KẾT LUẬN
1. Hạt chè tách vỏ sành trước khử trùng sẽ
cho tỷ lệ nảy mầm kém, ảnh hưởng mạnh tới
phôi. Hạt chè tách vỏ sau khử trùng cho khả
năng nảy mầm cao hơn hạt chè tách vỏ trước
khử trùng và không tách vỏ.
2. 2,4-D phù hợp hơn NAA trong thí nghiệm
tạo mô sẹo từ mẫu thân và lá chè. Tỷ lệ tạo
mô sẹo trên môi trường bổ sung 2,4-D cao
đồng thời kích thước khối mô to và chắc hơn.
Môi trường MS có bổ sung 0,5mg/l 2,4-D
thích hợp cho tạo mô sẹo từ lá cây chè và môi
trường MS có bổ sung 1,5mg/l 2,4-D thích
hợp cho tạo mô sẹo từ thân cây chè.
Các đoạn thân không chứa nách và mảnh lá
không tái sinh trên môi trường MS có bổ sung
BAP. Các nồng độ khác nhau của BAP trong
môi trường nuôi cấy có ảnh hưởng khác nhau
đến khả năng tái sinh chồi từ thân mầm mang
nách lá, môi trường MS bổ sung 1mg/l gBAP
thích hợp cho tái sinh đa chồi.
7 trang |
Chia sẻ: thucuc2301 | Lượt xem: 474 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu khả năng tái sinh in Vitro của cây chè - Nguyễn Thị Hải Yến, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguyễn Thị Hải Yến và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 123(09): 23 - 29
23
NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG TÁI SINH IN VITRO CỦA CÂY CHÈ
Nguyễn Thị Hải Yến*, Trần Thị Thu Hương
Trường Đại học Khoa học – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Để chọn tạo các giống chè có năng suất và chất lượng tốt phục vụ nhu cầu sản xuất và tiêu thụ chè,
việc ứng dụng công nghệ gen là một hướng tiếp cận có triển vọng. Tuy nhiên, các nghiên cứu sử
dụng công nghệ gen thường đòi hỏi hệ thống tái sinh phù hợp và hiệu quả cao. Trong nghiên cứu
này, chúng tôi đã nghiên cứu ảnh hưởng của một số kích thích sinh trưởng lên khả năng tạo mô
sẹo và tái sinh của cây chè. Kết quả cho thấy 2,4-D phù hợp hơn NAA trong thí nghiệm tạo mô sẹo
từ mẫu thân và lá chè. Môi trường MS có bổ sung 0,5 mg/l 2,4-D thích hợp cho tạo mô sẹo từ lá
chè và môi trường MS có bổ sung 1,5 mg/l 2,4-D thích hợp cho tạo mô sẹo từ thân cây chè. Các
mảnh lá mầm mang phôi đã xuất hiện chồi nhỏ sau 6 tuần nuôi cấy trên môi trường bổ sung BAP
và kinetin. Các đoạn thân không chứa nách và mảnh lá không tái sinh trên môi trường MS có bổ
sung BAP. Các nồng độ khác nhau của BAP trong môi trường nuôi cấy có ảnh hưởng khác nhau
đến khả năng tái sinh chồi từ đoạn thân mang nách lá, môi trường MS bổ sung 1mg/l BAP thích
hợp cho tái sinh đa chồi.
Từ khóa: cây chè, tái sinh, kích thích sinh trưởng
MỞ ĐẦU*
Trên thế giới, chè là một trong những cây
công nghiệp quan trọng, góp phần thu hút
nhiều lao động dư thừa và là mặt hàng xuất
khẩu thu ngoại tệ của nhiều nước [7]. Ở nước
ta, cây chè là một trong 10 chương trình trọng
điểm về phát triển nông nghiệp. Hiện nay,
nhu cầu tiêu thụ chè trong nước và xuất khẩu
ngày càng cao vì vậy công tác chọn tạo giống
chè phải đáp ứng đòi hỏi ngày càng khắt khe
hơn về giống có năng suất và chất lượng.
Mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu về
cây chè nhưng chủ yếu đi sâu nghiên cứu về
đặc tính sinh hóa, đặc điểm sinh thái, giải
phẫu lá, thân; đặc điểm sinh trưởng, phát
triển, năng suất chất lượng chè [1], [3].
Để cải thiện năng suất và nâng cao chất lượng
cây giống, các phương pháp tiếp cận theo
hướng công nghệ gen đã được chứng minh là
cho kết quả khả quan trên nhiều đối tượng cây
trồng. Một trong những kỹ thuật mới được
nhiều phòng thí nghiệm trên thế giới sử dụng
có hiệu quả trong việc nâng cao chất lượng
cây trồng là kỹ thuật chuyển gen. Tuy nhiên,
kỹ thuật này đòi hỏi phải có hệ thống tái sinh
phù hợp và hiệu quả. Đã có một số công trình
* Tel: 0982 982291; Email: nguyenhaiyensh@gmail.com
nghiên cứu về tái sinh chè được thực hiện đã
cho thấy tiềm năng tái sinh cây chè in vitro
khá cao [4] [5] [6] [8]. Trong bài báo này,
chúng tôi công bố kết quả nghiên cứu khả
năng tái sinh in vitro của giống chè Trung Du
(Camellia sinensis var. Macrophylla). Các kết
quả thu được sẽ là tiền đề cho những nghiên
cứu sâu hơn nhằm cải thiện năng suất và chất
lượng các giống chè trồng hiện nay.
VẬT LIỆU, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Vật liệu
Hạt của giống chè Trung Du (Camellia
sinensis var. macrophylla) được Công ty chè
Sông Cầu, huyện Đồng Hỷ, Thái Nguyên
cung cấp.
Phương pháp nghiên cứu
Thu và xử lý mẫu
Các hạt chè được chọn có kích thước to, chắc,
không sâu bệnh. Trước khi tiến hành đưa vào
nuôi cấy, các hạt chè được phơi khô và bảo
quản trong lọ có chứa hạt silica gel hút ẩm ở
nhiệt độ phòng.
Khử trùng hạt đưa vào nuôi cấy
Sử dụng javen 30 % hoặc HgCl2 0,1% theo
các bước như sau: (1) Lắc hạt trong dung dịch
cồn 70o với thời gian 1 phút, tráng qua nước
cất. Sau đó tiếp tục lắc hạt trong dung dịch
Nguyễn Thị Hải Yến và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 123(09): 23 - 29
24
giaven 30% trong vòng 30 phút (hoặc HgCl2
0,1% trong vòng 10 phút). Tráng lại nhiều lần
bằng nước cất vô trùng. Các hạt sau đó được
thấm khô trước khi đưa vào nuôi cấy.
Tạo mô sẹo
Sử dụng các mảnh lá (kích thước 1cm x 1cm)
hoặc đoạn thân in vitro đặt lên môi trường tạo
mô sẹo chắc các kích thích sinh trưởng nhóm
auxin. Các mẫu nuôi cấy được đặt trong tối để
kích thích phân chia tế bào.
Tái sinh chồi
Các thí nghiệm tái sinh chồi được thực hiện
với các nguyên liệu khác nhau: (1) Tái sinh
chồi từ mô sẹo (mô sẹo tạo thành từ lá chè)
(2) Tái sinh chồi từ phôi hạt (hạt được cắt bỏ
một bên lá mầm còn bên lá mầm chứa phôi
cấy lên môi trường tái sinh chứa kích thích
sinh trưởng tạo chồi) (3) Tái sinh chồi từ thân
mầm (Các đoạn thân có kích thước 1 – 1,5 cm
có hoặc không mang nách lá) được nuôi cấy
trên môi trường tạo chồi.
Môi trường sử dụng trong thí nghiệm là môi
trường MS (Murashige & Skoog), bổ sung 30g/l
đường sucrose, 9g/l agar và các chất kích thích
sinh trưởng theo mục đích thí nghiệm.
