Nghiên cứu ảnh hưởng của nồng độ chất xử lý đến cơ tính của vật liệu composite từ polyester/bột thân cây dừa
Khi thay đổi nồng độ NaOH từ 2% lên 10%
thì cơ tính của vật liệu composite polyester/bột
dừa cũng thay đổi và hầu hết các thử nghiệm
kéo, uốn và va đập đều cho giá trị cực đại tại 4%.
Tuy nhiên, trong dải từ 4% đến 6% thì các kết
quả thay đổi không đáng kể. So với composite
polyester/bột dừa không qua xử lý thì độ bền kéo
của các mẫu composite polyester/bột dừa đã qua
xử lý đều cải thiện rất rõ rệt, chênh lệch lớn nhất
tại 4% NaOH là 45.53%. Trong khi độ bền kéo và
độ dai va đập thấp hơn nhiều so với composite
polyester/xơ dừa (lần lượt thấp hơn 57.56% và
31.25%). Hiện nay, do các nghiên cứu về
composite gia cường sợi xơ dừa chưa thống
nhất về nồng độ NaOH dùng để xử lý xơ sợi,
đồng thời, do hàm lượng lignin trong bột từ thân
cây dừa hoàn toàn khác với xơ sợi từ quả dừa
nên cần tiếp tục nghiên cứu xác định nồng độ
NaOH và thời gian ngâm hợp lý để xử lý bột dừa.
7 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 26/03/2022 | Lượt xem: 241 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu ảnh hưởng của nồng độ chất xử lý đến cơ tính của vật liệu composite từ polyester/bột thân cây dừa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2017
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 99
NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA NỒNG ĐỘ CHẤT XỬ LÝ ĐẾN CƠ TÍNH
CỦA VẬT LIỆU COMPOSITE TỪ POLYESTER/BỘT THÂN CÂY DỪA
STUDY ON THE EFFECT OF ALKALI TREATMENT CONCENTRATION
TO POLYESTER/COCONUT TRUNK PARTICLES COMPOSITE
Phạm Thanh Nhựt1
Ngày nhận bài: 23/12/2015; Ngày phản biện thông qua: 15/5/2016; Ngày duyệt đăng: 10/3/2017
TÓM TẮT
Khả năng ứng dụng của phần thân cây dừa hiện nay rất hạn chế (chủ yếu được xẻ thành ván sử dụng
trong các kết cấu không quan trọng) trong khi chúng chiếm tỉ trọng rất lớn trong toàn bộ cây dừa. Các nghiên
cứu về composite từ sợi xơ dừa (lấy từ vỏ quả dừa) là khá phổ biến ở trong nước cũng như trên thế giới. Trong
nghiên cứu này, vật liệu composite làm từ nhựa polyester không no và bột thân cây dừa được chế tạo, thử
nghiệm và đánh giá cơ tính. Bột thân cây dừa được ngâm trong dung dịch xút (NaOH) với các mức nồng độ
khác nhau. Sau đó, chúng được kết hợp với nhựa polyester không no trong khuôn ép ở cùng điều kiện lực ép
và nhiệt độ môi trường để tạo ra các tấm mẫu composite. Các thử nghiệm kéo, uốn và va đập được thực hiện
để xác định và đánh giá cơ tính của vật liệu trong trường hợp ngâm trong dung dịch xút (theo mức nồng độ)
và không ngâm.
Từ khóa: bột thân dừa, nhựa polyester, dung dịch NaOH, cơ tính
ABSTRACT
Applicability of the coconut trunks at present is extremely limited (mainly using coconut trunk planks
in the minor structures), while they occupy a very large proportion of the entire coconut tree. Studies of coir
fi ber composites (derived from coconut) are quite popular in Viet Nam and the world. In this work, unsaturated
polyester resin reinforced coconut trunk particles composite materials were manufactured, tested and
evaluated the mechanical properties. Coconut trunk particles were soaked in alkali solution (NaOH) with
different concentration levels. Then, they were combined with unsaturated polyester resin and these composite
sample plates were made by the same compression molding at room temperature. The tensile, fl exural and
impact test were carried out to determine mechanical properties of materials (for different concentration
levels) and compare with other results of untreated case.
