Nghiên cứu hoàn thiện vàng câu tầng đáy khai thác mực vùng biển ven bờ tỉnh Khánh Hòa

1. Kết luận: - Về kết cấu vàng câu: Chọn vàng câu có chiều dài 7.500m, số lượng thẻo câu 15.00 thẻo, khoảng cách giữa các thẻo câu là 5m, số lượng phao ganh 1.500 phao; khóa xoay liên kết dây triên chính 1.500 cái, móc kẹp giữa dây trên và thẻo câu 1.500 cái. Các bộ phận khác của cấu tạo vàng câu chọn lựa như thống kê ở bảng 1. - Về vật liệu chế tạo ngư cụ: + Dây triên chính: Sử dụng cước PA, đường kính 1,8mm. + Dây thẻo: Sử dụng cước PA, đường kính 0,9mm. + Chì: Hình trụ tròn, xâu chì có 7 viên chì kết lại với nhau, trọng lượng 0,14kg. + Khóa xoay, móc kẹp: Vật liệu bằng Inox, bảo đảm chất lượng, đáp ứng yêu cầu kỹ thuật (Bảng 1). + Phao ganh: Vật liệu PVC, hình trụ tròn, kín nước.

pdf7 trang | Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 23/03/2022 | Lượt xem: 206 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu hoàn thiện vàng câu tầng đáy khai thác mực vùng biển ven bờ tỉnh Khánh Hòa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2016 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 55 THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC NGHIÊN CỨU HOÀN THIỆN VÀNG CÂU TẦNG ĐÁY KHAI THÁC MỰC VÙNG BIỂN VEN BỜ TỈNH KHÁNH HÒA COMPLETE THE LONGLINES TO CATCH THE SQUID IN BOTTOM OF COASTAL WATERS IN KHANH HOA PROVINCE Trần Đức Phú1 Ngày nhận bài: 14/01/2016; Ngày phản biện thông qua: 09/03/2016; Ngày duyệt đăng: 15/6/2016 TÓM TẮT Nghề khai thác mực bằng câu vàng tầng đáy là nghề đang được ngư dân ở các tỉnh Tây Nam Bộ sử dụng rất hiệu quả ở vùng nước xa bờ. Đối với vùng nước ven bờ, đến thời điểm hiện nay chỉ có 01 nghiên cứu ứng dụng vàng câu tầng đáy để khai thác mực vùng ven bờ tỉnh Quảng Ninh với những cải tiến cơ bản về cấu trúc vàng câu phù hợp với địa hình vùng biển và mang lại hiệu quả cao. Bài báo này trình bày nghiên cứu hoàn thiện vàng câu khai thác mực tầng đáy phù hợp với điều kiện tự nhiên, địa hình cũng như các yếu tố thủy văn của vùng biển ven bờ tỉnh Khánh Hòa góp phần vào việc đảm bảo sinh kế, bảo vệ nguồn lợi và hệ sinh thái vùng nước ven bờ. Với 3 đợt tổ chức sản xuất thử nghiệm vàng câu mực tầng đáy tại ngư trường vùng ven bờ tỉnh Khánh Hòa, kết quả nghiên cứu đã hoàn thiện được vàng câu khai thác mực tầng đáy bao gồm chiều dài vàng câu là 7.500m, số lượng thẻo câu là 1.500 thẻo làm bằng vật liệu PA với đường kính 0,90mm, khoảng cách giữa các dây thẻo là 5m, số lượng xâu chì: 1.500 xâu với trọng lượng là 0,14kg/xâu; các móc xoay liên kết được chế tạo bằng vật liệu Inox. Từ khóa: Câu vàng, khai thác bền vững ABSTRACT The catching of squid by longlines is type of the fi shing gear which was used effi ciently by fi shers in the offshore in Southwest of Vietnam. Meanwhile, in inshore areas, there was only one case study to apply this fi shing gear in Quang Ninh province. With many structural innovations of longlines, it took much more economic consequence as well as improving