Nghiên cứu bài học một quan điểm trong nghiên cứu giáo dục Toán - Hoa Ánh Tường
3. MỘT SỐ KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Một số kết luận
Thông qua Nghiên cứu bài học:
- GV có thể biết được ý tưởng của các đồng nghiệp khi họ cùng nhau làm việc theo
nhóm để chỉ ra những kiến thức quan trọng mà HS cần phải lĩnh hội, cụ thể thiết
kế một nội dung bài học thiết thực và phù hợp với HS.
- Bằng cách quan sát trực tiếp thực hành dạy học trong một lớp thật sự, GV có cơ
hội: xem xét việc dạy và học; kiểm tra một cách cẩn thận quá trình học tập của
HS; GV ý thức hơn về việc HS nghĩ và học như thế nào.
Cụ thể qua việc thu thập lời giải của HS trong tiết dạy thứ nhất:
• GV điều chỉnh cách tổ chức lớp học;
• GV biết được các em chưa biết cách sử dụng đơn vị vận tốc phù hợp, GV điều
chỉnh và giúp các em có sự gắn kết giữa môn Toán và Vật lý.
- Thành công trong việc chọn bài học nghiên cứu phù hợp với chủ đề thể hiện qua
HS biết cách khai thác hợp lý các giả thiết của bài toán để thiết lập phương trình.
Hơn nữa, HS biết chọn và sử dụng đơn vị vận tốc phù hợp; từ đó giúp các em tự
tin giải các dạng toán tương tự.
3.2. Kiến nghị
- GV chúng ta đa số hay viện cớ không có thời gian để chuẩn bị bài lên lớp, phải
chạy theo cuộc sống mưu sinh, GV chưa quen làm việc theo nhóm. Thông thường
khi một trường THCS hoặc THPT lên tiết dạy thao giảng cấp trường hoặc cấp
thành phố thì giáo viên trong tổ bộ môn cùng bàn bạc đưa ra kế hoạch và cách
thực hiện tiết dạy thế nào hay nhất và phù hợp với học sinh hơn. Việc thực hiện
này nhằm “đối phó” hoặc “thể hiện” nghiệp vụ sư phạm của đơn vị. Trong khi đó
NCBH được thực hiện nhằm giúp chính bản thân GV không ngừng nâng cao tay
nghề, đặc biệt GV trẻ.
- NCBH được thực hiện ở các khối lớp (cấp tiểu học, cấp trung học), các môn học.
“Một cây làm chẳng nên non. Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”. Tôi thiết nghĩa
nếu NCBH được thực hiện rộng rãi, ngoài sự tham gia của GV ở các trường, có sự
động viên của BGH, có sự cố vấn của chuyên gia thì chất lượng của tiết học sẽ
không ngừng được nâng cao, “bài học nghiên cứu” càng có hiệu quả, độ tin cậy
càng cao, và góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục.
- NCBH cần được kiểm chứng qua thời gian, việc cải tiến phương pháp giảng dạy
để nâng cao chất lượng giáo dục Việt Nam cần sự quan tâm của các nhà giáo dục
có tâm huyết.
8 trang |
Chia sẻ: thucuc2301 | Lượt xem: 485 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu bài học một quan điểm trong nghiên cứu giáo dục Toán - Hoa Ánh Tường, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế
ISSN 1859-1612, Số 04(12)/2009: tr. 105-112
NGHIÊN CỨU BÀI HỌC
MỘT QUAN ĐIỂM TRONG NGHIÊN CỨU GIÁO DỤC TOÁN
HOA ÁNH TƯỜNG
Trường Trung học Thực hành Sài Gòn, TP Hồ Chí Minh
Tóm tắt: Bài báo này đề cập đến nghiên cứu bài học, một quy trình chung
để phát triển nghiệp vụ sư phạm cho giáo viên, có xuất xứ ở Nhật từ năm
1872. Trong những năm gần đây, đã có nhiều nghiên cứu triển khai ứng
dụng nghiên cứu bài học vào các lớp học ở nhiều nước. Đặc biệt, hội nghị
giáo dục toán quốc tế (ICME) lần thứ 11 từ ngày 6 đến 13 tháng 7 năm 2008
tại Mexico đã nhấn mạnh tầm quan trọng của nghiên cứu bài học trong giáo
dục toán. Chúng tôi trình bày một bài học nghiên cứu về giải bài toán thực tế
bằng cách lập phương trình để phát triển nghiệp vụ sư phạm của giáo viên
dạy toán và điều chỉnh suy nghĩ của học sinh lớp 8 ở trường Trung học Thực
hành Sài Gòn, TP Hồ Chí Minh.
