Nghiên cứu chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất ruộng theo hướng sản xuất hàng hoá tại thành phố Lạng Sơn

Kết luận - Hệ thống cây trồng tương đối phong phú, tuy nhiên hiệu quả kinh tế cho một mô hình luân canh chưa cao, lợi nhuận thu được biến động từ 19,07 triệu đồng/năm đến 44,79 triệu đồng/năm tùy thuộc vào giống cây trồng cũng như công thức luân canh. - Công thức luân canh phổ biến trên đất ruộng 2 vụ là Lúa xuân - Lúa mùa sớm - rau vụ đông (hoặc Khoai tây) và Lúa xuân - Lúa mùa chính vụ - Công thức luân canh phổ biến trên đất ruộng1 vụ là ngô xuân - Lúa mùa- rau - vụ đông (hoặc Khoai tây) hoặc ngô xuân - Lúa mùa - bỏ hóa

pdf5 trang | Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 25/03/2022 | Lượt xem: 234 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất ruộng theo hướng sản xuất hàng hoá tại thành phố Lạng Sơn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đinh Ngọc Lan Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 62(13): 129 - 133 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 129 NGHIÊN CỨU CHUYỂN ĐỔI CƠ CẤU CÂY TRỒNG TRÊN ĐẤT RUỘNG THEO HƢỚNG SẢN XUẤT HÀNG HOÁ TẠI THÀNH PHỐ LẠNG SƠN Đinh Ngọc Lan* Trường Đại học Nông Lâm - ĐH Thái Nguyên TÓM TẮT Thành phố Lạng Sơn có tổng diện tích đất tự nhiên là 7.769 ha, trong đó đất nông nghiệp chiếm 16,67% và chủ yếu là đất ruộng. Cuộc sống của ngƣời nông dân Lạng Sơn chủ yếu dựa vào nông nghiệp, nhƣng sản xuất trồng trọt vẫn còn nghèo nàn và thiếu sự đầu tƣ trong các hoạt đông sản xuất. Cơ cấu cây trồng trên đất ruộng rất khác nhau giữa các hộ nông dân và cây trồng chính vẫn chủ yếu là lúa, ngô, đậu đỗ và rau. Lúa và rau là 2 cây hàng hóa chính ở đây nhƣng thị trƣờng tiêu thụ thì còn rất hạn chế. Kết quả nghiên cứu cho thấy việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng liên quan chặt chẽ với kiến thức của ngƣời nông dân về việc sử dụng nguồn sẵn có, cũng nhƣ các điều kiện kinh tế xã hội. Việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng nên tập trung vào đẩy mạnh tăng vụ, tăng các loại cây trồng mang tính chất hàng hóa và thay giống cây trồng mới. Từ khóa: Luân canh, cơ cấu cây trồng, đất ruộng, Lạng Sơn, nông nghiệp  ĐẶT VẤN ĐỀ Thành phố Lạng Sơn là trung tâm chính trị- kinh tế- văn hoá - xã hội của tỉnh Lạng Sơn và là một thành phố thƣơng mại, du lịch với nhiều danh lam thắng cảnh. Tổng diện tích đất tự nhiên là 7.769 ha trong đó đất nông nghiệp chiếm 16,67% và chủ yếu là đất ruộng [3]. Hiện nay trên đất ruộng tại nhiều xã, phƣờng của Thành phố Lạng Sơn vụ xuân và vụ hè vẫn trồng chủ yếu là lúa với năng suất thấp (4 tấn/ha). Tuy các chủng loại rau rất đa dạng và phong phú, đặc biệt là một số loại rau đặc sản nhƣ Cải làn, Cải ngồng ngọt, Cải xanh.... đƣợc ngƣời tiêu dùng ƣa chuộng, giá cao hơn với mức giá của các loại rau thông dụng khác, nhƣng diện tích trồng rau hàng năm mới chỉ chiếm 284 ha, và rất manh mún, không tập trung. Trong những năm qua nền kinh tế Lạng Sơn đã có nhiều bƣớc tăng trƣởng mạnh, thành phố Lạng Sơn bƣớc đầu đã chuyển đổi đƣợc cơ cấu cây trồng tại một số địa bàn thuộc Thành phố. Nhƣng thực tế ngƣời dân Lạng Sơn vẫn chƣa phát huy thế mạnh về các nông sản trong những điều kiện tự nhiên thích ứng, chƣa tạo ra một vùng sản xuất nông nghiệp hàng hoá, việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vẫn còn nghèo nàn, chƣa đầu tƣ thâm canh cao.  