Khảo sát hoạt tính ức chế 8 loại vi sinh vật
kiểm định của 4-allylpyrocatechol chúng tôi
thấy nó có hoạt tính ức chế mạnh S.aureus là
tụ cầu gây viêm nhiễm, IC50 = 50 µg/ml (xem
bảng 3). Khảo sát hoạt tính chống oxi hóa của
4-allylpyrocatechol đối với DPPH cho thấy
nó là chất chống oxi hóa mạnh có SC% =
77,32% và SC50 = 12,87 µg/ml (xem bảng 4).
Các kết quả trên cho thấy phương pháp chiết
phân lớp chọn lọc các chất trong lá trầu theo
độ phân cực tăng dần của dung môi cùng với
độ phân cực tăng dần của dịch bị chiết lá trầu
có nhiều ưu điểm. Nó không chỉ cho phép
chúng tôi tìm thấy 2 chất có hoạt tính sinh học
quí trong lá trầu là eugenol và 4-
allylpyrocatechol mà còn cho thấy chúng
được chiết tập trung trong hai dung môi là
diclometan và etyl axetat
5 trang |
Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 556 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu các hợp chất có hoạt tính sinh học trong lá trầu (Piper betle L.), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phạm Thế Chính và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 96(08): 69 - 73
69
NGHIÊN CỨU CÁC HỢP CHẤT CÓ HOẠT TÍNH SINH HỌC
TRONG LÁ TRẦU (PIPER BETLE L.)
Phạm Thế Chính1,
Phạm Thị Thắm1, Nguyễn Hồng Phong1
1Trường Đại học Khoa học - ĐH Thái Nguyên
2Trường Đại học Khoa học Tự nhiên - ĐHQG Hà Nội
TÓM TẮT
Bằng phương pháp chiết theo độ phân cực tăng dần của dung môi, các lớp chất thiên nhiên trong lá
trầu không Piper Betle L. đã được phân tách thành bốn lớp chất khác nhau. Lớp chất kém phân cực
được chiết bằng n-hexan (cặn H, 4,62%), lớp chất phân cực trung bình được chiết bằng dung môi
diclometan (cặn D, 4,19% ), lớp chất phân cực được phân bố vào dung môi chiết etyl axetat (cặn
E, 1,80%), lớp chất phân cực cao phân bố vào dung môi chiết metanol-nước (cặn W, 6,03%). Hoạt
tính vi sinh vật của các cặn chiết đã được nghiên cứu, trong đó cặn E có hoạt tính mạnh nhất,
kháng được hai dòng vi sinh vật S. aurenus và E. coli, cặn chiết D kháng được S. aurenus. Từ cặn
chiết D đã phân lập được hai chất tinh khiết là 4-allylpyrocatechol và eugenol, từ cặn chiết E phân
lập được một chất tinh khiết 4-allylpyrocatechol. Cấu trúc của các hợp chất phân lập được xác
định bằng các phương pháp phổ IR, MS, 1H&C-NMR, DEPT, HSQC, HMBC. Hợp chất 4-
allylpyrocatechol đã được nghiên cứu hoạt tính chống oxi hóa với SC50=12,87 µg/ml và kháng
mạnh dòng S. aurenus (MIC=50 µg/ml).
Từ khóa: Piper, betle, sriboa, eugenol, trầu
MỞ ĐẦU*
Cây trầu có tên khoa học là Piper betle L.
(hay Piper sriboa L.), thuộc họ hồ tiêu
(Piperaceae), được trồng ở khắp nơi trong
nước ta để lấy lá ăn trầu. Nó còn được trồng
tại nhiều nước khác ở châu Á, vùng nhiệt đới
như Malaysia, Inđonesia, Philippin... Ngoài
việc dùng lá trầu nhai với cau và vôi để ăn
trầu và bảo vệ răng miệng, dân gian còn dùng
nước lá trầu để sát trùng, chống lở loét, chống
viêm nhiễm...[2]. Do vậy nghiên cứu các hợp
chất có hoạt tính sinh học trong lá trầu được
các nhà khoa học thế giới đặc biệt quan tâm
[1,3,4], nhưng trong nước mới có vài công
trình nghiên cứu sơ bộ về lá trầu. Chúng tôi
chú trọng nghiên cứu các hoạt chất có hoạt
tính sinh học theo phương pháp thử sinh học.
THỰC NGHIỆM VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
Mẫu thực vật
Lá trầu không (Piper betle L.) được thu hái
vào tháng 2 năm 2009 tại Hải Dương. Mẫu
thực vật được GS. TS Nguyễn Nghĩa Thìn
giám định và phân loại.