1. NGHIÊN CỨU BÀI HỌC
1.1. Thế nào là nghiên cứu bài học?
Thuật ngữ “Nghiên cứu bài học” (NCBH) theo nguyên nghĩa tiếng Nhật là
“jugyokenkyu” có nghĩa là nghiên cứu và cải tiến bài học cho đến khi nó hoàn hảo [4].
NCBH là một quy trình chung để phát triển nghiệp vụ sư phạm cho giáo viên (GV), mà
các GV tham gia vào để kiểm tra thường xuyên việc thực hành giảng dạy với mục đích
cải tiến và làm cho việc giảng dạy ngày càng có hiệu quả hơn. Kiểm tra này tập trung
vào các GV làm việc hợp tác với nhau về một số "bài học nghiên cứu". Ở đây ta cần
phân biệt “Nghiên cứu bài học” (quy trình chung để phát triển nghiệp vụ sư phạm)
khác với “Bài học nghiên cứu” (chỉ những tiết học cụ thể được chọn để đạt mục đích
nghiên cứu).
1.2. Quy trình của nghiên cứu bài học
Một quy trình của nghiên cứu bài học thường gồm ba bước chính là: (1) xác định chủ đề
nghiên cứu, (2) thực hiện một số bài học nhằm khám phá chủ đề nghiên cứu và (3) chia
sẻ kết quả và viết báo cáo [5] được minh họa qua sơ đồ 1.
(1) Xác định chủ đề nghiên cứu
- Được thực hiện khi bắt đầu một quy trình NCBH.
- Chủ đề nghiên cứu liên quan đến những thảo luận ban đầu của nhóm nghiên cứu
(NNC) chủ yếu dựa trên những thông tin phản hồi có giá trị về chất lượng học tập
của học sinh (HS) và việc dạy học của GV [5], hoặc những điều mà GV gặp phải
từ kinh nghiệm dạy học trước đây, các sai lầm và yếu kém của HS hay một số vấn
đề mà GV thấy khó dạy hoặc các em khó tiếp thu.
HOA ÁNH TƯỜNG
106
- Các thành viên trong nhóm sẽ quyết định chọn một chủ đề nghiên cứu nhằm khắc
phục những vấn đề đó. Trong thời gian nghiên cứu, các thành viên trong nhóm có
các ý tưởng về việc dạy học để đưa ra được những thực hành dạy học có giá trị.
(2) Thực hiện một số bài học nhằm khám phá chủ đề nghiên cứu
a) Lên kế hoạch bài học
Một điều quan trọng trong NCBH là lựa chọn được những bài học nghiên cứu phù hợp
với chủ đề nghiên cứu. Trong giai đoạn chuẩn bị, các thành viên trong nhóm sẽ xem xét
và thảo luận những vấn đề liên quan đến bài học nghiên cứu này [5]:
- Sách giáo khoa mà HS đang sử dụng trình bày bài học này như thế nào;
- Mối quan hệ của bài học với chương trình;
- Kiến thức đã học và hiểu biết của HS về bài học;
- Các mục tiêu và khái niệm toán học quan trọng trong bài học này;
- Bài học này phù hợp với chủ đề nghiên cứu như thế nào.
Sau đó nhóm nghiên cứu sẽ thảo luận một số điểm cụ thể trong bài học này:
- Cách bắt đầu bài học, các câu hỏi nhằm phát triển tư duy cho HS;
- Các phương tiện dạy học sẽ được sử dụng;
- Tiến trình bài học, cách kết thúc bài học, cách đánh giá bài học.