livelihood. This paper reports the researching to complete the longlines to catch squid which live in the depth fl oor with some of innovations to appropriate with the tophography, hydrology of the coastal areas in Khanh Hoa province. By doing this, the livelihood be enhanced, protect ocean environment and coastal waters. With three experiments on the sea, the structural longlines were completed to catch squid in coastal waters in Khanh Hoa, including the length of longlines is 7.500m, the number of branch lines 1.500 units with 0,90milimets diameter made by PA plastic, 0,14kg wight of several blacklead chains. In addition to the innovitions, the using of Inox material to make the connectors between segments of main lines, and the main lines with branch lines. Keywords: longlines, sustainable fi shing 1 Viện Khoa học và Công nghệ khai thác thủy sản – Trường Đại học Nha Trang Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2016 56 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG I. ĐẶT VẤN ĐỀ Đối với lĩnh vực thủy sản, vấn đề đang được quan tâm hiện nay là sự cạn kiệt nguồn lợi ven bờ mà nguyên nhân chính là do khai thác tận thu từ một số lượng lớn các đội tàu có công suất dưới 90CV. Cường lực khai thác mạnh cùng với việc sử dụng các phương pháp khai thác hủy diệt đã ảnh hưởng trầm trọng đến hệ sinh thái của vùng nước ven bờ [4]. Tính đến năm 2014, toàn tỉnh Khánh Hòa hiện có trên 10.000 tàu cá các loại, tập trung chủ yếu ở các địa phương ven biển là Vạn Ninh, Ninh Hòa, Cam Lâm, Cam Ranh và Nha Trang. Trong đó, chỉ hơn 12% số tàu thuyền đủ điều kiện khai thác xa bờ (công suất từ 90CV trở lên), còn lại hơn 8.500 là tàu cá nhỏ hoạt động ở vùng ven bờ và vùng lộng [2,4]. Số lượng lớn tàu thuyền công suất nhỏ này tạo ra một áp lực lớn lên môi trường và nguồn lợi ven bờ tỉnh Khánh Hòa, chưa kể một bộ phận khai thác với các nghề mang tính hủy diệt nguồn lợi như lưới kéo, lờ dây, xiệc điện,... đã khiến cho nguồn lợi thủy sản ven bờ trở nên cạn kiệt, ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường sinh thái và thu nhập của cộng đồng ngư dân. Để hạn chế áp lực đối với vùng nước ven bờ, nghề cá Việt Nam đã có nhiều nghiên cứu triển khai ứng dụng các nghề khai thác mang tính chọn lọc, thân thiện với môi trường nhằm bảo vệ nguồn lợi cũng như hệ sinh thái vùng nước ven bờ, trong đó có nghề câu vàng khai thác mực tầng đáy. Với ưu điểm là quy trình chế tạo ngư cụ đơn giản, khai thác hoàn toàn bằng thủ công, nghề câu vàng tầng đáy đã được nghiên cứu hoàn thiện để khai thác tại vùng biển Quảng Ninh [1], Bến Tre [3] mang lại hiệu quả kinh tế cao. Do đó, việc áp dụng nghề câu vàng khai thác mực tầng đáy cho vùng biển ven bờ tỉnh Khánh Hòa là hết sức cần thiết nhằm bảo vệ nguồn lợi ven bờ và là cơ sở chuyển đổi nghề khai thác, giải quyết các vấn đề về môi trường cấp bách hiện nay cho nghề cá tỉnh Khánh Hòa. Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, chúng tôi tiến hành chọn vàng câu mẫu xuất xứ từ đề tài của tỉnh Quảng Ninh cùng với việc khảo sát các yếu tố về địa hình, khí tượng thủy văn vùng ven bờ tỉnh Khánh Hòa để thử nghiệm và hoàn thiện vàng câu khai thác mực có hiệu quả cho vùng biển này. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng nghiên cứu: Hoàn thiện vàng câu khai thác mực tầng đáy gồm: Dây triên chính, dây thẻo câu, trọng lượng xâu chì và phao ganh. 2. Phương pháp nghiên cứu 2.1. Lựa chọn vàng câu mẫu: Dựa vào vàng câu mẫu, tiến hành chế tạo vàng câu mới phù hợp với tàu thuyền, ngư trường, trình độ của ngư dân để thử nghiệm trên vùng biển Khánh Hòa. Cấu tạo tổng thể vàng câu như hình 1. Hình 1. Bản vẽ kỹ thuật vàng câu thử nghiệm lần 1 Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2016 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 57 2.2. Phương pháp tổ chức đánh bắt thử nghiệm - Địa điểm bố trí thực nghiệm: Tiến hành 3 đợt thử nghiệm tại vùng biển ven bờ tỉnh Khánh Hòa, có độ sâu từ 30 đến 40m. - Phương tiện thử nghiệm: Gồm 02 vàng câu được bố trí trên 01 tàu có công suất 145CV với đầy đủ các trang thiết bị như hải đồ, máy định vị và máy đo sâu dò cá. - Phương pháp tiến hành: Thử nghiệm lần 1: Theo dõi về độ ổn định của vàng câu trong nước gồm: Độ bền của dây triên chính, số lượng dây thẻo bị rối, bị đứt, trọng lượng xâu chì và sản lượng theo từng thành phần loài trong các mẻ lưới. Tổng số mẻ câu khai thác trong đợt thử nghiệm lần 1 là 18 mẻ gồm 02 chuyến biển trong khoảng thời gian là 23 ngày. Sơ đồ vàng câu thử nghiệm được bố trí như hình 1. Thử nghiệm lần 2: Sử dụng xâu chì có trọng lượng 0,14kg thay cho xâu chì có trọng lượng 0,1kg để hạn chế số lượng thẻo câu bị rối và đảm bảo thẻo câu hoạt động đúng độ sâu khai thác. Vàng câu trong đợt thử nghiệm lần 2 với chiều dài không đổi (7.500m), số lượng thẻo câu là 1.500 thẻo; trong đó 750 thẻo câu trang bị xâu chì trọng lượng 0,1kg và 750 thẻo câu có xâu chì trọng lượng 0,14kg. Hai loại thẻo câu này được lắp đặt xen kẽ theo quy cách cứ 10 thẻo xâu chì 0,1kg kết hợp với 10 thẻo có xâu chì 0,14kg cho đến kết thúc vàng câu. Tổng số mẻ câu của đợt thử nghiệm lần 2 là 16 mẻ, gồm 02 chuyến biển trong khoảng thời gian là 20 ngày. Phương pháp đánh giá hiệu quả của 02 loại xâu chì có trọng lượng khác nhau này là dựa vào: (1) số lượng thẻo câu bị rối theo từng loại; (2) sản lượng khai thác được trong tổng số mẻ câu khai thác theo từng loại thẻo câu được tính theo công thức (SL) = x Tổng số mẻ câu (2-1) [5], trong đó: SL: sản lượng khai thác của chuyến biển; là năng suất trung bình chung của cả chuyến biển (kg/100 lưỡi/mẻ câu); (2-2). Với N là số mẻ câu an toàn, bao gồm cả các mẻ có sản lượng bằng không; n là số mẻ câu có sản lượng khác không. Bảng 1. Bảng thống kê vật liệu 1 vàng câu thử nghiệm lần 1 TT Tên chi tiết Vật liệu Đơn vị tính Số lượng Quy cách 1 Dây chính PA Mono m 7500 Ф1,80mm 2 Thẻo câu trên PA Mono m 1.500x28 Ф0,90mm 3 Thẻo câu dưới PA Mono m 1.500x2 Ф0,90mm 4 Dây phao ganh PE m 1.500x11 Ф4mm 5 Mồi câu giả PVC Chiếc 1500 