*
Tel: 0988 113933, Email: chemistry20069@gmail.com
Hóa chất và thiết bị
Chất hấp phụ dùng cho sắc kí cột là silica gel
(0,040 – 0,063 mm, Merck). Sắc kí lớp mỏng
dùng bản mỏng tráng sẵn 60F254 (Merck). Các
dung môi chiết và chạy sắc kí đạt loại tinh
khiết (PA).
Phổ cộng hưởng từ hạt nhân được ghi trên
máy Bruker AV ở 500 MHz đối với phổ 1H
và 125,7 MHz đối với 13C-NMR. Phổ khối
lượng được đo trên máy LC-MSD-Trap-SL
và Hewlett Packard HP 5890, Serie II. Phổ IR
được đo trên máy Impac 410-Nicolet FT-IR.
Chiết phân lớp các lớp chất trong lá trầu
1000 g bột lá trầu khô được ngâm chiết với
MeOH khan ở nhiệt độ phòng 3 lần, mỗi lần 2
ngày. Gộp dịch chiết, cất quay ở áp suất thấp
ở 400C đến còn 600 ml. Hạ nồng độ MeOH
đến 60% bằng nước rồi chiết bằng n-hexan 3
lần, mỗi lần 100 ml. Hạ thấp nồng độ MeOH
đến 50% rồi chiết bằng CH2Cl2 3 lần mỗi lần
100 ml. Hạ thấp nồng độ MeOH còn 25%
chiết 3 lần mỗi lần 100 ml EtOAc. Làm khô
các dịch chiết và loại dung môi ở áp suất thấp
thu được các cặn chiết tương ứng như bảng 1.
Phạm Thế Chính và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 96(08): 69 - 73
70
Bảng 1. Hiệu suất của các cặn chiết thu được từ lá trầu
Cặn chiết n-hexan (H) Diclometan (D) Etylaxetat (E) Metanol-nước (W)
Khối lượng (g) 46,2 41,9 18,0 60,3
Hiệu suất (%) 4,62 4,19 1,80 6,03
Khảo sát hoạt tính kháng vi sinh vật kiểm định (VSVKĐ) của các cặn H, M, E, W
Phương pháp thử hoạt tính kháng vi sinh vật kiểm định: các mẫu thử được thực hiện trên các
phiến vi lượng 96 giếng (96-well microtiter plate). Theo phương pháp hiện đại của Vander
Bergher và Vlietlinck (1991), và MCKance, L., & Kandel (1996). Môi trường thí nghiệm: Eugon
Broth (Difco, Mỹ) cho vi khuẩn, Mycophil (Difco, Mỹ) cho nấm. Mẫu thô có MIC ≤ 200 µg/ml
là có hoạt tính. Kết quả chỉ ra ở bảng 2.
Bảng 2. Hoạt tính kháng VSVKĐ của các cặn chiết của lá trầu
STT
Kí
hiệu
mẫu
Nồng độ ức chế tối thiểu (MIC: µg/ml)
Vi khuẩn Gr(-) Vi khuẩn Gr(+) Nấm mốc Nấm men
E.
Coli
P.
Aeruginosa
B.
Subtillis
S.
Aureus
Asp.
Niger
F.
Oxysporum
C.
Albicans
S.
Cerevisiae
1 H (-) (-) (-) (-) (-) (-) (-) (-)
2 D (-) (-) (-) 200 (-) (-) (-) (-)
3 E 200 (-) (-) 200 (-) (-) (-) (-)
4 W (-) (-) (-) (-) (-) (-) (-) (-)
Phân lập các hợp chất trong cặn D và E
bằng sắc ký cột
Cho 4 g cặn D lên cột 2,5 x 80 cm, có chứa
120 g silica gel cỡ hạt 40 – 63 µm, rửa cột
bằng n-hexan/etyl axetat, 4/1, v/v với tốc độ
25 giọt/ phút, thể tích các phân đoạn 4 ml.
Kiểm tra các phân đoạn bằng sắc kí lớp
mỏng, thu các phân đoạn chỉ có một vệt chất
cùng Rf và cùng sắc phổ, loại dung môi thu
chất sạch. Kết quả phân lập được D1 và D2,
D1 chiếm 16,25% trọng lượng cặn D, D2
chiếm 45,25% trọng lượng cặn D.
Tương tự như trên tiến hành sắc ký cột 4,2 g
cặn E, kết quả thu được 1 chất tinh khiết là
E1, chiếm 73,81% khối lượng cặn E.