Keywords: coconut trunk particles, polyester resin, NaOH solution, mechanical properties
1 Khoa Kỹ thuật Giao thông - Trường Đại học Nha Trang
THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Với sự phát triển mạnh mẽ của vật liệu
composite gia cường bằng sợi tổng hợp như
sợi carbon, thủy tinh, aramid..., nhân loại
đang đối mặt với những thách thức to lớn do
sự gia tăng lượng chất thải khó phân hủy vào
môi trường. Do đó, trong những năm gần đây,
việc sử dụng cốt sợi tự nhiên để thay thế
dần cho sợi tổng hợp đã và đang được nhiều
nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Đã có
rấ t nhiề u sợ i tự nhiên đượ c nghiên cứu
là m vậ t liệ u gia cườ ng cho composite như
sợi đay, lá cọ, chuối, tre, lanh, gai dầ u, sợ i
xơ dừ a,
100 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2017
Trong số những sợi tự nhiên được sử dụng
gia cường trong vật liệu composite, xơ dừa (từ
quả) là vật liệu có tỷ trọng thấp và độ bền cơ lý
vừ a phả i, lại sẵn có, rẻ tiền, có khả năng tái tạo
và phân hủy sinh học. Tuy nhiên, xơ dừa cũng
như các loại sợi tự nhiên khác đều có nhược
điểm chung là độ bám dính với nhựa nền kém.
Đồng thời, tính chất cơ học của vật liệu chưa
cao nên cần phải khắc phục mới có thể cạnh
tranh được với composite sợi tổng hợp. Đối
với composite gia cường xơ dừa nói riêng và
sợi tự nhiên nói chung, xử lý bề mặt sợi là giải
pháp hiệu quả nhằm tăng cường khả năng liên
kết với nền nhựa [1]. Do đó, hầu hết các công
trình nghiên cứu đã công bố trong cũng như
ngoài nước về composite xơ dừa và một số
sợi tự nhiên khác đều chủ yếu tập trung vào
việc xử lý bề mặt sợi nhằm cải thiện cơ tính
của composite.
Trong công trình “nghiên cứu và phát triển
vật liệu composit đi từ sợi tự nhiên” của Bùi
Chương [1], sợi xơ dừa là đối tượng nghiên
cứu chính và dung dịch kiềm được sử dụng
để xử lý sợi. S.N. Monteiro và cộng sự [3] đã
khảo sát và đánh giá cơ tính của composite
làm từ nhựa polyester và sợi xơ dừa (không
qua xử lý) ứng với các tỉ lệ nhựa/sợi khác
nhau. Trong khi các công bố khác lại quan tâm
đến việc sử dụng hóa chất để xử lý sợi như
Md. Mominul Haque và cộng sự sử dụng muối
diazonium benzen để xử lý sợi xơ dừa/xơ chuối
[4] và sợi xơ dừa/cọ [5]; nhóm nghiên cứu của
F.Z. Arrakhiz [6] thì sử dụng dung dịch kiềm
Alkali để ngâm sợi alfa, xơ dừa và bã mía. Các
nghiên cứu về thân cây dừa hiện nay còn rất
hạn chế chỉ với một vài tác giả quan tâm như
Leila Fathi [7] (đặc tính và ứng dụng của gỗ
dừa và cọ dầu) hay Lê Văn Tung [2] (đặc tính
gỗ dừa và qui trình công nghệ sản xuất ván
dán từ thân cây dừa).
Có thể thấy, hầu hết các công trình nghiên
cứu về composite xơ dừa đều tập trung vào
xơ sợi lấy từ vỏ quả dừa, còn thân cây dừa chỉ
sử dụng để làm ván trong xây dựng hoặc các
công trình dân dụng không quan trọng khác.