L = 140mm 6 Hạt cườm tạo nút liên kết PVC Chiếc 1.500x2 Ф5mm 7 Khóa xoay thẻo câu Inox Chiếc 1.500x2 L = 30mm 8 Móc kẹp Inox Chiếc 1.500 L = 35mm 9 Phao ganh PVC Quả 1.500 L400, Ф100 10 Chì Pb Viên 1.500x5 200g 11 Phao cờ - Dây phao cờ PE m 15x16 Ф4mm - Thân cờ Tre Chiếc 15 LxФ = 3mx30mm - Phao PVC Quả 15x2 PL300 - Vật nặng Xi măng Khối 15 5kg - Đèn chớp PVC Chiếc 15 3V, đỏ - Lá cờ Vải Chiếc 15 300mmx700mm Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2016 58 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG Thử nghiệm lần 3: Sử dụng đoạn thẻo câu dưới bằng vật liệu Inox nhằm hạn chế số hiện tượng thẻo câu bị đứt do cá nóc cắn. Chiều dài vàng câu trong đợt thử nghiệm lần 3 không đổi (7.500m), trong 1.500 thẻo câu có 750 thẻo cước với trọng lượng chì là 0,14kg/thẻo và 750 thẻo câu có đoạn thẻo câu dưới là vật liệu Inox. Hai loại thẻo câu này được lắp đặt xen kẽ theo qui cách cứ 10 thẻo câu vật liệu cước có trọng lượng 0,14kg kết hợp với 10 thẻo câu vật liệu Inox có trọng lượng xâu chì 0,14kg cho đến kết thúc vàng câu. Số mẻ lưới được khai thác trong đợt thử nghiệm lần 3 là 16 mẻ, trong khoảng thời gian là 20 ngày gồm 02 chuyến biển. Phương pháp đánh giá hiệu quả của 02 loại thẻo câu với 02 vật liệu khác nhau này là dựa vào: (1) số lượng thẻo câu có đoạn dưới bị đứt theo từng loại; (2) sản lượng khai thác được trong tổng số mẻ câu khai thác theo từng loại thẻo câu được tính theo công thức (2-1) và (2-2). Ngoài ra, trong đợt thử nghiệm này, độ bền của dây triên chính, các móc xoay liên kết, lực nổi phao ganh và sản lượng theo thành phần loài của từng mẻ lưới cũng được quan sát. Sơ đồ bố trí vàng câu thực nghiệm lần 3 như hình 3. Ngoài ra, đợt thử nghiệm thứ 2 cũng theo dõi số lượng thẻo câu có phần dưới bị đứt và xác định nguyên nhân để tiến hành giải pháp hoàn chỉnh tiếp theo. Sơ đồ bố trí vàng câu thực nghiệm lần 2 như hình 2: Hình 2. Vàng câu thử nghiệm lần 2 Hình 3. Vàng câu thử nghiệm lần 3 III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Bảng 2. Sản lượng khai thác của vàng câu trong 3 đợt thử nghiệm Đợt thử nghiệm Tổng sản lượng mực (kg) Số thẻo câu hoạt độngTổng Thẻo câu loại (A) Thẻo câu loại (B) Đợt 1 Tổng 362 - 362 22.475 2,9 Trung bình 35,6 - 35,6 1.249 2,9 Đợt 2 Tổng 360,2 215 145,2 10.735 3,36 Trung bình 45 26 18 1.341 3,36 Đợt 3 Tổng 300,5 280 20,5 15.156 2,0 Trung bình 27,3 25,5 1,9 1.378 2,0 (Theo câu loại A là thẻo câu có xâu chì trọng lượng 1,4kg thử nghiệm đợt 2 và đợt 3. Thẻo câu loại B là thẻo câu có xâu chì trọng lượng 1,0kg thử nghiệm đợt 1 và đợt 2. Ngoài ra, thẻo câu loại A cũng là thẻo câu có đoạn thẻo dưới bằng vật liệu Inox thử nghiệm đợt 3). Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2016 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 59 1. Kết quả thử nghiệm lần 1 - Sản lượng khai thác: Năng suất khai thác trung bình đạt 2,9kg/100 thẻo câu trong tổng số 1.249 thẻo câu của một mẻ lưới, sản lượng khai thác trung bình của mỗi mẻ câu là 35,6kg (bảng 2). - Tỷ lệ thẻo câu hoạt động: Số thẻo câu trung bình có tác dụng đánh bắt là 1.249 thẻo (chiếm 83%), số thẻo câu trung bình bị đứt và rối trong một mẻ câu là 251 thẻo (chiếm 17%) (bảng 3). - Tỷ lệ thẻo câu bị đứt và rối: Trong tổng số thẻo câu không có tác dụng đánh bắt (không hoạt động), số thẻo câu trung bình bị đứt là 88 thẻo/mẻ, chiếm 35%; số thẻo câu trung bình bị rối chiếm 65% (trung bình 164 thẻo/mẻ). Trong tổng số thẻo câu bị rối, có 50% số thẻo câu bị rối khi thả câu, số còn lại là do dòng chảy. Phần lớn số thẻo câu bị đứt thường xảy ra ở đoạn dưới của thẻo (tính từ chì đến rường câu) với số lượng 68 thẻo/mẻ, chiếm 77,3% và 20 thẻo câu bị đứt ở đoạn còn lại, chiếm 22,7% trong tổng số thẻo bị đứt. Số lượng thẻo câu mất tác dụng trong quá trình đánh bắt khoảng 17% so với tổng số thẻo câu hoạt động, làm giảm sản lượng của mẻ câu. Số thẻo câu trung bình bị rối chiếm khoảng 65% trong tổng số thẻo câu bị hư (không hoạt động). Trong hội thảo khoa học lần 1, các chuyên gia đều có chung nhận định là do trọng lượng chì của thẻo câu nhẹ làm cho các thẻo câu hoạt động không ổn định dẫn đến bị rối. Do đó, cần phải điều chỉnh lượng chì lên 0,14kg và tiến hành kiểm tra trong đợt thử nghiệm tiếp theo. - Tình trạng hoạt động của phụ tùng vàng câu (khóa xoay, móc kẹp, phao ganh): Số lượng khóa xoay liên kết các đoạn dây triên chính bị đứt không đáng kể (có 27 khóa xoay bị đứt trong chuyến thử nghiệm, chiếm 0,2% số lần bị đứt/mẻ câu). Khóa xoay giữa dây triên với dây thẻo đảm bảo độ bền, không làm rối thẻo câu, không bị đứt. Phao ganh đảm bảo lực nổi, ổn định được độ sâu của vàng câu trong nước. - Doanh thu và lợi nhuận chuyến biển: Số thẻo câu bị đứt không chỉ ảnh hưởng đến năng suất khai thác mà còn ảnh hưởng đến hiệu quả khai thác của chuyến biển. Chi phí để tu bổ và sửa chữa thẻo câu bị đứt và rối của vàng câu Bảng 3. Tình trạng hoạt động của vàng câu trong 3 đợt thử nghiệm Đợt thử nghiệm Số thẻo câu bị hư Tổng số thẻo câu hoạt động Đứt Rối Tổng Số lượng % Số lượng % Đợt 1 Tổng 1.580 35 2.945 65 4.525 22.475 Trung bình 88 35 163 65 251 1.249 Đợt 2 Tổng 569 45,5 696 54,5 1.265 10.735 Trung bình 71 45,5 87 54,5 158 1.341 Đợt 3 Tổng 302 32,6 1.041 77,4 1.344 15.156 Trung bình 40 32,6 82 77,4 122 1.378 Bảng 4. Chi phí, doanh thu và lợi nhuận của 3 đợt thử nghiệm Đợt thử nghiệm Doanh thu (1000đ) Chi phí (1000đ) Lợi nhuận (1000đ)Sửa chữa vàng câu Chi phí khác (dầu, nước đá, nhu yếu phẩm) Tổng Đợt 1 84,673 26,612 34,640 61,252 23,420 Đợt 2 112,658 20,963 34,400 55,363 57,296 Đợt 3 96,813 12,002 33,840 45,842 50,971 Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2016 60 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG chiếm 43,45% tổng chi phí của chuyến biển và chiếm 73% so với tổng doanh thu (bảng 4). 