đĩa được trực tiếp mỗi tháng một lần
trong 12 tháng (từ tháng 1/2012 đến tháng 12/2012)
bằng phương pháp thủ công tại các bãi rừng ngập
mặn ở 4 địa phương của tỉnh Quảng Ninh: Hạ Long,
Cẩm Phả, Vân Đồn, Tiên Yên, Đầm Hà. Sau đó,
tổng số mẫu ốc đĩa được trộn lẫn và lấy mẫu ngẫu
nhiên ≥ 30 con/tháng để xác định các chỉ tiêu sinh
học sinh sản.
3.2. Phương pháp xác định các đặc điểm sinh học
sinh sản
- Xác định giới tính và tỷ lệ đực cái: đối với ốc
đĩa, giới tính được xác định thông qua việc giải phẫu
để quan sát cơ quan sinh dục.
- Tỷ lệ đực cái được xác định theo phương
pháp của Pravdin (1973). Công thức tính tỷ lệ đực
cái như sau:
Tỷ lệ ốc đĩa cái (%) = × 100;
Tỷ lệ ốc đĩa đực (%) = × 100;
Tỷ lệ đực : cái =
Trong đó: a là số cá thể cái; b là số cá thể đực;
c là tổng số mẫu.
- Các giai đoạn phát triển tuyến dinh dục được
xác định thông qua phương pháp soi mẫu tươi và
phương pháp làm tiêu bản mô học buồng trứng và
tinh sào của ốc đĩa.
+ Phương pháp soi mẫu tươi: lấy một ít tuyến
sinh dục hòa đều với ít nước biển quan sát trên kính
hiển vi điện tử LEICA ATC 2000 để xác định các giai
đoạn phát triển của tuyến sinh dục.
+ Phương pháp làm tiêu bản mô buồng
trứng và tinh sào theo phương pháp Seckan và
Hrapchack (1980).
+ Các giai đoạn phát triển của tuyến sinh dục ốc
đĩa được xác định dựa theo thang 5 bậc của Quayle
và Newkirk (1989).
- Sức sinh sản tuyệt đối: (Fa) (số trứng/cá thể
cái) được xác định bằng cách đếm số lượng trứng
ở giai đoạn thành thục: Fa = × Wtsd (Trong đó:
Fa là sức sinh sản tuyệt đối; a là số lượng trứng đếm
được; n là khối lượng phần buồng trứng đem đếm
(g); Wtsd là khối lượng buồng trứng (g)).
- Sức sinh sản tương đối (Frg): Số lượng trứng/
gram cá thể cái: Frg = (W: Khối lượng toàn thân
ốc đĩa (g)).
- Mùa vụ sinh sản ốc đĩa được xác định dựa
trên số mẫu phân tích hàng tháng, tỷ lệ các cá thể
chín muồi sinh dục và đang tham gia sinh sản (tuyến
sinh dục ở giai đoạn IV), cá thể đã đẻ xong (tuyến
sinh dục ở giai đoạn V). Tháng có trên 50% số cá
thể chín muồi sinh dục và đang tham gia sinh sản
hoặc đã đẻ xong được coi là mùa vụ sinh sản chính
của ốc đĩa (Nguyễn Thị Xuân Thu, 1999).
3.3. Xử lý số liệu
Các số liệu được thu thập và tính toán trên phần
mềm Microsoft Excel 2007, số liệu được trình bày ở
dạng giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn.
Hình 1. Địa điểm thu mẫu ốc đĩa tại Quảng Ninh
(ngôi sao màu đen là các điểm thu mẫu)
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
1. Giới tính và tỷ lệ đực cái của ốc đĩa
1.1. Giới tính
Ốc đĩa N. balteata là loài phân tính đực cái riêng
biệt và giới tính của ốc đĩa được phân biệt dựa vào
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2014
116 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Bảng 1 cho thấy tỷ lệ ốc đĩa đực và ốc đĩa cái
qua các tháng dao động không đều nhau. Tỷ lệ giới
tính đực dao động từ 28,2 - 57,6% và có xu hướng
giảm dần từ tháng 1 đến tháng 5. Trong đó tỷ lệ ốc
đực đạt cao nhất vào tháng 1 (57,6%), thấp nhất
vào tháng 5 (28,2%).