Tuy nhiên, nguồn xơ sợi từ vỏ quả dừa cũng
rất hạn chế trong khi phần thân cây dừa chiếm
tỉ trọng rất lớn trong toàn bộ cây dừa. Về xử
lý sợi để tăng cơ tính cho composite, hầu hết
đều áp dụng phương pháp xử lý hóa chất. Các
kết quả nghiên cứu cho thấy với sợi xơ dừa
thì phương pháp xử lý bằng dung dịch kiềm
(NaOH) đạt hiệu quả cao hơn. Trong nghiên
cứu này, composite từ bột thân cây dừa và
nhựa polyester không no được chế tạo và thử
nghiệm để đánh giá cơ tính. Vật liệu composite
này có thành phần cốt dạng hạt (có vai trò như
chất độn) nên chỉ ứng dụng trong các kết cấu
không đòi hỏi cơ tính cao. Tuy nhiên, đây là
một vật liệu mới không những có giá thành rất
thấp mà còn góp phần đáng kể vào việc bảo
vệ môi trường.
II. ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU VÀ BỐ TRÍ THÍ NGHIỆM
1. Đối tượng nghiên cứu
Vật liệu composite được nghiên cứu gồm
các thành phần sau:
+ Vật liệu cốt: bột lấy từ thân cây dừa trên
20 năm tuổi tại tỉnh Bình Định với các thông số
cơ bản cho trong Bảng 1;
+ Vật liệu nền: nhựa polyester không no có
các thông số cơ bản cho trong Bảng 2;
+ Hóa chất dùng để xử lý bột dừa: kiềm
NaOH rắn 96% và nước cất;
+ Các vật liệu phụ khác như chất đóng rắn
MEKP-925, chất tách khuôn Wax 8.
Thiết bị sử dụng cho việc chế tạo và thử
nghiệm mẫu bao gồm:
+ Khuôn ép mẫu thủ công với lực ép tối đa
là 4000N;
+ Thiết bị kéo và uốn mẫu hiệu Instron
3366 với lực kéo tối đa là 10KN;
+ Thiết bị thử nghiệm va đập (mẫu Izod)
hiệu Tinius Olsen với năng lượng va đập tối đa
là 406.75J.
Tất cả các loại thử nghiệm đều được thực
hiện theo tiêu chuẩn: ASTM 638-03 Type I -
kéo, ASTM D790-03 - uốn và ASTM D256-04 -
va đập.
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2017
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 101
Bảng 1. Các thông số cơ bản của bột dừa [8]
Thông số Đơn vị Giá trị
Đường kính hạt mm 0.2~0.7
Tỉ trọng (dưới lớp vỏ và lõi) kg/m3 380~400
Hàm lượng Holocellulose % 66.7
Hàm lượng Lignin % 25.1
Hàm lượng Pentosans % 22.9
Bảng 2. Các thông số cơ bản
của nhựa polyester không no [9]
Thông số Đơn vị Giá trị
Tỉ trọng g/cm3 1.15
Độ bền kéo MPa 46.09
Mô đun đàn hồi kéo MPa 2158.41
Hệ số Poisson - 0.38
Độ dãn dài tương đối % 2.5
2. Phương pháp nghiên cứu
Bài báo này chủ yếu sử dụng phương
pháp thực nghiệm. Sau khi phân tích và đánh
giá các công trình nghiên cứu liên quan đến
composite xơ dừa nói riêng và sợi tự nhiên nói
chung, tiến hành lựa chọn các thành phần vật
liệu và phương pháp xử lý bột dừa. Mụ c đí ch
củ a quá trì nh xử lý bằ ng dung dị ch kiề m là hò a
tan lignin trong thà nh phầ n bộ t dừa, là m giả m
khả năng hú t nướ c củ a bộ t, tăng độ bám dính
với nhựa nền và do đó làm tăng cơ tính của
composite. Do bột dừa có hàm lượng lignin
thấp hơn một số loại sợi tự nhiên khác (25.1%)
nên ở đây sử dụng dung dịch NaOH theo các
mức nồng độ khác nhau từ 2% đến 10% để
ngâm nhằm tìm ra mức tốt nhất. Trong đó, 5%
là mức được tham khảo từ các nghiên cứu về
composite sợi xơ dừa (xơ sợi từ vỏ quả dừa có
hàm lượng lignin khoảng 45.84% [5]) nhưng
xơ sợi đã qua một số xử lý sơ bộ nên thực
chất hàm lượng NaOH để xử lý xơ sợi thô có
thể còn cao hơn.