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Khảo sát ảnh hưởng của điều kiện khử
trùng tới việc nảy mầm của hạt
Hạt chè trước khi khử trùng được chia làm 2
lô thí nghiệm, lô 1 tách vỏ sành còn lô 2 để
nguyên vỏ. Cả 2 lô này đều được khử trùng
sơ qua bằng cồn 70o trong 1 phút, rửa bằng
nước cất, tiếp tục khử trùng bằng HgCl2 0,1%
trong vòng 10 phút. Sau đó, lô 1 được đặt lên
môi trường MS, lô 2 đượ chia thành 2 phần,
một phần đặt trực tiếp lên môi trường MS;
phần còn lại được tách hết vỏ sành bằng dao
sắc rồi mới đặt lên môi trường nuôi cấy.
Kết quả sau 6 tuần nuôi cấy thu được tỉ lệ nảy
mầm của những hạt tách vỏ rồi khử trùng là
16,7 %, thấp hơn tỉ lệ nảy mầm của hạt để
nguyên vẹn và tách vỏ sành sau khử trùng.
Điều này có thể giải thích như sau: khi tách
vỏ sành trước khử trùng hóa chất khử trùng
không những làm chết vi sinh vật mà còn gây
ảnh hưởng tới phôi trong hạt nên ảnh hưởng
tới tỷ lệ nảy mầm và dẫn đến tỷ lệ sống của
hạt thấp. Ngược lại, những hạt chè tách vỏ
sành sau khử trùng có tỷ lệ sống lớn (60%) và
thời gian nảy mầm nhanh hơn cả. Tuy nhiên,
công việc tách vỏ sau khi khử trùng rất khó
khăn do hạt chè tròn và vỏ sành cứng nên khó
thao tác trong box cấy.
Bảng 1. Ảnh hưởng của điều kiện khử trùng tới việc nảy mầm của hạt tách vỏ và không tách vỏ sành
Lô thí nghiệm
Số hạt
đưa vào
Số hạt nảy mầm mới sau các tuần
2 tuần 4 tuần 5 tuần 6 tuần Tổng %
Bóc vỏ sành trước
khử trùng
30 0 1 3 1 5 16,7
Để nguyên hạt 30 1 7 5 3 16 53,3
Bóc vỏ sành sau khử
trùng
10 6 0 0 0 6 60
Hình 1. Hạt chè nảy mầm trên môi trường MS sau 3 tuần (A) và sau 6 tuần (B)
Nguyễn Thị Hải Yến và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 123(09): 23 - 29
25
Bảng 2. Kết quả tạo mô sẹo từ mảnh lá chè
Mô sẹo tạo thành trên môi trường 2,4-D
Mô sẹo tạo thành trên môi trường NAA
Hàm
lượng
Số mẫu
đưa vào
Tỷ lệ tạo mô sẹo Hàm
lượng
Số mẫu
đưa vào
Sau 20 ngày Sau 40 ngày Sau 20 ngày Sau 40 ngày
0 15 0 13.33 ± 1,34 0 15 0 13.33 ± 1,34
0,5 15 40 ± 1,22 86,67 ± 1,32 0,5 18 16.67 ± 1,22 38,89 ± 1,15
1 14 35,71 ± 1,31 71,43 ± 1,41 1 18 22,22 ± 1,27 50 ± 1,78
1,5 12 33,33 ± 1,40 58,33 ± 1,21 1,5 18 22,22 ± 2,12 55,55 ± 1,98
2 12 25 ± 1,16 41,67 ± 1,34 2 18 38,80 ± 1,56 77,78 ± 2,25
Kết quả tạo mô sẹo
Kết quả tạo mô sẹo từ lá chè
Lá chè in vitro được sử dụng làm nguyên liệu
cho thí nghiệm tạo mô sẹo. Các mảnh lá kích
thước 1cm x 1cm được đặt lên môi trường
MS bổ sung 2,4-D và NAA với các nồng độ
thay đổi từ 0; 0,5; 1; 1,5 và 2 mg/l và nuôi
trong điều kiện tối. Kết quả cho thấy, khả
năng tạo mô sẹo của các mẫu lá chè ở các
công thức môi trường bổ sung nồng độ 2,4-D
khác nhau có sự khác nhau rõ rệt (Bảng 2).
