Chẳng hạn: Thường một buổi học bắt đầu từ 8 giờ, nhưng mỗi lần lên lớp chúng tôi
đến sớm hơn, không bao giờ để HSSV Lào đứng chờ; khi hết giờ cố gắng củng cố thêm ít
phút cho bài vừa học, dặn dò chuẩn bị công việc hôm sau. Để tăng cường vốn từ, vốn
sống và tích cực hóa vốn từ, rèn kỹ năng giao tiếp cho HSSV Lào, chúng tôi đã sử dụng
mọi biện pháp, thủ pháp dạy học và vận dụng ở mọi nơi, mọi lúc (có thể được): trong giờ
ra chơi, trên đường từ lớp học về ký túc xá, đi dã ngoại . Nghĩa là phải biết chia sẻ,
đồng cảm với các em trước rào cản ngôn ngữ Tiếng Việt rất khó với đối tượng. Giảng
viên phải nắm được tâm lý họ cần được thông hiểu ngôn ngữ, tiếp nhận để giao tiếp trong
cuộc sống, sinh hoạt và học tập.
HSSV Lào, do thói quen dậy muộn, những ngày đầu mới đến Việt Nam, các em rất
khó có thể thay đổi nếp sống, thường đi học chậm. Trước mỗi buổi học, chúng tôi ghé
chỗ ở của các em để nhắc nhở, ân cần, động viên và tạo thói quen mới để giúp HSSV Lào
dần đi vào nề nếp, phù hợp với cách sống của người Việt. Những cử chỉ đó dù nhỏ nhoi
nhưng đã truyền lửa của tình yêu, lòng nhiệt thành, tính cần mẫn, miệt mài của tâm huyết
người thầy để kích thích, khơi gợi, lôi cuốn đối tượng.
3. KẾT LUẬN
HSSV Lào học Tiếng Việt trong môi trường sống của người Việt là thuận lợi lớn,
các em có điều kiện trải nghiệm nhiều: khi học tập, sinh hoạt, vui chơi, giải trí. trong giờ
học cũng như ngoài lớp học đều có thể giao tiếp bằng Tiếng Việt. Chính đó là điều kiện,
hoàn cảnh tốt giúp các em tăng cường, mở rộng vốn từ và tích cực hóa vốn từ qua giao
tiếp một cách nhanh chóng. Thông qua thái độ sống của người dạy từ phương pháp lên
lớp, cách ứng xử, giao tiếp cho đến hành vi ngôn ngữ trong cuộc sống, sinh hoạt đều có
thể giúp HSSV có thêm kinh nghiệm giao tiếp cho chính mình. Điều đáng nói nữa là
nguyên tắc giao tiếp trong dạy học Tiếng Việt có mối quan hệ mật thiết và thống nhất với
quan điểm lấy người học làm trung tâm (dạy học theo hướng tích cực). Chúng tôi vận
dụng sáng tạo quan điểm giao tiếp trong dạy học Tiếng Việt vừa phát huy được tính chủ
động, năng lực trí tuệ của HSSV Lào vừa đảm bảo đặc trưng hướng vào hoạt động giao
tiếp của môn học và đó cũng là định hướng để nâng cao hiệu quả giảng dạy.
10 trang |
Chia sẻ: thucuc2301 | Lượt xem: 446 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nâng cao chất lượng dạy tiếng việt cho sinh viên lào từ cơ sở của quan điểm giao tiếp - Nguyễn Thị Nga, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH, SỐ 02
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY TIẾNG VIỆT CHO SINH VIÊN LÀO
TỪ CƠ SỞ CỦA QUAN ĐIỂM GIAO TIẾP
Nguyễn Thị Nga
Trường Đại học Quảng Bình
Tóm tắt. Những năm gần đây, nước bạn Lào đã gửi nhiều học sinh, sinh viên (HSSV) sang
học tập tại trường Đại học Quảng Bình. Để học tập, sinh hoạt được trên đất Quảng Bình, đòi hỏi
HSSV Lào phải nắm kiến thức Tiếng Việt - một công cụ quan trọng trong giao tiếp. Nhằm góp
phần nâng cao hiệu quả giảng dạy cho HSSV Lào, chúng tôi nghiên cứu tiếp cận quan điểm giao
tiếp để ứng dụng dạy Tiếng Việt theo các định hướng cơ bản sau: Tìm hiểu vấn đề hoạt động
giao tiếp và quan điểm giao tiếp trong dạy học Tiếng Việt; Xác định được đặc trưng và mục tiêu
của đối tượng tham gia học Tiếng Việt; Lựa chọn các phương án tối ưu: xây dựng chương trình,
biên soạn tài liệu bài giảng và cách thức tổ chức dạy Tiếng Việt cho HSSV Lào theo quan điểm
giao tiếp.