Mẫu vật liệu composite polyester/bột dừa
được chế tạo trong khuôn ép cho ba loại thử
nghiệm: kéo, uốn và va đập. Các kết quả thử
nghiệm sau khi xử lý được so sánh và đánh
giá cơ tính trong trường hợp có xử lý hóa chất
(theo mức nồng độ) và không xử lý hóa chất
(từ những kết quả nghiên cứu khác).
3. Tổ chức thực nghiệm
Bột dừa sau khi lấy từ xưởng được xử lý
loạ i bỏ tạ p chấ t và phơi khô. Tiếp đó, chúng
được ngâm ngập hoàn toàn trong dung dịch
NaOH pha loãng với 5 mức nồng độ: 2%, 4%,
6%, 8% và 10%. Theo các nghiên cứu về xử
lý sợi xơ dừa bằng NaOH thì thời gian ngâm
được thực hiện trong 2 ngày. Do đó, 2 ngày
cũng là khoảng thời gian được chọn để ngâm
bột dừa. Trong quá trình ngâm, thành phần
lignin bị hòa tan trong dung dịch nên bột dừa
sau đó được rửa sạch bằng nước cất và được
sấy khô ở 40oC trong 2 giờ. Lúc này, bột dừa ở
dạng sẵn sàng cho việc chế tạo mẫu thử.
5 mẫu dạng tấm (tương ứng với 5 mức hàm
lượng NaOH) được chế tạo theo phương pháp
bán thủ công trong khuôn ép. Các loại mẫu
được chế tạo phục vụ cho 3 loại thử nghiệm:
thử nghiệm kéo và uốn dùng mẫu tấm có kích
thước 170x220x3.5mm, va đập (Izod) dùng
mẫu tấm có kích thước 70x100x10mm. Mỗi
tấm mẫu kéo được cắt thành 5 mẫu như nhau
theo quy cách 165x19x3.5mm và được tạo hình
theo ASTM 638-03 Type I, 5 mẫu uốn có quy
cách 127x12.7x3.5mm, 5 mẫu va đập có quy cách
63.5x12.7x10mm và tạo rãnh theo ASTM D256-04.
Như vậy, tổng số mẫu thử nghiệm là:
3 mẫu/loại thử nghiệm x 5 loại thử nghiệm
x 5 mức nồng độ NaOH = 75 mẫu
Quá trình chế tạo mẫu được thực hiện theo
các bước sau:
+ Chuẩn bị khuôn: khuôn ép bằng thép
gồm 2 nửa, nửa dưới dạng khay có kích thước
như tấm mẫu và liên kết cứng với bệ đỡ, nửa
khuôn trên dạng tấm phẳng và được di chuyển
lên xuống thông qua việc điều chỉnh lực nén
của lò xo.
+ Chuẩn bị nguyên vật liệu: vật liệu để chế
tạo mỗi tấm mẫu gồm các thành phần chính
và phụ. Thành phần chính gồm 150g nhựa
polyester không no và 30g bột dừa đã qua xử lý
(Hình 1a). Thành phần phụ gồm chất tách khuôn,
chất đóng rắn và các dụng cụ chứa, trộn,...