Sau 20 ngày theo dõi nhận thấy, mô sẹo bắt
đầu hình thành tại những vết cắt và tỷ lệ mô
sẹo là khác nhau ở các công thức môi trường
có bổ sung 2,4-D. Nhìn chung, khi tăng nồng
độ 2,4-D theo dãy nồng độ 0,5mg/l; 1mg/l;
1,5mg/l; 2mg/l thì tỷ lệ mô sẹo giảm tương
ứng 40%, 35,71%, 33,33%, 25%. Sau 40
ngày nuôi cấy, mô sẹo đạt kích thước lớn hơn,
sắc màu có phần chuyển sang hơi xanh sau đó
dần chuyển sang màu đỏ thẫm. Tỷ lệ tạo mô
sẹo vẫn giảm dần khi nồng độ 2,4-D tăng dần.
Tỷ lệ tạo mô sẹo cao và đồng đều nhất tại tất
cả các mô nuôi cấy là môi trường bổ sung 0,5
mg/l 2,4-D (86,67%).
Trên môi trường tạo mô sẹo bổ sung NAA
với các nồng độ khác nhau sau 20 ngày đã bắt
đầu hình thành mô sẹo. Khi tăng nồng độ
NAA từ 0,5 mg/l lên 2,5 mg/l thì tỷ lệ tạo mô
sẹo tăng tương ứng là 16,67%, 22,22%,
22,22%, 38,80%, 50%. Sau 40 ngày nuôi cấy
tỷ lệ tương ứng đạt 38,89%, 50%, 55,55%,
88,89%. Tuy nhiên kích thước khối mô không
có sự tăng trưởng rõ rệt như trên môi trường
bổ sung 2,4-D ở cùng thời gian nuôi cấy.
Kết quả tạo mô sẹo từ đoạn thân chè
Đối với các đoạn thân in vitro trên các môi
trường tạo mô sẹo bổ sung 2,4-D với các
nồng độ khác nhau thì sau 20 ngày nuôi cấy
mô sẹo đã bắt đầu được tạo thành. Tuy nhiên,
kích thước mô sẹo còn rất nhỏ chỉ là những
hạt trắng li ti tại các vết cắt. Khác với thí
nghiệm ảnh hưởng của 2,4-D đến khả năng
tạo mô sẹo ở lá cây, khi thay đổi nồng độ 2,4-
D từ 0,5; 1; 1,5 và 2 mg/l thì tỷ lệ tạo mô sẹo
từ thân lại tăng lên tương ứng (từ 25% lên
41,67%). Sau 40 ngày nuôi cấy thấy tỷ lệ tạo
mô sẹo ở các nồng độ 2,4-D là 0,5; 1; 1,5
mg/l thì tỷ lệ tạo mô sẹo tăng tương ứng
58,33%, 66,67%, 83,33%. Nhưng tại môi
trương có 2mg/l 2,4-D thì tỷ lệ tạo mô sẹo lại
giảm điều này chứng tỏ ở nồng độ 2,4-D 2
mg/l đã bắt đầu gây độc cho cây khi thời gian
nuôi cấy kéo dài.
Đối với các công thức môi trường bổ sung
NAA chúng tôi nhận thấy, giống như ảnh
hưởng của NAA lên khả năng tạo mô sẹo từ
lá chè. Khi tăng nồng độ NAA từ 0,5 mg/l
đến 2,5 mg/l thì tỷ lệ tạo mô sẹo cũng tăng
tương ứng là 13,33%, 27,78%, 50%, 55,56%,
58,82% sau 20 ngày và là 33,33%, 61,11%,
83,33%, 94,44%, 94,11% sau 40 ngày nuôi
cấy. Tuy nhiên ở đây có thể nhận thấy kích
thước mô sẹo tương đối hạn chế.