Tel: 0914389928, Email:dinhngoclan2001@yahoo.com Trong thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nƣớc, với cơ chế thị trƣờng mở, ở mỗi vùng đều có thế mạnh đặc thù về sinh thái và môi trƣờng, không chỉ biết có trồng cây lƣơng thực mà cần phải đa dạng hoá cây trồng. Nghị quyết IX và X của Đảng ta đã xác nhận quan điểm trên và nhà nƣớc ta đang khuyến khích chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp để đảm bảo nâng cao hiệu quả kinh tế cho từng nông hộ, nâng cao hiệu quả sản xuất trên cơ sở khai thác tối ƣu lợi thế so sánh của từng tiểu vùng, đẩy mạnh sự phát triển kinh tế và đảm bảo sản xuất đƣợc bền vững[1], [7] [8]. Do đó để tồn tại và phát triển, nền nông nghiệp thành phố Lạng Sơn nhất định phải có hƣớng chuyển đổi tích cực hơn để thích ứng nhanh với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt của thị trƣờng. Vì vậy, giải pháp đặt ra là cần phải nghiên cứu, chuyển đổi cơ cấu cây trồng cho phù hợp, quy hoạch các vùng sản xuất mang tính chất sản xuất hàng hoá cho thành phố Lạng Sơn. Phát triển bền vững các loại nông sản là thế mạnh, có chất lƣợng, có khả năng cạnh tranh cao, đồng thời nghiên cứu và xác lập đƣợc một hệ thống thị trƣờng tiêu thụ sản phẩm, nhƣ vậy sẽ nâng cao hiệu quả sử dụng đất và giúp cho nông dân có thêm cơ sở để phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống. Đinh Ngọc Lan Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 62(13): 129 - 133 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 130 NỘI DUNG, PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Nội dung - Phân tích tình hình sản xuất và cơ cấu các loại cây trồng trên đất ruộng - Phân tích thuận lợi và khó khăn trong quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng. - Định hƣớng cơ cấu cây trồng hợp lý trên đất ruộng theo hƣớng sản xuất hàng hoá Phƣơng pháp nghiên cứu Trong quá trình điều tra nghiên cứu để đảm bảo độ tin cậy chắc chắn và tính khả thi cao, đề tài sử dụng các phƣơng pháp điều tra nhƣ phƣơng pháp đánh giá nhanh nông thôn, phƣơng pháp đánh giá nông thôn có sự tham gia của ngƣời dân, phƣơng pháp phỏng vấn sâu và phỏng vấn nông dân theo bảng câu hỏi. - Phƣơng pháp phân tích số liệu Đề tài sử dụng phƣơng pháp phân tích thống kê mô tả và một số phƣơng pháp phân tích kinh tế lƣợng.để kiểm định giá trị, so sánh, tính toán hiệu quả kinh tế, phân tích tất cả các điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của hộ gia đình, sự tiếp cận nguồn thông tin kỹ thuật, việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất ruộng của nông dân và giá cả thị trƣờng,. .... - Phạm vi nghiên cứu Địa bàn nghiên cứu đƣợc chọn là 3 xã: Mai Pha, Quảng Lạc, Hoàng Đồng thuộc thành phố Lạng Sơn, ba xã này đại diện cho sản xuất nông nghiệp của thành phố Lạng Sơn cả về mặt điều kiện tự nhiên lẫn điều kiện kinh tế xã hội. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN Cơ cấu diện tích cây trồng hàng năm và các công thức luân canh tại hộ gia đình Kết quả điều tra tại 3 xã : Mai Pha, Quảng Lạc, Hoàng Đồng tại thành phố Lạng Sơn cho thấy nông dân thƣờng bố trí các loại cây trồng chính là : lúa xuân, lúa mùa, ngô xuân, ngô hè thu, đỗ tƣơng, rau... Trong đó diện tích trồng lúa mùa chiếm tỷ lệ khá cao: Diện tích trồng lúa mùa tại xã Mai Pha là: 2420 m2/hộ nông dân, tại xã Quảng Lạc là: 2640 m2/hộ nông dân và tại xã Hoàng Đồng diện là: 1620 m 2/hộ nông dân (Bảng 1) . Các công thức luân canh phổ biến Kết quả điều tra cho thấy một số công thức luân canh đƣợc sử dụng phổ biến tại 3 xã Mai Pha, Quảng Lạc, Hoàng Đồng là: Lúa xuân - lúa mùa - rau đông ( cải bắp, su hào, rau cải) Lúa xuân - lúa mùa chính vụ Ngô xuân - lúa mùa - rau đông ( cải bắp, su hào, rau cải) Ngô xuân - lúa mùa - khoai tây Trong đó ở xã Mai Pha công thức luân canh đƣợc sử dụng nhiều nhất là: lúa xuân - lúa mùa - cải bắp (su hào, rau cải): 73,33% số hộ, tiếp theo là công thức luân canh ngô - lúa mùa - cải bắp (su hào, rau cải) 33,67%. Ở xã Quảng Lạc công thức luân canh đƣợc sử dụng nhiều nhất là: Lúa xuân - lúa mùa - khoai tây: 53,33%, tiếp theo là ngô xuân - lúa mùa - cải bắp (su hào, rau cải) 53,00% Bảng 1. Cơ cấu diện tích cây trồng hàng năm tại hộ gia đình (ĐVT: 1000m2/hộ ND) Loại cây trồng Xã Mai Pha Xã Quảng Lạc Xã Hoàng Đồng Lúa xuân 1,76 1,64 1,58 Lúa mùa 2,42 2,64 1,62 Ngô xuân 0,84 1,50 0,35 Ngô hè thu 0,14 0,22 0,02 Ngô đông 0,00 0,06 0,05 Đỗ tƣơng 0,07 0,16 0,12 Rau( cải, su hào ,bắp cải,) 0,58 0,49 0,25 Khoai tây 0,00 0,17 0,65 Nguồn: Số liệu điều tra năm 2008 Đinh Ngọc Lan Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 62(13): 129 - 133 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 131 Bảng 2: Công thức luân canh phổ biến tại 3 xã Mai Pha, Quảng Lạc, Hoàng Đồng (ĐVT: % số hộ trồng) Công thức luân canh Mai Pha Quảng Lạc Hoàng Đồng Lúa xuân - lúa mùa - khoai tây 27,23 53,33 73.00 Lúa xuân - lúa mùa chính vụ 44,22 43,33 33.00 Lúa xuân - lúa mùa - cải bắp (su hào, rau cải) 73,33 50,00 27,23 Ngô xuân - lúa mùa - cải bắp (su hào, rau cải) 33,67 53,00 13,00 Ngô xuân - lúa mùa - bỏ hoang 33,00 38,12 40,00 Ngô xuân - lúa mùa - khoai tây 13,67 15,00 12,05 Dƣa - lúa mùa - cải bắp (su hào, rau cải) 12,55 12.43 6,25 Dƣa - lúa mùa - bỏ hoang 16,12 15,12 12,05 Nguồn: Số liệu điều tra năm 2008 Bảng 3: Hiệu quả kinh tế của một số công thức luân canh phổ biến (ĐVT: Triệu VNĐ/ha) Công thức luân canh Mai Pha Quảng Lạc Hoàng Đồng Trung bình Lúa xuân - Lúa mùa - Khoai tây 42,504 34,303 40,158 38,988 - Lúa xuân - Lúa mùa – Cải bắp 46,031 41,314 41,190 42,845 Ngô xuân - Lúa mùa - Rau đông 42,169 38,655 37,956 39,593 Ngô xuân - Lúa mùa - Bỏ hoang 18,626 16,635 21,956 19,072 Lúa xuân - lúa mùa chính vụ 24,12 22,35 23,55 23,34 Ngô xuân - Lúa mùa - Khoai tây 38,642 31,651 36,915 35,736 Dƣa chuột - Lúa mùa - Rau cải 47,852 46,609 39,910 44,790 Nguồn: Số liệu điều tra năm 2008 Ở xã Hoàng Đồng công thức luân canh đƣợc sử dụng nhiều nhất là lúa xuân - lúa mùa - khoai tây 73,00%, tiếp theo là ngô xuân - lúa mùa - bỏ hoang 40,00%. Hạch toán hiệu quả kinh tế của các hệ thống cây trồng Kết quả ở bảng 03 cho thấy: Công thức có hiệu quả kinh tế cao nhất là: Dƣa chuột - lúa mùa - cải bắp (cải làn, su