102 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2017
+ Chế tạo tấm mẫu: Nhựa polyester sau
khi pha với 1% MEKP (tương ứng với thời
gian đông cứng khoảng 30 phút) được trộn
đều với bột dừa theo tỉ lệ khối lượng 20% bột,
80% nhựa. Bôi chất chống dính cho toàn bộ
bề mặt trong của khuôn và cho khoảng 70%
hỗn hợp phân bố đều trong nửa khuôn dưới,
ép nhẹ nửa khuôn trên với lực khoảng 200N,
tháo nửa khuôn trên và kiểm tra bề mặt mẫu
và tiếp tục cho 30% hỗn hợp còn lại lên trên
tấm mẫu sao cho vật liệu phân bố đều trong
tấm mẫu. Tiếp tục ép nửa khuôn trên với lực
ép tối đa khoảng 2000N. Quá trình đông cứng
diễn ra ở nhiệt độ thường, sau 48 giờ tiến
hành tháo dỡ khuôn ta được tấm mẫu như
Hình 1b, 1c.
a. Bột dừa sau xử lý b. Các tấm mẫu kéo, uốn c. Các tấm mẫu va đập
Hình 1. Chế tạo tấm mẫu thử nghiệm
Các tấm mẫu được cắt và tạo ra các mẫu
thử nghiệm kéo, uốn và va đập theo tiêu chuẩn.
Tốc độ lựa chọn cho thử nghiệm kéo là 1mm/
phút và giá trị tương ứng của thử nghiệm uốn
là 2mm/phút. Mỗi loại thử nghiệm được đo trên
3 mẫu và kết quả cuối cùng dùng để tính toán
và đánh giá cơ tính là trung bình cộng của kết
quả đo 3 mẫu này.
Hình 2. Mẫu thử nghiệm được cắt từ các tấm
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
1. Kết quả thử nghiệm kéo
Kết quả đo lực - chuyển vị của một mẫu
thử kéo được thể hiện ở hình 3. Mối quan hệ
lực - chuyển vị của tất cả các mẫu thử kéo đều
có dạng phi tuyến. Biến dạng dài tương đối
nằm trong khoảng từ 1.1% đến 1.6%. Do thành
phần cốt ở dạng hạt nên mẫu bị đứt đột ngột
sau khi đạt lực kéo cực đại.
Hình 3. Kết quả đo lực – chuyển vị của một mẫu thử kéo (2% NaOH)
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2017
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 103
Từ kết quả đo ta tính được ứng suất và mô
đun đàn hồi kéo (Hình 4). Hình 4 cho thấy cả
ứng suất và mô đun đàn hồi kéo đều đạt giá trị
cực đại tại nồng độ NaOH 4%. Hai giá trị này
đều rất thấp, thậm chí xấp xỉ hoặc thấp hơn
cả các giá trị tương ứng của nhựa polyester
không no (ứng suất kéo đạt 17.33MPa so với
46.09MPa của polyester và mô đun đàn hồi
kéo đạt 2183.45MPa so với 2158.41MPa của
polyester). Kết quả này cho thấy bột dừa chỉ
đóng vai trò chất độn vật liệu composite. Tuy
tỉ lệ về khối lượng bột/nhựa chỉ là 20% nhưng
về thể tích, bột dừa chiếm đến trên 70% trong
composite. Các giá trị ứng suất và mô đun đàn
hồi ở các nồng độ NaOH khác thấp hơn không
đáng kể, nhất là ở dải sau 4% NaOH.
a. Sự thay đổi ứng suất kéo b. Sự thay đổi mô đun đàn hồi kéo
Hình 4. Sự thay đổi ứng suất và mô đun đàn hồi kéo theo nồng độ NaOH
2. Kết quả thử nghiệm uốn
Kết quả đo lực - chuyển vị của một mẫu
thử uốn được thể hiện ở Hình 5. Mối quan hệ
lực - chuyển vị của các mẫu thử uốn cũng có
dạng phi tuyến. Biến dạng tương đối nằm trong
khoảng từ 6.5% đến 12%.