Sau đó một số GV trong nhóm nghiên cứu sẽ hợp tác với nhau soạn một giáo án chi tiết
cho bài học này. Hoạt động quan trọng nhất của việc soạn kế hoạch bài học là dự đoán
các câu trả lời cũng như những sai lầm thường gặp của HS và nghĩ ra một số biện pháp
Dạy và quan sát bài học
Thảo luận và phản ánh
Chỉnh sửa kế hoạch bài học
(2) Thực hiện một số bài học
nhằm khám phá chủ đề
nghiên cứu
Lên kế hoạch bài học
(1) Xác định chủ đề
nghiên cứu
(3) Chia sẻ kết quả và
viết báo cáo
Sơ đồ 1. Quy trình nghiên cứu bài học
NGHIÊN CỨU BÀI HỌC - MỘT QUAN ĐIỂM TRONG NGHIÊN CỨU GIÁO DỤC TOÁN
107
nhằm giúp các em khắc phục. Kế hoạch bài học này được dùng làm phương tiện giao
tiếp với các thành viên khác trong và ngoài nhóm nghiên cứu trong suốt quy trình
NCBH.
b) Dạy và quan sát bài học
Khi kế hoạch bài học đã được hoàn tất, một GV của NNC sẽ dạy bài học này trong một
lớp học thật sự. Để đảm bảo không khí tự nhiên của lớp học, GV thường dạy bài học
này với các em HS quen thuộc của mình. Trong khi đó các thành viên khác trong NNC
sẽ quan sát bài học một cách kĩ lưỡng, chú ý những gì mà cả GV và HS đang trình bày,
ghi chú những dấu hiệu về tư duy của các em [5]. Họ thường di chuyển đến các vị trí
khác nhau trong lớp để xem bài học từ nhiều góc độ và quan sát được càng nhiều HS
càng tốt. Những GV này không can thiệp vào bài học cũng như không cố gắng giúp đỡ
GV hay HS mà dành tất cả chú ý để ghi chép và quan sát HS khi các em làm việc. Mục
đích của việc quan sát là nhằm thu thập dữ liệu về tính hiệu quả của bài học chứ không
phải để đánh giá trình độ của GV [2].
Những thành viên tham gia quan sát tiết học có thể thu thập các loại dữ liệu khác nhau
chẳng hạn như có bao nhiêu HS trong lớp thật sự tham gia giải quyết vấn đề trong suốt
bài học, những phương án nào được đưa ra và các em đã thảo luận để phát triển chúng
như thế nào... Nhóm nghiên cứu lựa chọn và ghi hình một số điểm quan trọng trong các
tương tác giữa HS - HS và HS - GV cùng với những sản phẩm mà các em đã làm trong
suốt tiết học để làm tư liệu nghiên cứu.
c) Phản ánh và đánh giá
Sau khi kết thúc tiết học, NNC sẽ tổ chức một buổi họp để những người quan sát phản
ánh về bài học. Nội dung buổi thảo luận tập trung vào các vấn đề mà họ quan tâm như
mục tiêu của bài học, cách đánh giá các câu hỏi.
- Đầu tiên là bình luận ngắn gọn của GV đứng lớp về việc dạy của mình, việc học
của HS và hiệu quả của bài học nghiên cứu.
- Sau đó một thành viên trong nhóm sẽ phân tích tiết dạy so với kế hoạch bài học.
- Tiếp theo, các GV khác thảo luận những vấn đề mà họ quan sát được và đưa ra
một số đề xuất.
- Buổi thảo luận thật sự là một quá trình tương tác giữa những ý tưởng và đề xuất
của người quan sát với tâm điểm là HS. Nhóm nghiên cứu sẽ xem xét các vấn đề
như: HS trả lời các câu hỏi như thế nào? Các em đã gặp những khó khăn gì khi
giải quyết các nhiệm vụ học tập trong bài học này? Bài học có phù hợp với kiến
thức trước đây và mức độ hiểu biết của HS không? Các em có quan tâm và tích
cực tham gia vào bài học không?
d) Chỉnh sửa kế hoạch bài học
Dựa vào nội dung của buổi thảo luận, NNC sẽ tiến hành chỉnh sửa kế hoạch bài học.
Các thành viên trong nhóm sẽ cùng nhau trao đổi, tìm cách chỉnh sửa giáo án và chuẩn
HOA ÁNH TƯỜNG
108
bị mọi thứ cho lần dạy tiếp theo. Đôi khi NNC sử dụng lần dạy này để kiểm tra hai
chiến lược dạy học khác nhau. Đây là cách hiệu quả để giải quyết những bất đồng xảy
ra trong quá trình soạn kế hoạch bài học. Thay vì mất thời gian tranh luận về các quan
điểm của mình, họ sử dụng quy trình NCBH để thu thập những bằng chứng giúp các
thành viên đi đến thống nhất.