hào, rau cải) với lãi thuần đạt 44,790 triệu VND/ ha, Sở dĩ công thức này có thu nhập cao nhất vì trong hai năm vừa qua, dƣa chuột đạt năng suất cao, diện tích trồng dƣa chuột lại chƣa nhiều nên dƣa bán đƣợc giá cao. Tiếp đến là công thức: Lúa xuân - lúa mùa - cải bắp với lãi thuần đạt đạt 42,845 triệu VND/ha. Đây là công thức đƣợc đánh giá đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất trên chân đất hai vụ lúa. Mặc dù công thức hợp lí nhƣng hiệu quả đem lại cho bà con vẫn chƣa thực sự mỹ mãn vì bà con vẫn chƣa áp dụng đúng kỹ thuật vào sản xuất và chƣa chọn đƣợc những bộ giống thích hợp. Công thức có hiệu quả kinh tế thấp nhất là: Ngô xuân - lúa mùa - bỏ hoang lãi thuần chỉ đạt 19,072 triệu VNĐ/ha/. Hiện nay diện tích trồng theo công thức này vẫn còn chiếm diện tích lớn. Trong những năm tới, chúng ta cần huy động mọi nguồn lực để thu hẹp diện tích này. Trở ngại đối với việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng Qua thu thập ý kiến đánh giá của bà con nông dân, một số trở ngại chính ảnh hƣởng đến sản xuất cũng nhƣ việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng đƣợc bà con nêu ra nhƣ: - Điều kiện sản xuất không thuận lợi: Vụ xuân thời tiết thƣờng lạnh nên đa số các loại cây trồng phải trồng muộn do đó ảnh hƣởng đến thời vụ của vụ mùa. Đặc biệt là các chân ruộng cao, không có hệ thống tƣới tiêu thƣờng thiếu nƣớc trong mùa khô - Thiếu giống, chất lƣợng giống không tốt: Giống cây trồng ở các cửa hàng và công ty Đinh Ngọc Lan Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 62(13): 129 - 133 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 132 cung cấp giống cây trồng thƣờng không phong phú, không đủ, không nhiều giống mới. - Thiếu thông tin cần thiết về đầu vào, đầu ra cho quá trình sản xuất - Thiếu vốn đầu tƣ sản xuất, thiếu kỹ thuật - Trình độ học vấn của ngƣời dân còn thấp. Quan điểm của nông dân về chuyển đổi cơ cấu cây trồng Khi hỏi nông dân về quan điểm của họ về sự cần thiết phải chuyển đổi cơ cấu cây trồng, phần lớn họ cho là cần thiết (64% ý kiến đánh giá) và rất cần thiết (18% ý kiến đánh giá). Còn lại khoảng 16% cho là không biết hoặc không cần thiết. Điều đó cho ta thấy rằng ngƣời nông dân đã có sự nhận thức về sự cần thiết của việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, góp phần tăng thu nhập kinh tế hộ. Tuy nhiên, việc ra quyết định sẽ chuyển đổi hay không là còn tuỳ thuộc vào điều kiện đất đai của nông hộ, nguồn lực gia đình, và các yếu tố thị trƣờng. Yếu tố thị trƣờng và lợi nhuận cũng nhƣ khả năng đảm bảo độ an toàn cao trong tiêu thụ sản phẩm Hiện nay thông tin thị trƣờng đến với nông dân còn rất hạn chế. Phần lớn số hộ khảo sát tiếp cận thông tin thị trƣờng qua các kênh thông tin không chính thức nhƣ bạn bè, láng giềng, lái buôn. Việc tiếp nhận thông tin từ cán bộ khuyến nông chƣa đƣợc nhiều, chƣa đƣợc đầy đủ. Đóng góp của thương nhân và các nhà chế biến trong sản xuất hàng hóa Tất cả các hộ gia đình thuộc đối tƣợng khảo sát (100%) đều có bán sản phẩm nông nghiệp do mình làm ra. Khi phân tích về số lƣợng ngƣời mua hàng thì thấy rằng phần lớn những cuộc giao dịch mua bán cũng đều tập trung vào thị trƣờng tự do ở chợ. Một