Từ khóa: Nâng cao chất lượng, giảng dạy Tiếng Việt, quan điểm giao tiếp, sinh viên
Lào, quan trọng
1. QUAN ĐIỂM GIAO TIẾP TRONG DẠY HỌC TIẾNG VIỆT
Đi liền với sự phát sinh, sự tiến hóa và phát triển của đời sống con người là lao
động. Quá trình lao động đã làm nảy sinh nhu cầu giao tiếp và nhờ thế ngôn ngữ theo con
người mà phát sinh và phát triển. “Hoạt động giao tiếp là sự tiếp xúc giữa con người với
con người nhằm trao đổi thông tin, bộc lộ, tình cảm, yêu cầu hành động, đồng thời thể
hiện thái độ, cách đánh giá, cách ứng xử của họ với nhau thông qua nội dung giao tiếp”
[1]. Đó là một trong những hoạt động có ý thức của con người, đóng vai trò rất quan
trọng trong tổ chức và phát triển xã hội. Cùng với lao động, giao tiếp là hoạt động cơ bản
nhất của xã hội. Người ta giao tiếp để tác động nhận thức, tác động tư tưởng, tình cảm và
tác động hành động nhằm thiết lập quan hệ, sự hiểu biết hoặc sự cộng tác... giữa các
thành viên trong xã hội. Thông qua đó con người có thể tập hợp nhau, tổ chức thành tập
thể, thành cộng đồng... Giao tiếp vừa là khả năng vừa là nhu cầu thiết yếu trong đời sống
con người.
Trong giao tiếp người ta sử dụng nhiều phương tiện khác nhau như: tín hiệu vẫy tay,
tiếng còi, tiếng kèn, màu sắc, hình khối, nét mặt điệu bộ, cử chỉ, ánh mắt...nhưng phương
tiện thông thường và thuận tiện nhất, đắc dụng, phổ biến và quan trọng nhất là ngôn ngữ.
“Trong quá trình hình thành con người và phát triển xã hội, nhân loại đã tích lũy một kho
tàng phong phú những công cụ giao tiếp từ đơn giản đến phức tạp, những quy tắc ứng xử,
xã giao trong đời sống hàng ngày... Mỗi cá nhân phải nắm được công cụ, quy tắc ấy,
nghĩa là phải nắm được quy tắc giao tiếp của cộng đồng” [2]. Trong đời sống của xã hội
loài người, ngôn ngữ trở thành “phương tiện giao tiếp quan trọng nhất” (Lênin). Bởi ngôn
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH, SỐ 02
ngữ có khả năng to lớn trong việc biểu đạt mọi vấn đề của cuộc sống và cả những tư
tưởng, tình cảm trong ngõ ngách sâu lắng tế vi nhất của tâm hồn con người. Ngôn ngữ
phục vụ cho việc giao tiếp của xã hội loài người ở mọi nơi, mọi lúc, ở tất cả các lĩnh vực
hoạt động, ở mọi lứa tuổi, mọi thế hệ, mọi thời đại và có thể vượt qua không gian thời
gian cách xa nhau hàng thế kỷ. Ngôn ngữ còn là công cụ của nhận thức, tư duy. Khi giao
tiếp con người cần phải có nội dung để giao tiếp. Muốn có nội dung đó, con người không
thể không tư duy để nhận thức, khám phá và phản ánh thực tế khách quan. Ngôn ngữ
đóng vai trò lưu giữ, cố định các kết quả của nhận thức, tư duy của con người. Ngôn ngữ
trở thành phương tiện vật chất để thể hiện tư duy. Marx từng nhận định "Hiện thực trực
tiếp của tư tưởng là ngôn ngữ". Ngôn ngữ là hình thức bên ngoài còn tư duy là nội dung
bên trong. Trong dạy học muốn phát triển tư duy thì phải phát triển ngôn ngữ và ngược
lại. Thực tế dạy học trong nhà trường đã khẳng định được điều đó.