Nhóm nghiên cứu có thể mất nhiều thời gian cho việc chỉnh sửa hơn là soạn kế hoạch
bài học lần đầu tiên. Họ thường đầu tư nhiều thời gian để nghiên cứu những vấn đề còn
tồn tại nhằm đưa ra phương án chỉnh sửa phù hợp góp phần cải tiến thực hành dạy học.
e) Dạy, quan sát và phản ánh về bài học đã được chỉnh sửa
Sau khi hoàn tất việc chỉnh sửa, người GV lần trước hoặc một thành viên nào đó trong
NNC sẽ dạy bài học này ở một lớp khác. Sau đó NNC cũng tổ chức một buổi thảo luận
để các nhà quan sát phản ánh về bài học này như lần trước. Biên bản của buổi thảo luận
sẽ được chia sẻ cho các GV làm tư liệu tham khảo nhằm cải tiến việc dạy học của mình
trong tương lai [2].
(3) Chia sẻ các kết quả và viết báo cáo
Để tổng kết các hoạt động và thành quả của nhóm nghiên cứu đồng thời lưu trữ tư liệu
để sử dụng trong tương lai, nhà trường thường biên soạn và xuất bản các kế hoạch bài
học cùng với những dữ liệu quan sát và biên bản thảo luận về các bài học nghiên cứu
[5].
2. BÀI HỌC NGHIÊN CỨU: GIẢI TOÁN BẰNG CÁCH LẬP PHƯƠNG TRÌNH
2.1. Chủ đề nghiên cứu
Đặt vấn đề: Giải bài toán bằng cách lập phương trình là một dạng toán khó (Đại số 8)
đối với học sinh Trung học Cơ sở. Nó đòi hỏi khả năng Toán học hóa bằng cách phân
tích và trừu tượng hóa các sự kiện cho trong bài toán thành các biểu thức và phương
trình. Học sinh chưa biết cách khai thác bài toán theo thứ tự như thế nào để chuyển tình
huống thực tế thành một phương trình thông qua việc biểu diễn các đại lượng. Hơn nữa,
khi gặp dạng toán chuyển động, các em thường sai lầm trong việc chọn lựa đơn vị cho
đại lượng quãng đường, vận tốc, thời gian và viết lời giải dạng toán chuyển động không
chính xác và chưa dễ hiểu.
Mục đích nghiên cứu: Học sinh khai thác bài toán theo thứ tự như thế nào để chuyển
một tình huống thực tế thành một phương trình thông qua việc biểu diễn các đại lượng.
2.2. Bài học nghiên cứu
“Luyện tập giải bài toán bằng cách lập phương trình” được chọn làm thực nghiệm ở
lớp 8 của trường Trung học Thực hành Sài Gòn vào tháng 3 năm 2009.
a) Lên kế hoạch bài học
Nhiệm vụ của Nhóm nghiên cứu là:
- Chọn bài tập cho học sinh thực hiện luyện tập trên phiếu học tập;
NGHIÊN CỨU BÀI HỌC - MỘT QUAN ĐIỂM TRONG NGHIÊN CỨU GIÁO DỤC TOÁN
109
- Thiết kế cách tổ chức dạy học (học sinh làm việc theo nhóm) và hệ thống câu hỏi
hỗ trợ các em tìm lời giải cho bài toán;
- Dự đoán các lời giải và các sai lầm mắc phải của học sinh.
Những phần chính của kế hoạch bài học được thiết kế gồm một bài toán cùng với hai lời
giải dự kiến khác nhau. Học sinh làm việc theo nhóm để giải quyết bài toán theo những
cách khác nhau. Sau đó tổ chức thảo luận trước toàn lớp phương án giải nào thuận lợi và
hiệu quả hơn.
Bài toán: Nhà An cách trường 1200 m, nhà Bình cách trường 1650 m. Vận tốc đi bộ
của An và Bình bằng nhau. Thời gian Bình đến trường nhiều hơn An là 5 phút. Tìm vận
tốc của An.
Dựa vào bảng sau, sắp xếp các lời giải như thế nào để thiết lập phương trình.