D1 là một chất lỏng có 25Dn =1,5401, Rf=0,76
n-hexan/etyl axetat ,4/1, v/v.
IR (Film): νmaxcm -1: 3517 (OH), 3083 (CH
thơm); 2941, 2849 (CH3,CH2); 1594, 1443
(C=C, thơm); 990 (=CH2).
EI-MS: M+=164, m/z (%):164 (100%),
149(38%), 131(22%), 121 (18%), 103 (21%),
91(20%), 77 (23%), 65(10%), 55(22%).
1H-NMR (500MHz, DMSO), δ (ppm): δ 3,25
(2H, d br, J= 4,8 Hz, 2H-1’); 3,72 (3H, s,
OCH3); 5,02 (2H, d br, J=7,0 Hz, H-3’); 5,89
(1H, m, H-2’); 6,55 (1H, dd, J = 1,8; 8,0 Hz,
H-5); 6,63 (1H, d, J = 1,8 Hz, H-3); 6,81 (1H,
d, J = 8,0 Hz, H-6); 8,80 (1H, s, OH).
13C-NMR (500MHz, DMSO), δ (ppm): δ
38,89 (C-1’); 55,68 (OCH3); 112,37 (C-6);
115,21 (C-3’); 115,83 (C-3); 118,83 (C-5);
132,30 (C-4); 138,05 (C-2’); 145,99 (C-3);
146,48 (C-1).
D2 và E1 đều là tinh thể hình kim màu trắng,
giống hệt nhau về các hằng số vật lý, sắc ký
lớp mỏng và phổ: tnc = 47-480C; Rf=0,60 n-
hexan/etyl axetat, 4/1, v/v.
MS: M-H=149; IR (Film): νmaxcm -1: 3497
(OH), 2908, 2845 (CH2), 1611, 1522, 1440
(C=C, thơm), 857 (=CH2).
1H-NMR (500MHz, DMSO), δ (ppm): δ 3,21
(2H, d br, J=4,8 Hz, H-1’); 5,03 (2H, d br, J=
7,0 Hz, H-3’); 5,90 (1H, m, H-2’); 6,45 (1H,
dd, J = 2,18; 8,0 Hz, H-5); 6,59 (1H, d, J =
2,18 Hz, H-3); 6,70 (1H, d, J = 8,0Hz, H-6);
8,68 (2H, OH).
13C-NMR (500MHz, DMSO), δ (ppm): δ
38,94 (C-1’); 115,06 (C-3’); 115,50 (C-6);
115,84 (C-3); 119,03 (C-5); 130,48 (C-4);
138,31 (C-2’); 143,41 (C-1); 145,09 (C-2).
Phạm Thế Chính và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 96(08): 69 - 73
71
Khảo sát hoạt tính sinh học của D2 (E1)
Khảo sát hoạt tính kháng VSVKĐ
Tiến hành khảo sát hoạt tính kháng VSVKĐ của E1 tương tự như ở mục trên. Kết quả chỉ ra ở
bảng 3.
Bảng 3. Hoạt tính kháng VSVKĐ của E1
Kí hiệu
mẫu
Nồng độ ức chế tối thiểu (MIC: µg/ml)
Vi khuẩn Gr(-) Vi khuẩn Gr(+) Nấm mốc Nấm men
E.
Coli
P.
Aeruginosa
B.
Subtillis
S.
Aureus
Asp.
Niger
F.
Oxysporum
C.
Albicans
S.
Cerevisiae
E1 (-) (-) (-) 50 (-) (-) (-) (-)
Khảo sát hoạt tính chống oxi hóa
Hoạt tính chống oxi hóa của E1 được tiến hành theo phương pháp của Shela G., Olga, M. B.,
Elena K., và cộng sự (2003). Dựa trên nguyên tắc 1,1-diphenyl-2-picryl hydrazyl (DPPH) có khả
năng tạo ra gốc tự do bền trong dung dịch EtOH bão hòa. Khi cho E1 vào hỗn hợp này, nếu chất
có khả năng làm trung hòa hoặc bao vây các gốc tự do sẽ làm giảm cường độ hấp thụ ánh sáng
của gốc tự do DPPH. Hoạt tính chống oxi hóa được đánh giá thông qua giá trị hấp thụ ánh sáng
của dịch thí nghiệm so với đối chứng khi đọc trên máy Elisa ở bước sóng 515 nm. Kết quả chỉ ra
ở bảng 4.