Nguyễn Thị Hải Yến và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 123(09): 23 - 29
26
Bảng 3. Kết qủa tạo mô sẹo từ đoạn thân chè
Mô sẹo tạo thành trên môi trường 2,4-D Mô sẹo tạo thành trên môi trường NAA
2,4-D
mg/l
Số mẫu
đưa vào
Tỷ lệ tạo mô sẹo NAA
mg/l
Số mẫu
đưa vào
Tỷ lệ tạo mô sẹo
Sau 20 ngày Sau 40 ngày Sau 20 ngày Sau 40 ngày
0 15 6,67 ± 1,73 20 ± 1,23 0 15 6,67 ± 1,73 20 ± 1,23
0,5 12 25 ± 1,35 58,33 ± 1,56 0,5 15 13,33 ± 1.67 33,33 ± 1,57
1 12 25 ± 1,72 66,67 ± 1,34 1 18 27,78 ± 1,89 61,11 ± 1,26
1,5 12 41,67 ± 1,23 83,33 ± 1,55 1,5 18 50 ± 1,23 83,33 ± 1,37
2 12 41,67± 1,42 75 ± 1,47 2 18 55,56 ± 1,56 94,44 ± 1,24
Hình 3. Hình ảnh mô sẹo được tạo thành từ lá chè và đoạn thân sau 20 ngày nuôi cấy
(A; B) Mô sẹo được tạo thành từ lá trên môi trường bổ sung 2,4D và NAA
(C; D) Mô sẹo được tạo thành từ thân trên môi trường bổ sung 2,4D và NAA
Bảng 4. Ảnh hưởng của tỷ lệ auxin/cytokinin đến sự phân hóa mô sẹo lá cây Chè
NAA
(mg/l)
BAP
(mg/l)
Số mẫu
đưa vào
Sự phân hóa của mô sẹo sau 50 ngày
Tạo rễ Lục hóa Tái sinh
0
1 20 0 75,73 ± 1,37 0
1,5 17 0 94,11 ± 1,41 0
2 23 0 86,95 ± 1,98 0
0,5
1 21 28,57 ± 1,13 85,71 ± 1,25 0
1,5 20 90,85 ± 1,16 100 ± 0,00 0
2 25 95,21 ± 1,73 100 ± 0,00 0
Nguyễn Thị Hải Yến và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 123(09): 23 - 29
27
Từ các kết quả trên có thể cho rằng 2,4-D phù
hợp hơn NAA trong thí nghiệm tạo mô sẹo từ
mẫu thân và lá chè. Tỷ lệ tạo mô sẹo trên môi
trường bổ sung 2,4-D cao đồng thời kích
thước khối mô to và chắc hơn.
Kết quả Tái sinh chồi
Sự phân hóa chồi từ mô sẹo
Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của tỷ lệ
auxin/cytokinin đến sự phân hóa mô sẹo lá
cây chè được thể hiện ở trong bảng 3.10.
Nhìn chung, tỷ lệ lục hóa của mô sẹo ở các
môi trường bổ sung các chất kích thích sinh
trưởng đều cao đạt trên 75%. Cao nhất ở trên
2 môi trường bổ sung 0,5mg/l NAA và 1,5 –
2,0mg/l BAP, đều đạt tới 100% ở 3 lần thí
nghiệm khác nhau. Ở các môi trường chỉ bổ
sung BAP nhận thấy khả năng tạo rễ rất hạn
chế. Tiến hành bổ sung NAA 0,5 mg/l vào các
môi trường nuôi cấy thì kết quả cho thấy cả tỷ lệ
lục hóa và tỷ lệ tạo rễ đều tăng mạnh. Trên môi
trường chứa NAA 0,5mg/l; BAP l,5mg/l và
2mg/l thì tỷ lệ tạo rễ tương ứng là 90,85%;
95,21% còn tỷ lệ lục hóa đạt tới 100%.
Kết quả tái sinh đa chồi trực tiếp từ mảnh lá
mầm mang phôi
Trong nghiên cứu quy trình tái sinh cây trồng
phục vụ chuyển gen, tái sinh chồi trực tiếp từ
mảnh lá mầm mang phôi hoặc không mang
phôi đã được tiến hành trên nhiều đối tượng
thực vật như đậu tương (từ phôi mầm) hay cà
chua (từ mảnh lá mầm). Với mục đích tìm
hiểu khả năng tái sinh đa chồi trực tiếp từ
phôi mầm, chúng tôi đã tiến hành nuôi cấy
các mảnh lá mầm mang phôi lên môi trường
tái sinh đa chồi (MS bổ sung BAP và
kinetinvới các nồng độ thay đổi.) Sau 6 tuần
nuôi cấy, chúng tôi nhận thấy, các mẫu lá
mầm mang phôi đã xuất hiện chồi nhỏ và
chậm phát triển hơn về chiều cao, đặc điểm
của cây là lùn, lá to, xanh, tuy nhiên chúng tôi
chưa thu được sự khác biệt trên các môi
trường nuôi cấy.