Hình 5. Kết quả đo lực – chuyển vị của một mẫu thử uốn (2% NaOH)
Ứng suất và mô đun đàn hồi uốn tính toán từ
kết quả thử nghiệm được thể hiện trên Hình 6.
Kết quả cho thấy ứng suất uốn lớn nhất khi
bột dừa được xử lý trong dung dịch NaOH 6%
(41.2MPa). Tuy nhiên, hai giá trị lân cận tại 4%
và 8% chênh lệch với giá trị cực đại không đáng
kể (chỉ xấp xỉ 2.5%). Do đó, dãy nồng độ NaOH
từ 4% đến 8% đều có thể sử dụng để ngâm bột
dừa. Trong khi đó, mô đun đàn hồi uốn đạt giá
trị lớn nhất gần như nhau khi nồng độ NaOH
thay đổi từ 2% đến 4% (3127.04MPa). Nồng
độ kiềm càng cao thì mô đun đàn hồi uốn càng
giảm do một số vi sợi cellulose bị phân giải bởi
lượng NaOH. Như vậy, nếu xét cả hai thông
số ứng suất và mô đun đàn hồi thì hàm lượng
kiềm tốt nhất là khoảng 4%.
104 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2017
3. Kết quả thử nghiệm va đập
Kết quả thử nghiệm độ dai va đập theo tiêu
chuẩn mẫu Izod và độ bền va đập được thể
hiện trong Bảng 3. Quy luật thay đổi độ bền va
đập theo nồng độ kiềm khá giống với quy luật
thay đổi của ứng suất kéo. Trong đó, độ bền
va đập đạt giá trị cực đại trong khoảng nồng
độ NaOH từ 4% đến 6% tương ứng với
2.75KJ/m2. Các giá trị khác cũng thấp hơn
không đáng kể.
a. Sự thay đổi ứng suất uốn b. Sự thay đổi mô đun đàn hồi uốn
Hình 6. Sự thay đổi ứng suất và mô đun đàn hồi uốn theo nồng độ NaOH
Bảng 3. Năng lượng và độ bền va đập
Nồng độ NaOH, % Năng lượng va đập, Joule Tiết diện tại rãnh (dày x rộng), mm Độ bền va đập, KJ/m2
2 0.21 8 x 10 2.63
4 0.22 8 x 10 2.75
6 0.22 8 x 10 2.75
8 0.21 8 x 10 2.63
10 0.20 8 x 10 2.50
Như vậy, so với các kết quả nghiên
cứu đã công bố, ví dụ kết quả của Shajan
Kuriakose và cộng sự [9], về cơ tính của
composite từ polyester/xơ dừa thì các chỉ số về
độ bền ở nghiên cứu này đều thấp hơn nhiều
(riêng độ bền uốn gần như nhau). Tuy nhiên,
so với kết quả thử nghiệm độ bền mẫu
composite polyester/bột dừa (không qua xử lý)
của tác giả trong một nghiên cứu khác thì độ
bền mẫu composite polyester/bột dừa (đã qua
xử lý) cao hơn hẵn (gần gấp đôi). Đánh giá cụ
thể được thể hiện trên Bảng 4.
Bảng 4. So sánh cơ tính của mẫu composite polyester/bột dừa (đã qua xử lý)
với một số kết quả nghiên cứu khác
Thông số
Bột dừa
chưa xử lý
Bột dừa đã xử lý
tại 4% NaOH
Polyester/xơ dừa
(chưa xử lý) [10]
So sánh
(1) và (2)
So sánh
(2) và (3)
(1) (2) (3) % %
Độ bền kéo, MPa 9.44 17.33 40.83 +45.53 -57.56
Độ bền uốn, MPa - 40.43 41.20 - -1.87
Độ bền va đập, KJ/m2 - 2.75 4.00 - -31.25
Chỉ đánh giá mẫu composite bột dừa tại 4%NaOH vì đây là mức nồng độ cho kết quả thử nghiệm tốt nhất
Dấu (+)/(-) chỉ kết quả trong nghiên cứu này tăng/giảm so với các giá trị tham khảo tương ứng
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2017
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 105
IV. KẾT LUẬN
Khi thay đổi nồng độ NaOH từ 2% lên 10%
thì cơ tính của vật liệu composite polyester/bột
dừa cũng thay đổi và hầu hết các thử nghiệm
kéo, uốn và va đập đều cho giá trị cực đại tại 4%.