số nông dân cũng nêu lên rằng họ cũng có bán cho các lái buôn ở chợ hoặc tại nhà, nhƣng số này rất ít. Đối với đối tƣợng mua là Công ty thu mua của Nhà nƣớc, Công ty chế biến nông sản và hợp tác xã thì hầu nhƣ rất hiếm. Định hƣớng chuyển đổi cơ cấu cây trồng + Chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo 4 hƣớng chính: - Tăng thêm 1 vụ cây trồng mới trong vụ đông trên những diện tích đất thuận lợi của các khu vực đất hiện đang bỏ hóa vụ đông. - Chuyển đổi loại cây trồng sang những loại cây trồng mang tính sản xuất hàng hoá. - Thay giống cây trồng mới - Đƣa thêm một số cây trồng mới vào công thức luân canh hiện có để đa dạng hoá cây trồng. + Công thức luân canh chủ đạo: Rau xuân - lúa mùa sớm- rau đông Lúa xuân - lúa mùa sớm- rau đông; Màu xuân - lúa mùa sớm- rau đông; Ngoài ra còn có thể đƣa thêm 1 số chủng loại hoa vào trong cơ cấu vụ đông ở những chân đất thuận lợi ví dụ nhƣ hoa ly vì hiệu quả kinh tế của mô hình có trồng hoa cao hơn rất nhiều so với các cây trồng hàng năm khác. Các loại rau đƣợc khuyến cáo trồng trong các công thức trên là: cà chua, cải làn, su hào, cải bắp, súp lơ, cải ngọt, cải mơ, bí xanh KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ Kết luận - Hệ thống cây trồng tƣơng đối phong phú, tuy nhiên hiệu quả kinh tế cho một mô hình luân canh chƣa cao, lợi nhuận thu đƣợc biến động từ 19,07 triệu đồng/năm đến 44,79 triệu đồng/năm tùy thuộc vào giống cây trồng cũng nhƣ công thức luân canh. - Công thức luân canh phổ biến trên đất ruộng 2 vụ là Lúa xuân - Lúa mùa sớm - rau vụ đông (hoặc Khoai tây) và Lúa xuân - Lúa mùa chính vụ - Công thức luân canh phổ biến trên đất ruộng1 vụ là ngô xuân - Lúa mùa- rau - vụ đông (hoặc Khoai tây) hoặc ngô xuân - Lúa mùa - bỏ hóa - Quan điểm của nông dân về chuyển đổi cơ cấu cây trồng: có tới 82 % nông dân mong muốn đƣợc chuyển đổi cơ cấu cây trồng. Tuy vậy theo ý kiến tự nhận xét của nông dân ở vùng điều tra cho thấy một số khó khăn trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng nhƣ một vài Đinh Ngọc Lan Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 62(13): 129 - 133 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 133 cây trồng vẫn còn thiếu giống và chất lƣợng giống không tốt, thiếu kỹ thuật tiên tiến, trình độ văn hóa còn chƣa cao, điều kiện sản xuất không thuận lợi nhƣ thiếu hệ thống thủy lợi. Yếu tố thị trƣờng và lợi nhuận đặc biệt tác động mạnh, chi phối đến các quyết định lựa chọn phƣơng án sản xuất kinh doanh và mức độ đầu tƣ của nông hộ. Hiện còn thiếu các kênh cung cấp thị trƣờng chính thống, thiếu sự dự báo về thị trƣờng nông sản. Khuyến nghị Tăng cƣờng năng lực của nông dân nhằm đói phó với những rủi ro của thị trƣờng và sự ổn định của giá cả thông qua các phƣơng tiện thông tin thông tin đại chúng, các kênh thông tin của nhà nƣớc, khuyến nông, hội nghị, hội thảo trong đó quan tâm đến việc dự báo về thị trƣờng. Tăng cƣờng công tác khuyến nông, hƣớng dẫn kỹ thuật nhằm giúp nông dân có điều kiện giảm giá thành và mang lại lợi nhuận khá, đảm bảo một tỷ lệ an toàn về lợi nhuận. Cán bộ khuyến nông phải tiếp tục gắn bó với nông dân trong quá trình thử nghiệm các mô hình canh tác mới. Cần thực hiện nhiều