Kết quả tái sinh chồi từ đoạn thân
Các thân mầm được nảy mầm sau 10 tuần
được chúng tôi sử dụng để tiến hành tái sinh
chồi. Những đoạn thân dài khoảng 1cm có
hoặc không mang nách lá được cấy lên môi
trường MS có bổ sung BAP với nồng độ thay
đổi từ 0,5mg/l; 1mg/l; 1,5mg/l; 2mg/l;
2,5mg/l; 3mg/l. Đối với các đoạn thân không
mang nách lá, chúng tôi không thu được chồi
tái sinh, các mẫu nuôi cấy đen dần rồi chết.
Ngược lại, với các mẫu mang nách lá, sau
khoảng 2 tuần đã thấy chồi được hình thành ở
tất cả các mẫu tái sinh. Sau 6 tuần quan sát
nhận thấy các mẫu thân trên tất cả môi trường
bổ sung BAP đều thấy xuất hiện đa chồi
(Bảng 5).
Kết quả thu được cho thấy, ở môi trường bổ
sung 0,5mg/l; 1mg/l; 1,5mg/l BAP cho hệ số
nhân chồi cao tương ứng là 2,39; 3,15; 2,82.
Tuy nhiên, ở nồng độ 1,5mg/l BAP hệ số
nhân chồi giảm so với ở nồng độ 1mg/l BAP
chứng tỏ ở nồng độ này đã có sự ảnh hưởng
của nồng độ hóa chất tới sự sinh trưởng của
mẫu nuôi cấy. So sánh với kết quả nhân chồi
của Sandal và cộng sự 2005, tác giả đã thiết
lập được quy trình tái sinh chồi đạt kết quả tối
ưu là 14 ± 1,16 chồi/ mẫu cấy sau 24 tuần
nuôi cấy. Trong nghiên cứu đó, tác giả đã sử
dụng 2,4-D là chất điều hoà sinh trưởng với
nồng độ rất cao (7,5 - 10 mg/l) và nuôi cấy
trong thời gian khá dài (hơn 5 tháng) [8]. Mặc
dù kết quả tốt nhất chúng tôi thu được trung
bình khoảng 5 chồi/mẫu tái sinh nhưng thời
gian nuôi cấy ngắn hơn nhiều (sau 6 tuần nuôi
cấy) và nồng độ chất điều hoà sinh trưởng
cũng thấp hơn nhiều (0 - 3 mg/l BAP).
Bảng 5. Ảnh hưởng của BAP lên khả năng tái sinh cây của thân mầm
Lô thí nghiệm
Nồng độ BAP
(mg/l)
Số thân mầm đưa
vào
Số chồi tái sinh
trung bình
Hệ số nhân
1 0 12 12 1 ± 0,00
2 0,5 18 43 2,39 ± 0,01
3 1 20 63 3,15 ± 0,02
4 1,5 20 57 2,85 ± 0,03
5 2 20 37 1,85 ± 0,04
6 2,5 17 31 1,82 ± 0,01
7 3 19 25 1,32 ± 0,02
Nguyễn Thị Hải Yến và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 123(09): 23 - 29
28
Hình 4. Hình ảnh mô sẹo (A) và đoạn thân (B) trên môi trường tái sinh chồi
KẾT LUẬN
1. Hạt chè tách vỏ sành trước khử trùng sẽ
cho tỷ lệ nảy mầm kém, ảnh hưởng mạnh tới
phôi. Hạt chè tách vỏ sau khử trùng cho khả
năng nảy mầm cao hơn hạt chè tách vỏ trước
khử trùng và không tách vỏ.
2. 2,4-D phù hợp hơn NAA trong thí nghiệm
tạo mô sẹo từ mẫu thân và lá chè. Tỷ lệ tạo
mô sẹo trên môi trường bổ sung 2,4-D cao
đồng thời kích thước khối mô to và chắc hơn.