Mặt khác, ngôn ngữ không còn được nghiên cứu thuần túy như một hệ thống tín
hiệu các đơn vị (âm vị, hình vị, từ, cụm từ, câu, đoạn, văn bản) và quy tắc kết hợp của
chúng mà còn được xem xét dưới nhiều bình diện khác nhau của hoạt động giao tiếp như
quy tắc thương lượng hội thoại, luân phiên lượt lời, tôn trọng thể diện, khiêm tốn, cộng
tác.... Các tính chất của ngôn ngữ như tính khái quát, tính xã hội, tính hệ thống và tính
quy ước trong cộng đồng sử dụng ngôn ngữ chung cũng được đề cập, xem xét. Trên tinh
thần của cách tiếp cận này, xuất phát từ vai trò, bản chất chức năng của ngôn ngữ, các
nhà nghiên cứu ngày càng nhận ra tầm quan trọng của hoạt động giao tiếp bằng phương
tiện ngôn ngữ. Giao tiếp là nền tảng cho sự tồn tại và phát triển của xã hội. Bởi xã hội
không phải là con số cộng của các cá thể mà là mối quan hệ và sự tương tác giữa các
thành viên trong cộng đồng thông qua lao động và hoạt động giao tiếp. Giao tiếp là một
nhu cầu không thể thiếu được của con người. Nhu cầu giao lưu, hợp tác hiểu biết lẫn
nhau, liên kết với nhau của con người để truyền đạt những kinh nghiệm, tri thức lịch sử
xã hội từ người này sang người khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ quốc gia này sang
quốc gia khác và có tác dụng thúc đẩy sự phát triển xã hội. Giao tiếp có mặt trong mọi
hoạt động của con người. Năng lực giao tiếp được xem là một trong những tiêu chuẩn
hàng đầu để đánh giá trình độ nhận thức và văn hóa của con người.
Trong dạy học Tiếng Việt, giao tiếp là một nguyên tắc dạy học quan trọng buộc nhà
giáo phải tuân thủ một cách triệt để. Bởi ngôn ngữ là một hệ thống hoạt động chức năng
phục vụ cho tư duy và giao tiếp xã hội (như trên đã phân tích). Nếu tách ngôn ngữ khỏi
hoạt động chức năng, nó sẽ đóng băng như một hệ thống đóng. Đặc trưng của ngôn ngữ
là hoạt động. Khi hoạt động, con người vận dụng để tạo ra các dạng nghi thức lời nói
khác nhau và mọi quy luật cấu trúc cũng chỉ được rút ra trên cơ sở nghiên cứu lời nói
sinh động. Con người muốn hình thành cả kĩ năng và kĩ xảo ngôn ngữ thì phải trực tiếp
tham gia vào hoạt động giao tiếp, vận dụng tri thức ngôn ngữ cần thiết để sản sinh ra lời
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH, SỐ 02
nói, hiểu lời nói của người khác. Cho nên khi học bất cứ một đơn vị ngôn ngữ nào cũng
cần đưa chúng vào hoạt động hành chức, tức là đưa nó vào đơn vị lớn hơn, nó được vận
hành trong lời nói, trong giao tiếp. Dạy từ không chỉ dừng lại giải nghĩa của từ mà phải
đưa từ đó vào trong câu, đặt nó hoạt động trong môi trường để rèn các kỹ năng giao tiếp,
khắc sâu tri thức. Dạy âm không chỉ dừng lại ở chỗ phân biệt âm nọ với âm kia mà cần
phải cho học sinh quan sát chúng trong các âm tiết, sử dụng chúng trong từ, trong câu và
trong các lời nói cụ thể. Từ là đơn vị có sẵn trong ngôn ngữ, cố định hóa về hình thức
biểu hiện. Một từ có thể có nhiều nghĩa khác nhau. Khi sử dụng từ trong câu và đoạn, các
sắc thái phong cách, ý nghĩa ngữ pháp, sắc thái tình cảm, khả năng kết hợp và chức năng
ngữ pháp của chúng lại được thể hiện một cách rõ ràng và cụ thể hơn. Vì vậy, ngôn ngữ
luôn được đặt trong hoạt động giao tiếp và dạy học Tiếng Việt phải cũng luôn đặt trong
quan điểm giao tiếp.