Bảng 1. Bảng biểu diễn các đại lượng và phương trình
Quãng đường Vận tốc Thời gian Phương trình
An
Bình
Lời giải 1
Gọi vận tốc của An là x (x>0)
Do vận tốc của Bình và An bằng nhau nên
vận tốc của Bình là x
Thời gian An đi từ nhà đến trường là
1200
x
Thời gian Bình đi từ nhà đến trường là
1650
x
Thời gian Bình đi từ nhà đến trường nhiều
hơn thời gian An đi từ nhà đến trường là 5
phút nên có phương trình
1650 1200 5
x x
− =
1650 1200 5
x
−
⇔ =
450 5 90x
x
⇔ = ⇔ =
Vậy vận tốc của An là 90
Lời giải 1 hoàn chỉnh
Gọi vận tốc của An là x (m/phút) (x>0).
Do vận tốc của Bình và An bằng nhau nên
vận tốc của Bình là x (m/phút).
Thời gian An đi từ nhà đến trường là
1200
x
(phút)
Thời gian Bình đi từ nhà đến trường là
1650
x
(phút)
Thời gian Bình đi từ nhà đến trường nhiều
hơn thời gian An đi từ nhà đến trường là 5
phút nên có phương trình
1650 1200 5
x x
− =
1650 1200 5
x
−
⇔ =
450 5
x
⇔ = 90x⇔ = (thỏa điều kiện).
Vậy vận tốc của An là 90 m/phút
HOA ÁNH TƯỜNG
110
Lời giải 2
1200 m = 1,2km; 1650 m = 1,65km; 5 phút = 1
12
giờ
Gọi vận tốc của An là x (km/h) (x>0)
Do vận tốc của Bình và An bằng nhau nên vận tốc của Bình là x (km/h).
Thời gian An đi từ nhà đến trường là 1, 2
x
(h)
Thời gian Bình đi từ nhà đến trường là 1,65
x
(h)
Thời gian Bình đi từ nhà đến trường nhiều hơn thời gian An đi từ nhà đến trường là 5
phút nên có phương trình 1,65 1,2 1
12x x
− = 1,65 1,2 1
12x
−
⇔ = 0,45 1
12x
⇔ =
5,4x⇔ = (thỏa điều kiện). Vậy vận tốc của An là 5,4 km/h.
b) Dạy và quan sát bài học
- Qua quan sát, NNC thu hoạch 2 lời giải chi tiết của học sinh (lời giải 1 và lời giải
2 ở trên);
- Lớp học trở nên sinh động khi GV phân chia lớp học thành các nhóm nhỏ hợp lý;
- Nội dung bài học phù hợp với HS, HS được tranh luận và nêu nhận xét về lời giải
1 và 2;
c) Phản ánh đánh giá
- Đa số HS biết cách khai thác bài toán để tìm lời giải theo thứ tự: vận tốc của An
và Bình; thời gian An và Bình đến trường; lập phương trình;
- Từ ý tưởng không có HS nào có lời giải như lời giải 1 hoàn chỉnh, NNC bổ sung:
Để làm bài dạng toán trên thật tốt, HS cần chú ý điều gì? (đơn vị và điều kiện của
đại lượng).
d) Chỉnh sửa kế hoạch bài học
NNC bổ sung vào kế hoạch bài học những lưu ý về sai lầm HS có thể mắc phải khi giải
toán chuyển động bằng cách lập phương trình.
e) Dạy, quan sát và phản ánh về bài học đã được chỉnh sửa
Qua quan sát, NNC nhận thấy
- HS nêu được cách giải nào đúng, cách giải nào sai và phân tích được lời giải sai ở
chỗ nào;
NGHIÊN CỨU BÀI HỌC - MỘT QUAN ĐIỂM TRONG NGHIÊN CỨU GIÁO DỤC TOÁN
111
- Thông qua giờ học, HS rút ra được kinh nghiệm cho bản thân và nhớ để khắc
phục các sai lầm khi giải dạng toán chuyển động.
3. MỘT SỐ KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Một số kết luận
Thông qua Nghiên cứu bài học:
- GV có thể biết được ý tưởng của các đồng nghiệp khi họ cùng nhau làm việc theo
nhóm để chỉ ra những kiến thức quan trọng mà HS cần phải lĩnh hội, cụ thể thiết
kế một nội dung bài học thiết thực và phù hợp với HS.
- Bằng cách quan sát trực tiếp thực hành dạy học trong một lớp thật sự, GV có cơ
hội: xem xét việc dạy và học; kiểm tra một cách cẩn thận quá trình học tập của
HS; GV ý thức hơn về việc HS nghĩ và học như thế nào.