Bảng 4. Kết quả hoạt tính chống oxi hóa của E1
STT Kí hiệu mẫu Nồng độ mẫu (µg/ml) SC%
SC50
(µg/ml) Kết quả
1 Chứng (+) 50 77,7±0,2 15,97 Dương tính
2 Chứng (-) - 0,0±0,0 - Âm tính
3 E1 50 77,32±0,3 12,87 Dương tính
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Chiết phân lớp các hợp chất và khảo sát
hoạt tính kháng vi sinh vật của chúng
Để nghiên cứu các hợp chất có hoạt tính sinh
học trong lá trầu (Piper betle L.) chúng tôi
tiến hành chiết tổng các chất trong lá trầu
bằng MeOH, sau đó loại bớt dung môi MeOH
và chiết phân lớp các chất trong dịch chiết
MeOH theo độ phân cực tăng dần của dung
môi n-hexan, diclometan, etyl axetat và
MeOH tương ứng với độ phân cực tăng dần
của dịch bị chiết là 60% MeOH, 50% MeOH,
25% MeOH và cặn cuối cùng là MeOH. Bằng
cách này các hợp chất trong lá trầu được chiết
thành 4 lớp. Lớp chất không phân cực được
chiết bằng n-hexan chiếm 4,62%, lớp chất có
độ phân cực trung bình được chiết bằng
diclometan chiếm 4,19%, lớp chất có độ phân
cực cao hơn được chiết bằng EtOAc chiếm
1,80% và lớp chất có độ phân cực lớn nhất
được chiết bằng MeOH chiếm 6,03% trọng
lượng lá trầu khô. Rõ ràng hợp chất phân cực
mạnh và hợp chất không phân cực trong lá trầu
chiếm lượng lớn, chúng gấp rưỡi (10,65:5,99)
hợp chất có độ trung bình và khá.
Khảo sát hoạt tính kháng 8 loại vi sinh vật
kiểm định cho thấy các hợp chất không phân
cực và phân cực mạnh không có hoạt tính
(xem bảng 2). Trong khi đó các hợp chất có
độ phân cực trung bình và trung bình khá có
hoạt tính kháng vi sinh vật với 2 loại vi sinh
vật kiểm định là E.coli và S.aureus (xem bảng
2). Kết quả này cho thấy nghiên cứu hoạt chất
sinh học trong lá trầu chỉ cần nghiên cứu 2
lớp chất này (D và E).
Phạm Thế Chính và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 96(08): 69 - 73
72
OH
OH
CH2 CH CH2
1
2
3
4
5
6
1'
2' 3'3'2'
1'
6
5
4
3
2
1
OH
OCH3
CH2 CH CH2
Hình 1 Hình 2
Phân lập và xác định cấu trúc phân tử của
các hợp chất trong D và E
Để nhanh chóng xác định được hợp chất có
hoạt tính sinh học trong một lớp chất, cách
nhanh nhất là phân lập các hợp chất trong lớp
chất đó sau đó nghiên cứu hoạt tính sinh học
của chúng.
Bằng sắc kí cột trên silica gel từ cặn chiết có
độ phân cực trung bình D chúng tôi phân lập
được 2 chất D1 và D2. D1 chiếm 16,25% trọng
lượng cặn, D2 chiếm 42,5% trọng lượng cặn
D. Hợp chất D2 cũng được phân lập từ cặn E
và chiếm tới 73,81% trọng lượng cặn E.
Phổ IR và 1H&13C-NMR của D1 cho thấy
phân tử của nó có 3 nhóm thế: nhóm phenolic
có δH(OH)=8,80 ppm, s (δC=145,99 ppm) và
νOH=3517 cm-1; nhóm metoxi có δH(OCH3)=3,72
ppm, 3H, s (δC=55,68 ppm); nhóm propenyl
có δH = 3,25 ppm, 2H, d br, J = 4,8 Hz
(δC=38,59 ppm), δH = 5,89 ppm, 1H, m
(δC=138,05 ppm), δH = 5,02 ppm, 2H, d br, J
= 7 Hz (δC=115,21 ppm). Ba nhóm thế này
phân bố trong nhân benzen ở các vị trí 1,2 và
4, điều này được khẳng định nhờ δH = 6,63
ppm,1H, d, J = 1,8 Hz; δH = 6,55 ppm, 1H,
dd, J = 1,8; 8,0 Hz; δH = 6,81 ppm, 1H, d, J =
8,0 Hz. So sánh phổ khối của D1 với các phổ
khối có trong thư viện máy cho thấy phổ khối
của D1 trùng lặp với phổ khối của eugenol
đến 98%. Các kết quả trên cho phép khẳng
định D1 là eugenol (hình 1).