Tuy nhiên, trong dải từ 4% đến 6% thì các kết
quả thay đổi không đáng kể. So với composite
polyester/bột dừa không qua xử lý thì độ bền kéo
của các mẫu composite polyester/bột dừa đã qua
xử lý đều cải thiện rất rõ rệt, chênh lệch lớn nhất
tại 4% NaOH là 45.53%. Trong khi độ bền kéo và
độ dai va đập thấp hơn nhiều so với composite
polyester/xơ dừa (lần lượt thấp hơn 57.56% và
31.25%). Hiện nay, do các nghiên cứu về
composite gia cường sợi xơ dừa chưa thống
nhất về nồng độ NaOH dùng để xử lý xơ sợi,
đồng thời, do hàm lượng lignin trong bột từ thân
cây dừa hoàn toàn khác với xơ sợi từ quả dừa
nên cần tiếp tục nghiên cứu xác định nồng độ
NaOH và thời gian ngâm hợp lý để xử lý bột dừa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Bùi Chương, 2009. Nghiên cứu và phát triển vật liệu composit đi từ sợi tự nhiên. Đề tài NCKH cấp Bộ.
2. Lê Văn Tung, 2010. Nghiên cứu sử dụng thân cây dừa để sản xuất ván dán làm vật liệu xây dựng tại tỉnh Đồng
Nai. Đề tài NCKH cấp Bộ.
Tiếng Anh
3. S.N. Monteiro, L.A.H. Terrones, J.R.M. D’Almeida, 2008. Mechanical performance of coir fi ber/polyester
composites. Polymer Testing, 27: 591– 595.
4. Md. Mominul Haque, Rezaur Rahman, Md. Nazrul Islam and Md. Monimul Huque, 2010. Mechanical
properties of polypropylene composites reinforced with chemically treated coir and abaca fi ber. Journal of
Reinforced Plastics and Composites, Vol. 29, No. 15: 2253-2261.
5. Md. Mominul Haquea, Mahbub Hasan, Md. Saiful Islam, Md. Ershad Ali, 2009. Physico-mechanical properties
of chemically treated palm and coir fi ber reinforced polypropylene composites. Bioresource Technology, 100:
490-4906.
6. F.Z. Arrakhiz, M. Malha, R. Bouhfi d, K. Benmoussa, A. Qaiss, 2013. Tensile, fl exural and torsional properties of
chemically treated alfa, coir and bagasse reinforced polypropylene. Composites: Part B, 47: 35-41.
7. Leila Fathi, 2014. Structural and mechanical properties of the wood from coconut palms, oil palms and date
palms. Dissertation, Hamburg University.
8. Romulo N. Arancon, Jr., 1997. Asia Pacifi c forestry sector outlook: focus on coconut wood, Asia-Pacifi c
Forestry Sector Outlook Study Working Paper Series No: 23.
9. Shajan Kuriakose, Deviprasad Varma, Vaisakh V.G, 2012. Mechanical behaviour of coir reinforced polyster
composites – An experimental investigation. International Journal of Emerging Technology and Advanced
Engineering, Vol. 2, Issue 12:751-757.
10. Pham Thanh Nhut and Young Jin Y um, 2012. Effect of surface properties on adhesive strength of joint of glass
fi ber/polyester composite panels. Trans. Korean Soc. Mech. Eng. A, V ol. 36, No. 12:1591-1597.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nghien_cuu_anh_huong_cua_nong_do_chat_xu_ly_den_co_tinh_cua.pdf