Môi trường MS có bổ sung 0,5mg/l 2,4-D
thích hợp cho tạo mô sẹo từ lá cây chè và môi
trường MS có bổ sung 1,5mg/l 2,4-D thích
hợp cho tạo mô sẹo từ thân cây chè.
Các đoạn thân không chứa nách và mảnh lá
không tái sinh trên môi trường MS có bổ sung
BAP. Các nồng độ khác nhau của BAP trong
môi trường nuôi cấy có ảnh hưởng khác nhau
đến khả năng tái sinh chồi từ thân mầm mang
nách lá, môi trường MS bổ sung 1mg/l gBAP
thích hợp cho tái sinh đa chồi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đỗ Ngọc Biểu (1996) Nghiên cứu đặc tính sinh
hóa kỹ thuật của một số giống chè chọn lọc và
nghiên cứu tại Phú Hộ - Vĩnh Phú, Tạp chí Nông
nghiệp – Công nghệ thực phẩm 8.
2. Nguyễn Thanh Mai, Nguyễn Sỹ Tuấn Ảnh
hưởng của ABA trong môi trường nuôi cấy lên sự
tái sinh chồi trực tiếp từ nuôi cấy mẫu lá cây chè
(Camellia sinensin L.), Báo cáo đề tài Khoa học
và Công nghệ cấp cơ sở, Sở khoa học & Công
nghệ Lâm Đồng, 2007.
3. Đỗ Ngọc Qũy, Đỗ Thị Ngọc Oanh (1994) Kỹ
thuật trồng và chế biến chè năng suất cao- chất
lượng tốt, Nxb Nông nghiệp.
4. Ghanatia F and Rahmati MI (2009)
Investigation of the interaction between abscisic
acid (ABA) and excess benzyladenine (BA) on the
formation of shoot in tissue culture of tea
(Camellia sinesis L). International J Plant
production 3 (4): 7- 14
5. Mondal TK, Bhattacharya A, Laxmikumaran
M, Ahuja PS (2004) Recent advances of tea
(Camelia sinesis) biotechnology. Plant Cell, Tissue
and Organ Culture 76: 195-254.
6. Kato M (1982) Result of organ culture
on Camellia japonica and C. sinensis. Jpn J
Breed. (Supplement 2): 267–277
7. Jankun J, Selman SH, Swiercz R, Skrzypczak –
Jankun E, Why drinking green tea could prevent
cancer, 1997.
8. Sandal I, Kumar A, Bhattacharya A, Sharma M,
Shanker M, Ahuja PS (2005) Gradual depletion of
2,4-D in the culture medium for indirect shoot
regeneration from leaf explants of Camellia
sinesis (L). Plant Growth Regulation 47(2-
3): 121-127.
Nguyễn Thị Hải Yến và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 123(09): 23 - 29
29
SUMMARY
STUDY REGENERATION OF TEA IN VITRO
Nguyen Thi Hai Yen*, Tran Thi Thu Huong
College of Science –Thai Nguyen University
In this article, we researched affection of a number of plant hormone for callus and regeneration of
plant. Result shows that, 2,4- D more accords than NAA in create callus from branches and leaf of
tea. MS environment provide 0,5 mg 2, 4- D is appropriate to create callus from the branches.
Seed-leaf cotyledon bring embryo pieces were small buds appeared after 6 weeks of culture on
BAP additional environmental and kinetin. The trunk does not contain the armpit and not a blade
of regeneration on MS medium supplemented with BAP. The different concentrations of BAP in
the culture medium may affect the ability of different shoot regeneration from leaf and trunk, MS
medium supplemented 1mg / l BAP suitable for multi-bud regeneration.
Key words: Tea, regeneration, growth hormone
Ngày nhận bài:22/4/2014; Ngày phản biện:09/5/2014; Ngày duyệt đăng: 20/8/2014
Phản biện khoa học: PGS.TS. Nguyễn Vũ Thanh Thanh – Trường Đại học Khoa học – ĐH Thái Nguyên
* Tel: 0982 982291; Email: nguyenhaiyensh@gmail.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- brief_48453_52368_1092015840244_0298_2046567.pdf