Tỷ lệ giới tính cái dao động từ 36,7 - 71,8%. Tỷ
lệ giới tính cái thấp vào tháng 8 (36,7%) và cao nhất
vào tháng 5 (71,8%). Nhìn chung, tỷ lệ phần trăm
trung bình của ốc đĩa đực (41,8%) luôn thấp hơn ốc
đĩa cái (56,0%).
Nhìn chung, tỷ lệ đực : cái của ốc đĩa dao động
từ 1:0,7 đến 1:1,7, trung bình 1:1,3. Điều này có thể
được giải thích dựa vào việc mẫu ốc được thu ngẫu
nhiên tại nhiều địa phương của tỉnh Quảng Ninh và
trong các khoảng thời gian, điều kiện môi trường
khác nhau. Do đó, các quần thể ốc đĩa phân bố ở
các địa phương có điều kiện môi trường khác nhau
đặc biệt là nhiệt độ thì sẽ có cơ cấu giới tính là khác
nhau (Nguyễn Thị Xuân Thu, 1999). So sánh tỷ lệ
giới tính của ốc đĩa trong nghiên cứu này với tỷ lệ
giới tính của ốc hương và ốc nhảy, cho thấy giữa 3
loài này không chênh lệch nhau nhiều. Trong đó tỷ
lệ giới tính trung bình của ốc hương (B. oreolata) là
1:1,49 (Nguyễn Thị Xuân Thu, 2002) và ốc nhảy (S.
canarium) là 1:1,27 (Dương Văn Hiệp, 2009). Như
vậy tỷ lệ giới tính trung bình của ốc đĩa N. balteata
nằm trong giá trị tỷ lệ chung của đa số các loài thuộc
lớp chân bụng.
2. Các giai đoạn phát triển của tuyến sinh dục
Kết quả quan sát mẫu tươi và tiêu bản mô học
tế bào sinh dục có thể chia sự phát triển tuyến sinh
dục của ốc đĩa thành 5 giai đoạn và được thể hiện
ở bảng 2.
đặc điểm, màu sắc của cơ quan sinh dục. Vị trí của cơ quan sinh dục nằm ở khối nội tạng, gần gan. Khi ốc thành
thục sinh dục, ốc đĩa đực có cơ quan sinh dục màu vàng nâu; ốc đĩa cái có cơ quan sinh dục màu trắng sữa.
Hình 2. Cơ quan sinh dục của ốc đĩa đực (A) và cái (B)
1.2. Tỷ lệ đực, cái
Tỷ lệ đực, cái của ốc đĩa được phân tích trên tổng số 436 mẫu ốc được thu ngẫu nhiên qua 12 tháng nghiên
cứu. Kết quả biến động về tỷ lệ đực cái của ốc đĩa trong thời gian nghiên cứu được thể hiện qua bảng 1.
Bảng 1. Tỷ lệ đực : cái của ốc đĩa theo thời gian nghiên cứu
Tháng Tổng số cá thể (con)
Số cá thể đực Số cá thể cái
Tỷ lệ
đực : cáiSố cá thể
(con) Tỷ lệ (%)
Số cá thể
(con)
Tỷ lệ
(%)
01/2012 33 19 57,6 14 42,4 1: 0,7
02/2012 42 19 45,2 23 54,8 1: 1,2
03/2012 48 24 50,0 24 50,0 1: 1
04/2012 45 14 31,1 31 68,9 1: 2,2
05/2012 39 11 28,2 28 71,8 1: 2,5
06/2012 31 12 38,7 19 61,3 1: 1,6
07/2012 371 15 40,5 16 43,2 1: 1,1
08/2012 302 16 53,3 11 36,7 1: 0,7
09/2012 35 17 48,6 18 51,4 1: 1,1
10/2012 30 11 36,7 19 63,3 1: 1,7
11/2012 353 13 37,1 21 60,0 1: 1,6
12/2012 31 11 35,5 20 64,5 1: 1,8
Tổng/TB 436 182 41,8 244 56,0 1: 1,3
1 6 mẫu không xác định được giới tính; 2 3 mẫu không xác định được giới tính; 3 1 mẫu không xác định giới tính
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2014
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 117
Bảng 2. Các giai đoạn phát triển tuyến sinh dục của ốc đĩa
Giai đoạn Hình thái TSD Tế bào sinh dục đực Tế bào sinh dục cái
I
(Chưa
phân
biệt
đực,
cái)
Tuyến sinh dục của ốc đĩa chưa phát triển,
kích thước rất nhỏ nên rất khó phân biệt
được bằng mắt thường. Các tế bào sinh
dục mới hình thành chưa phân biệt được
đực cái.