hơn các mô hình thí điểm trồng cây/ vật nuôi mới nhằm giúp nông dân an tâm sản xuất. Khuyến khích các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, các tổ chức hoặc cá nhân trung gian tiếp cận với nông dân thông qua các mối liên hệ gắn bó hài hoà lợi ích nhƣ hợp đồng kinh tế nhằm gắn bó nông dân, bảo đảm một tỷ lệ an toàn nhất định cho nông dân khi họ quyết định đầu tƣ chuyển dịch cơ cấu. Đẩy mạnh mô hình gắn bó giữa nhà khoa học, doanh nghiệp, các cơ quan nhà nƣớc với nông hộ. Sự gắn bó chặt chẽ đó sẽ có tác động trực tiếp và tích cực đến quyết định và khả năng thành công của nông dân trong việc lựa chọn phƣơng án sản xuất, mức độ đầu tƣ, tính toán hiệu quả và mƣc tham gia của thị trƣờng. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1].Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2005), Kinh tế- chính sách nông nghiệp và phát triển nông thôn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. [2].Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2003), Nghiên cứu nhu cầu nông dân, Nxb Thống kê, Hà Nội. [3].Cục thống kê Lạng Sơn. Niên giám thống kê Lạng Sơn 2008, Nxb Thống kê, Hà Nội. [4] FAO (1995), Phát triển hệ thống canh tác, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. [5].Phạm Xuân Nam (1997), Phát triển nông thôn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. [6].Trần Ngọc Ngoạn, Nguyễn Hữu Hồng và Đặng Văn Minh (1999) Giáo trình hệ thống nông nghiệp, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. [7].Vũ Đình Thắng và Hoàng Văn Định. 2002. Giáo trình kinh tế phát triển nông thôn. Nxb Thống kê, Hà Nội. [8]. Đặng Kim Sơn (2008), Kinh nghiệm Quốc tế về nông nghiệp, nông thôn, nông dân trong quá trình công nghiệp hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. SUMMARY RESEARCH ON CHANGING OF CROP SYSTEMS ON PADDY RICE LAND IN THE DIRECTION OF COMERCIAL PRODUCTION IN LANG SON CITY. Dinh Ngoc Lan College of Agriculture and Forestry – Thai Nguyen University Lang Son city covers an area of some 7.769 hectares, 16.67% of which is situated on agricultural land and mainly is paddy rice land. In Lang Son city, Farmers live off what they can produce themselves and the agricultural production still plays a main role in the household economics development. But the crop production systems were simple and there was a lack of investment for production activities. Farmers used paddy rice land to grow crop systems differently. The main crops are rice, maize, beans and vegetables. Rice and vegetables were the most important products sold to the market, as they were the main cash crops in the areas. The market channel for crop products was quite simple. The study results show that the change of crop systems closely corresponds with the farmer’s knowledge of the resources as well as the socio-cultural and economic situation and need to increase one crop season, use cash crop as well as use new crop varieties. Key word: Rotational crop, plant structure, rice land, crop system, Lang Son  Tel: 0914389928, Email: dinhngoclan2001@yahoo.com

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnghien_cuu_chuyen_doi_co_cau_cay_trong_tren_dat_ruong_theo_h.pdf