Cụ thể qua việc thu thập lời giải của HS trong tiết dạy thứ nhất:
• GV điều chỉnh cách tổ chức lớp học;
• GV biết được các em chưa biết cách sử dụng đơn vị vận tốc phù hợp, GV điều
chỉnh và giúp các em có sự gắn kết giữa môn Toán và Vật lý.
- Thành công trong việc chọn bài học nghiên cứu phù hợp với chủ đề thể hiện qua
HS biết cách khai thác hợp lý các giả thiết của bài toán để thiết lập phương trình.
Hơn nữa, HS biết chọn và sử dụng đơn vị vận tốc phù hợp; từ đó giúp các em tự
tin giải các dạng toán tương tự.
3.2. Kiến nghị
- GV chúng ta đa số hay viện cớ không có thời gian để chuẩn bị bài lên lớp, phải
chạy theo cuộc sống mưu sinh, GV chưa quen làm việc theo nhóm. Thông thường
khi một trường THCS hoặc THPT lên tiết dạy thao giảng cấp trường hoặc cấp
thành phố thì giáo viên trong tổ bộ môn cùng bàn bạc đưa ra kế hoạch và cách
thực hiện tiết dạy thế nào hay nhất và phù hợp với học sinh hơn. Việc thực hiện
này nhằm “đối phó” hoặc “thể hiện” nghiệp vụ sư phạm của đơn vị. Trong khi đó
NCBH được thực hiện nhằm giúp chính bản thân GV không ngừng nâng cao tay
nghề, đặc biệt GV trẻ.
- NCBH được thực hiện ở các khối lớp (cấp tiểu học, cấp trung học), các môn học.
“Một cây làm chẳng nên non. Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”. Tôi thiết nghĩa
nếu NCBH được thực hiện rộng rãi, ngoài sự tham gia của GV ở các trường, có sự
động viên của BGH, có sự cố vấn của chuyên gia thì chất lượng của tiết học sẽ
không ngừng được nâng cao, “bài học nghiên cứu” càng có hiệu quả, độ tin cậy
càng cao, và góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục.
- NCBH cần được kiểm chứng qua thời gian, việc cải tiến phương pháp giảng dạy
để nâng cao chất lượng giáo dục Việt Nam cần sự quan tâm của các nhà giáo dục
có tâm huyết.
HOA ÁNH TƯỜNG
112
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nguyễn Thị Duyến (2007), Sử dụng nghiên cứu bài học để nâng cao chất lượng của
việc dạy và học Toán ở trường THPT, Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục, Trường
ĐHSP Huế.
[2] Mathematics and Science Education Centre (2007), Overview of Lesson Study,
[3] Maitree Inprasitha and Suladda Loipha (2008), Thailand’s Experience in Lesson
Study for Enhancing Quality in Education, Proceedings of APEC-Khon Kaen
International Symposium 2008 Innovative Teaching Mathematics through Lesson
Study III - Focusing on Mathematical Communication. Khon Kaen Session, Thailand
25-29 August 2008. pp. 1-15.
[4] Research for Better Schools (2007), Glossary of Lesson Study Terms,
[5] Clea Fernandez, Makoto Yoshida, Sonal Chokshi, Joannan Cannon (2001), An
Overview of Lesson Study, Teachers College, Columbia University.
Title: LESSON STUDY - A VIEW IN MATHEMATICS EDUCATION RESEARCH
Abstract: This paper deals with Lesson Study, a spreading worldwide way of professional
development originated in Japan since 1872. Besides, the importance of Lesson Study was
remarked in the 11th ICME meeting in Mexico during July 6-13, 2008. We present a study
lesson about “Solving a real problem by establishing an equation” to develop mathematics
teachers’ profession and regulate students’ thinking at Saigon Experimental High School in Ho
Chi Minh city.
ThS. HOA ÁNH TƯỜNG
Trường Trung học Thực hành Sài Gòn (Thuộc Trường Đại học Sài Gòn), 220 Trần Bình Trọng,
Phường 4, Quận 5, TP Hồ Chí Minh.
ĐT: 08.39912744 - 0909.248906. Email: tuonghoaanh@yahoo.com.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 20_318_hoaanhtuong_17_hoa_anh_tuong_9557_2021165.pdf