So sánh phổ khối của D1 và D2 (E1) cho thấy
có sự chênh lệch 14 dvC nghĩa là một nhóm
CH2. So sánh 1H&13C-NMR của D1 và E1
chúng ta thấy rõ phân tử D1 mất đi một nhóm
metoxi δ=3,72 ppm (3H, s) và thay vào đó là
nhóm OH thì cho hợp chất E1. Các kết quả
trên khẳng định E1 là 4-allylpyrocatechol
(hình 2).
Khảo sát hoạt tính sinh học của các thành
phần phân lập được
Eugenol là hợp chất có nhiều hoạt tính sinh
học lý thú; chống nấm, chống đông huyết, đặc
biệt là chống sâu răng, có được phẩm eugenat
là hỗn hợp của eugenol và kẽm sunfat [3]. 4-
allylpyrocatechol đã được phân lập từ lá trầu
[4], nhưng hoạt tính sinh học của nó còn ít
được quan tâm nghiên cứu.
Khảo sát hoạt tính ức chế 8 loại vi sinh vật
kiểm định của 4-allylpyrocatechol chúng tôi
thấy nó có hoạt tính ức chế mạnh S.aureus là
tụ cầu gây viêm nhiễm, IC50 = 50 µg/ml (xem
bảng 3). Khảo sát hoạt tính chống oxi hóa của
4-allylpyrocatechol đối với DPPH cho thấy
nó là chất chống oxi hóa mạnh có SC% =
77,32% và SC50 = 12,87 µg/ml (xem bảng 4).
Các kết quả trên cho thấy phương pháp chiết
phân lớp chọn lọc các chất trong lá trầu theo
độ phân cực tăng dần của dung môi cùng với
độ phân cực tăng dần của dịch bị chiết lá trầu
có nhiều ưu điểm. Nó không chỉ cho phép
chúng tôi tìm thấy 2 chất có hoạt tính sinh học
quí trong lá trầu là eugenol và 4-
allylpyrocatechol mà còn cho thấy chúng
được chiết tập trung trong hai dung môi là
diclometan và etyl axetat.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Đậu Xuân Đức, Hoàng Văn Lựu (2007),
“Separation and structure determination of some
compounds from Piper betle L.”, Hội nghị khoa
học và công nghệ Hóa học hữu cơ lần thứ tư,
tr 307-310.
Phạm Thế Chính và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 96(08): 69 - 73
73
[2]. Đỗ Tất Lợi (2005), Những cây thuốc và vị
thuốc Việt Nam, Nxb Y học, tr 118-119.
[3]. Hattacharya S., et al (2007), “Healing property
of the Piper betle phenol, allylpyrocatechol against
indomethacin-induced stomach ulceration and
mechanism of action”, Wold Journal of
Gastroenterology,13(27), pp 3705-3713.
[4]. T. Nalina and Z.H.A. Rahim (2007), The
Crude Aqueous Extract of Piper betle L. and its
Antibacterial Effect Towards Streptococcus
mutans, American Jounal of Biotechnology and
Biochemistry, 3(1), p10-15.
SUMMARY
STUDY BIOACTIVE COMPOUNDS
IN THE LEAVES OF PIPER BETLE L.
Pham The Chinh1*, Van Ngoc Huong2,
Pham Thi Tham1, Nguyen Thi Thanh1, Nguyen Hong Phong1
1College of Science – TNU, 2University of Science –Vietnam National University
By increasing polarization of the solvent, the nature products of leaves Piper Betle L. were
separated into four different classes, n-hexane (H, 4.62%), dichlomethane (4.19%), ethyl acetate
(E, 1.80%), methanol-water (W, 6.03% ).The n-hexane, dichlomethane, ethyl acetate and
methanol extracts from leaves of Piper betle L. were tested on the antimicrobial activity. The
dichlomethane and ethyl acetate extracts showed significant inhibition against S. Aureus and E.
Coli. From these extracts, eugenol and 4-allylpyrocatechol have been isolated. The structure of
these compounds have been elucidated on the basis of spectral studies: IR (infrared), MS (mass
spectrometry), nuclear magnetic resonance proton and carbon (1H-NMR), and the spetrometric 2D
as HSQC and HMBC.
Key word: Piper, betle, sriboa, eugenol, antimicrobial
*
Tel: 0988 113933, Email: chemistry20069@gmail.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- brief_36036_39595_171201315211169_8435_2052288.pdf