2. Kết quả thử nghiệm lần 2 - Sản lượng khai thác: Sản lượng trung bình tính trên 100 thẻo câu là 3,36kg, sản lượng trung bình trên 01 mẻ câu là 45kg; trong đó sản lượng khai thác thu được từ thẻo câu trang bị xâu chì 0,14kg là 26kg, thẻo câu trang bị xâu chì 0,1kg là 18kg (bảng 2). Việc tăng trọng lượng chì trên thẻo câu (7 viên chì 0,14kg) cho hiệu quả khai thác mực cao hơn so với thẻo câu thử nghiệm lần đầu. Năng suất khai thác của thẻo câu tăng trọng lượng chì đạt 26kg/mẻ, trong khi đó, thẻo câu trọng lượng chì 0,1kg chỉ đạt 18kg/mẻ. Ngoài ra, việc sử dụng xâu chì nặng cũng hạn chế được hiện tượng rối thẻo câu (chỉ có 6% trong tổng số thẻo câu bị rối). - Tỷ lệ thẻo câu hoạt động: Số thẻo câu trung bình có tác dụng đánh bắt trong một mẻ câu là 1.342 thẻo, chiếm gần 90% tổng số thẻo câu của vàng câu. Trong khi đó, số thẻo câu trung bình bị hư là 158 thẻo, chiếm 10% tổng số thẻo câu của vàng câu. Trong tổng số thẻo câu bị đứt và rối của đợt thử nghiệm lần 2, có 45,5% số thẻo câu bị đứt, 54,5% bị rối. Trong số thẻo câu bị rối có 94% thẻo câu có trọng lượng chì 0,1kg và 6% thẻo câu có trọng lượng chì 0,14kg (bảng 3). Số thẻo câu bị đứt ở đoạn dưới của thẻo tiếp tục xảy ra như thử nghiệm lần đầu, đây có thể là do ma sát giữa thẻo câu với nền đáy hoặc có thể do cá nóc cắn. - Doanh thu và lợi nhuận: Tổng chi phí chiếm khoảng 49% so với doanh thu của chuyến biển; trong đó chi phí dùng cho sửa chữa và thay mới thẻo câu (gồm cước và mồi giả) chiếm khoảng 37%, các chi phí khác chiếm 63% (bảng 4). - Tình trạng hoạt động của phụ tùng vàng câu (khóa xoay, móc kẹp, phao ganh): Số lượng khóa xoay liên kết các đoạn dây triên chính có 1 lần bị đứt trong tổng số 16 mẻ câu khai thác (chiếm 0,15% số lần bị đứt/mẻ câu). Các khóa xoay, móc kẹp liên kết giữa dây triên và dây thẻo đảm bảo được độ bền, ít sửa chữa hoặc thay thế (chiếm 2%/ vàng câu). Phao ganh đảm bảo lực nổi, ổn định được độ sâu của vàng câu trong nước. Qua thực tế 2 lần đánh bắt thử nghiệm kết hợp với ý kiến của các chuyên gia tại hội thảo khoa học lần 2, chúng tôi tiếp tục điều chỉnh thông số vàng câu và các phụ tùng để thử nghiệm lần 3. 3. Kết quả thử nghiệm lần 3 - Sản lượng khai thác: Sản lượng khai thác trung bình của mẻ câu là 27,3kg, trong đó sản lượng trung bình của thẻo câu bằng cước là 25,5kg (chiếm 93,2% sản lượng trung bình của mẻ câu) và thẻo câu bằng Inox là 1,9kg (chiếm 6,8%). Số thẻo câu trung bình có tác dụng đánh bắt của vàng câu là 1.378 thẻo, sản lượng trung bình/100 thẻo câu của 01 mẻ câu là 2,0kg (bảng 2). - Tỷ lệ thẻo câu hoạt động: Số thẻo câu trung bình có tác dụng đánh bắt của vàng câu là 1.378 thẻo, chiếm 92% tổng số thẻo câu của vàng câu, số thẻo câu trung bình không có tác dụng đánh bắt là 122 thẻo (chiếm 8,2%); trong đó có 82 thẻo câu bị rối (chiếm 77,4%), 40 thẻo bị đứt (chiếm 32,6%). Trong 40 thẻo câu bị đứt, số thẻo câu bằng cước chiếm đến 98% so với số thẻo câu bằng Inox. Tuy nhiên, việc áp dụng thẻo câu Inox làm cho mồi giả bị cứng, không mềm mại bằng cước nên sản lượng khai thác giảm, năng suất khai thác trung bình của mẻ câu còn 2kg/100 thẻo câu, đạt 59% so với thử nghiệm lần 2. Hiệu quả khai thác của thẻo câu bằng Inox chỉ đạt 6,8% so