II
(Giai
đoạn
non)
Thể tích buồng trứng và buồng sẹ của ốc
đĩa có tăng hơn so với giai đoạn I nhưng
không đáng kể. Có thể phân biệt đực cái
thông qua màu sắc của cơ quan sinh dục.
Cơ quan sinh dục đực có màu vàng nhạt,
cơ quan sinh dục cái có màu trắng sữa. Các
tinh bào và noãn bào đang trong giai đoạn
sinh trưởng, chưa thành thục. Chúng có
dạng hình tròn, hình ovan, nhân màu sáng,
bắt màu tím, vách nang mỏng. Tế bào sinh
dục phát triển trên vách nang.
III
(Giai
đoạn
phát
triển)
Cơ quan sinh dục của ốc đĩa đực có màu
vàng đậm, các tinh bào rất nhỏ dính kết
với nhau thành từng đám, vách nang dày.
Cơ quan sinh dục của ốc cái có màu trắng
sữa, buồng trứng chứa các noãn bào với
kích thước không đều nhau. Quan sát trên
tiêu bản cắt lát cho thấy tế bào có dạng hình
cầu nhỏ, bắt đầu tích lũy noãn hoàng. Tinh bào kích thước nhỏ,
dính nhau
Noãn bào hình cầu,
kích thước không đều
IV
(Giai
đoạn
thành
thục)
Cơ quan sinh dục của ốc đĩa căng phồng,
kích thước lớn, màu sắc đậm hơn giai
đoạn III. Các tế bào sinh dục đực rời nhau,
tinh trùng bắt đầu rời khỏi vách ngăn, tạo
thành từng dòng. Các tế bào sinh dục cái
đã hoàn thành quá trình tích lũy vật chất
dinh dưỡng và đạt kích thước tối đa. Các
tế bào trứng hình cầu, lớn và rời nhau. Tinh bào kích thước lớn,
rời nhau
Noãn bào kích thước lớn,
rời nhau
V
(Giai
đoạn
thoái
hóa/sau
đẻ)
Cơ quan sinh dục của ốc đĩa xẹp xuống,
thể tích giảm. Cơ quan sinh dục đực có
các nang tinh rời nhau, túi tinh rỗng. Cơ
quan sinh dục cái có màu sắc nhợt nhạt,
loang lổ, đặc trưng bởi sự có mặt của các
bào nang rỗng và một số tế bào trứng còn
sót lại.
Túi tinh rỗng Xuất hiện bào nang rỗng
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2014
118 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Cũng giống như các loài động vật thân mềm
chân bụng khác như ốc hương, ốc nhảy... thì các
giai đoạn phát triển tuyến sinh dục của ốc đĩa cũng
tuân theo quy luật phát triển chung. Theo Nguyễn
Thị Xuân Thu (2002) sự phát triển tuyến sinh dục
của ốc hương (B. areolata) cũng trải qua 5 giai
đoạn. Dương Văn Hiệp (2009) cũng công bố tuyến
sinh dục của ốc nhảy (S. canarium) phát triển trải
qua 5 giai đoạn.
3. Sức sinh sản của ốc đĩa
Kết quả phân tích 30 cá thể cái ở giai đoạn
thành thục, đã xác định được sức sinh sản tuyệt đối
và sức sinh sản tương đối trung bình của ốc đĩa.
Bảng 3. Sức sinh sản tuyệt đối và sức sinh sản tương đối của ốc đĩa
Sức sinh sản Khoảng dao động Trung bình
Sức sinh sản tuyệt đối Fa (Trứng/cá thể cái) 32.478 ÷ 197.674 95.221 ± 43.61
Sức sinh sản tương đối Frg (Trứng/g cá thể cái) 5.612 ÷ 22.482 11.069 ± 4.485
Bảng 3 cho thấy sức sinh sản tuyệt đối và sức sinh sản tương
đối của ốc đĩa có sự biến động rất lớn giữa các cá thể. Kết quả
nghiên cứu cho thấy: có những cá thể có sức sinh sản tuyệt đối rất
thấp chỉ có 32.478 trứng/cá thể, nhưng cũng có một số cá thể có
sức sinh sản tuyệt đối cao, đạt 197.674 trứng/cá thể. Nguyên nhân
của sự khác nhau này có thể là do quá trình thành thục sinh dục
không đồng đều giữa các cá thể, ốc đẻ rải rác và kéo dài trong mùa
sinh sản.
4. Mùa vụ sinh sản của ốc đĩa
Kết quả phân tích 436 mẫu ốc đĩa thu ngẫu nhiên trong 12
tháng, kết hợp với quan sát hình ảnh tổ chức học tế bào sinh dục,
tỷ lệ các giai đoạn phát triển tuyến sinh dục của ốc đĩa tại vùng biển
tỉnh Quảng Ninh được trình bày trong bảng 4.
Bảng 4. Tỷ lệ các giai đoạn phát triển tuyến sinh dục của ốc đĩa
Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
GĐ N 33 40 48 26 31 31 30 25 35 30 22 29
I
N 1 0 0 0 0 0 0 0 0 0 4 5
% 3,0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 18,2 17,2
II
N 24 24 21 6 7 7 5 0 0 0 8 12
% 72,7 60 43,8 23,1 22,6 22,6 16,7 0 0 0 36,4 41,4
III
N 8 16 26 14 15 14 12 5 2 1 5 7
% 24,2 40 54,2 53,8 48,4 45,2 40 20 5,7 3,3 22,7 24,1
IV
N 0 0 1 6 6 6 9 15 20 15 3 5
% 0 0 2,1 23,1 19,4 19,4 30 60 57,1 50 13,6 17,2
V
N 0 0 0 0 3 4 4 5 13 14 2 0
% 0 0 0 0 9,7 12,9 13,3 20 37,2 46,7 9,1 0
Hình 3. Trứng ốc đĩa phát triển ở nhiều giai
đoạn trên mẫu soi tươi (100x)
Bảng 4 cho thấy, trong 12 tháng nghiên cứu
tháng nào cũng có ốc có tuyến sinh dục đang ở giai
đoạn thành thục, đặc biệt từ tháng thứ 6 đến tháng
10, tỉ lệ cá thể ở giai đoạn III rất cao. Tuy nhiên, từ
tháng thứ 8 đến tháng 10 mới có trên 50% các cá
thể ốc đĩa chín mùi sinh dục và đang tham gia sinh
sản (cơ quan sinh dục phát triển ở giai đoạn IV), cá
thể đã đẻ xong (cơ quan sinh dục phát triển ở giai
đoạn V). Vì vậy, tháng 8 đến tháng 10 được coi là
mùa vụ sinh sản chính của ốc đĩa.
Theo Nguyễn Thị Xuân Thu (2000), ốc hương
có khả năng thành thục quanh năm, tỷ lệ thành thục
cao nhất tập trung vào các tháng từ tháng 3 đến
tháng 10 (60 – 90%). Các tháng 11, 12 vẫn có cá
thể thành thục nhưng tỷ lệ thấp, không đáng kể. Kết
quả nghiên cứu của Zaidi và CTV (2005) về ốc nhảy
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2014
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 119
S. canarium cho thấy, mùa vụ sinh sản của ốc nhảy
bắt đầu từ cuối tháng 11 đến đầu tháng 3 năm sau.