với thẻo câu bằng cước. - Doanh thu và lợi nhuận: Chi phí tu bổ, sửa chữa, thay mới rường câu cho mỗi mẻ câu trung bình khoảng 26% so với tổng chi phí; lợi nhuận thu được từ đợt thử nghiệm khoảng 53% (bảng 4). - Tình trạng hoạt động của phụ tùng vàng câu (khóa xoay, móc kẹp, phao ganh): Hoạt động của các khóa xoay, móc kẹp liên kết Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2016 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 61 đảm bảo độ bền, không bị đứt hay xoắn trong quá trình khai thác. Phao ganh đảm bảo lực nổi, không bị hư hỏng. Căn cứ vào sản lượng đánh bắt của 2 loại thẻo câu sử dụng vật liệu cước và Inox, kết hợp lợi nhuận thu được từ các chuyến biển cho thấy thẻo câu bằng cước có hiệu quả kinh tế cao hơn so với thẻo câu Inox. Do đó, việc sử dụng loại thẻo câu bằng cước để hoàn thiện công nghệ và đưa vào sản xuất là hợp lý và có tính khả thi cao. IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Kết luận: - Về kết cấu vàng câu: Chọn vàng câu có chiều dài 7.500m, số lượng thẻo câu 15.00 thẻo, khoảng cách giữa các thẻo câu là 5m, số lượng phao ganh 1.500 phao; khóa xoay liên kết dây triên chính 1.500 cái, móc kẹp giữa dây trên và thẻo câu 1.500 cái. Các bộ phận khác của cấu tạo vàng câu chọn lựa như thống kê ở bảng 1. - Về vật liệu chế tạo ngư cụ: + Dây triên chính: Sử dụng cước PA, đường kính 1,8mm. + Dây thẻo: Sử dụng cước PA, đường kính 0,9mm. + Chì: Hình trụ tròn, xâu chì có 7 viên chì kết lại với nhau, trọng lượng 0,14kg. + Khóa xoay, móc kẹp: Vật liệu bằng Inox, bảo đảm chất lượng, đáp ứng yêu cầu kỹ thuật (Bảng 1). + Phao ganh: Vật liệu PVC, hình trụ tròn, kín nước. 2. Kiến nghị - Tiếp tục triển khai vàng câu trên tàu cá có công suất từ 20 - 45CV để rút ngắn thời gian chuyến biển, thuận lợi trong quá trình nhân rộng mô hình, chuyển giao công nghệ. - Tiếp tục nghiên cứu triển khai câu vàng tầng đáy khai thác ở vùng biển khơi tỉnh Khánh Hòa (≥ 24 hải lý) để kết hợp vừa thăm dò ngư trường khai thác mực, vừa tránh được ảnh hưởng của nghề lưới kéo trong quá trình khai thác ven bờ. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt 1. Chi cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản tỉnh Quảng Ninh, 2013. Hoàn thiện và chuyển giao công nghệ khai thác mực bằng câu vàng tầng đáy vùng biển Quảng Ninh. 2. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2013, 2014. Báo cáo tổng kết ngành thủy sản tỉnh Khánh Hòa. 3. Hoàng Văn Tính, 2014. Nghiên cứu ứng dụng nghề câu vàng tầng đáy cho tỉnh Bến Tre. 4. Viện Khoa học và Công nghệ khai thác thủy sản - Trường Đại học Nha Trang, 2012. Điều tra thực trạng bảo quản sản phẩm khai thác trên tàu cá xa bờ và đề xuất giải pháp. Tiếng Anh 5. Jihoon Lee, Chun-Woo Lee, Ludvig Karlsen, 2011. Sea trials and application of a numerical method for the analysis of the ocean current displacement phenomena of demersal longlines.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnghien_cuu_hoan_thien_vang_cau_tang_day_khai_thac_muc_vung_b.pdf