Xét trong cùng một năm thì mùa vụ sinh sản của ốc
nhảy muộn hơn ốc hương và ốc đĩa.
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Ốc đĩa là loài phân tính đực cái riêng biệt và có
thể phân biệt được giới tính của ốc dựa vào màu sắc
của cơ quan sinh dục. Ốc đĩa đực khi thành thục sinh
dục, cơ quan sinh dục có màu vàng nâu; ốc đĩa cái
cơ quan sinh dục màu trắng sữa. Tỷ lệ đực cái của
ốc đĩa thay đổi theo thời gian nghiên cứu. Tỷ lệ đực :
cái trung bình là 1:1,3. Ốc đĩa có cơ quan sinh dục
trải qua 5 giai đoạn phát triển.
Sức sinh sản tuyệt đối (Fa) của ốc đĩa dao động
trong khoảng 32.478 ÷ 197.674 trứng/cá thể, trung
bình 95.221 trứng/cá thể. Sức sinh sản tương đối
(Frg1) dao động trong khoảng 5.612 ÷ 22.482 trứng/g
cá thể, trung bình 11.069 trứng/g cá thể.
Mùa vụ sinh sản của ốc đĩa kéo dài từ tháng 6
đến hết tháng 10, trong đó mùa vụ sinh sản chính từ
tháng 8 đến tháng 10.
2. Kiến nghị
Cần tiến hành nghiên cứu sinh sản nhân tạo
loài ốc đĩa này nhằm góp phần bảo vệ nguồn lợi và
mở rộng đối tượng nuôi trong nuôi trồng thủy sản.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Nguyễn Chính, 1996. Một số loài động vật thân mềm (Mollusca) có giá trị kinh tế ở biển Việt Nam. NXB Khoa học Kỹ thuật.
Hà Nội, 96 trang.
2. Dương Văn Hiệp, 2009. Báo cáo tổng kết đề tài “Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học và khả năng sản xuất giống ốc nhảy
Strombus canarium”. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Quảng Ninh.
3. Nguyễn Thị Xuân Thu, 1999. Nghiên cứu đặc điểm sinh sản, sinh trưởng và kỹ thuật sản xuất giống nhân tạo điệp quạt
(Chlamus nobilis). Luận án Tiến sĩ Khoa học Nông nghiệp. Trường Đại học Nha Trang.
4. Nguyễn Thị Xuân Thu, Nguyễn Văn Hà, Phan Thị Thương Huyền, 2000. Nghiên cứu đặc điểm sinh học, kỹ thuật sản xuất
giống nhân tạo và nuôi thương phẩm ốc hương. Báo cáo khoa học đề tài cấp bộ. Viện Nuôi trồng thủy sản III.
5. Nguyễn Thị Xuân Thu, 2002. Đặc điểm sinh học, kỹ thuật sản xuất giống và nuôi ốc hương. NXB Nông nghiệp. TP.
Hồ Chí Minh, 54 trang.
6. Ngô Anh Tuấn, 2012. Báo cáo chuyên đề “Đặc điểm phân bố của ốc đĩa (Nerita balteata Reeve, 1885) tại Quảng Ninh. Sở
Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Ninh.
Tiếng Anh
7. Tan K.S. and Chou L.M., 2000. A guide to common seashells of Singapore. Singapore Science Centre.
8. Tan K.S. and Clements R., 2008. Taxonomy and distribution of the Neritidae (Mollusca: Gastropoda) in Singapore.
9. Tan K.S. and Lee S.S.C., 2009. Neritid egg capsules: are they all that different? Steenstrupia 30: 115-125.
10. Zaidi, C.C., Aziz, A., Idris, H.M., Japar, S.B. & Mazlan, A.G., 2008. Sexual polymorphisms in a population of Strombus
canarium Linnaeus, 1758 (Mollusca: Gastropoda) at Merambong Shoal, Malaysia. Zool. Stud. 47: 318- 325.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- so_1_2014_19_dang_khanh_hung_7333_2024510.pdf