2. CÁC ĐỊNH HƯỚNG CƠ BẢN TRONG DẠY TIẾNG VIỆT CHO SINH VIÊN
LÀO TỪ QUAN ĐIỂM GIAO TIẾP
GS.TSKH. Lê Ngọc Trà đã từng khẳng định: “Giao tiếp có quan hệ chặt chẽ với
giáo dục. Hay nói một cách cụ thể hơn thì ở phương diện nào đó giáo dục chính là giao
tiếp. Không có giao tiếp thì không có giáo dục. Ngoài ra giao tiếp không chỉ là hình thức,
phương tiện của giáo dục mà còn là một nội dung quan trọng của giáo dục” [2]. Hoạt
động tiếp nhận ngôn ngữ chỉ diễn ra khi người nghe, người đọc có cùng ngôn ngữ với
người nói, người viết. Việc giải mã phụ thuộc vào năng lực vận dụng ngôn ngữ, tầm nhận
thức của người tiếp nhận. Bởi vậy, phát triển khả năng giao tiếp ngôn ngữ ở hai phương
diện tiếp nhận, sản sinh ngôn bản không tách rời việc phát triển nhận thức của người học.
Mặt khác ngôn ngữ Tiếng Việt vừa tồn tại ở dạng tĩnh là một hệ thống kết cấu các yếu tố,
vừa tồn tại ở dạng động tức là hoạt động của lời nói. Ở dạng động, Tiếng Việt được biểu
hiện rõ ở phương tiện thực hiện hoạt động giao tiếp. Thông qua giao tiếp, Tiếng Việt mới
bộc lộ rõ các đặc trưng cụ thể (hiện tượng đồng âm, đồng nghĩa, phân loại từ, nghĩa của
từ...) và chỉ trong hoạt động giao tiếp với các nhân tố, hoàn cảnh, môi trường giao tiếp,
hiện thực được nói tới ....khác nhau thì quy luật sử dụng Tiếng Việt như đảo trật tự, rút
gọn, tỉnh lược câu...mới được thể hiện. Đồng thời với quá trình giao tiếp, các yếu văn hóa
xuất hiện, lộ rõ. Bởi vì khi giao tiếp với một đối tượng cụ thể rất cần có những hiểu biết
về văn hóa, phong tục, tập quán, lịch sử và con người ở một vùng đất cụ thể. Người giao
tiếp cần phải biết hỏi, đáp, trình bày những ý nghĩ, cảm xúc bằng thứ ngôn ngữ chung mà
các đối tượng cùng tham gia đều có thể nhận thức được.
2.1. Xác định đối tượng và mục tiêu
Đối tượng tham gia học Tiếng Việt trong bài viết nói tới là học sinh, sinh viên Lào.
Nhìn ở góc độ vốn liếng ngôn ngữ ban đầu, hầu hết họ chưa có bất cứ vốn ngôn ngữ nào
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH, SỐ 02
về Tiếng Việt. Nhìn ở góc độ tư duy, một số HSSV Lào có trình độ thể hiện các thao tác
tư duy cao, suy luận tốt. Học Tiếng Việt đối với bạn Lào là học một ngoại ngữ. Đặc trưng
của môn học này ngoài đòi hỏi về tư duy, có một điều kiện cực kỳ quan trọng, một đòi
hỏi cao về tính kiên nhẫn, sự cần cù, siêng năng, luôn ý thức rèn các kỹ năng nghe, nói,
đọc, viết ở mọi nơi, mọi lúc trong các môi trường giao tiếp khác nhau. Đây là cơ sở khoa
học làm căn cứ để lựa chọn, định hướng xây dựng chương trình chi tiết, biên soạn tài liệu
bài giảng. Xác định được đối tượng giúp ta có cơ sở để định hướng mục tiêu giảng dạy.
Việc xác định mục tiêu trong dạy học có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Mục tiêu sẽ
chi phối toàn bộ hoạt động của các yếu tố khác trong quá trình dạy học từ việc lựa chọn
nội dung kiến thức, phương pháp dạy học, đối tượng, hình thức dạy học, đến các phương
tiện dạy họcNgược lại việc hoạt động của mỗi yếu tố như là một bộ phận cấu thành
chỉnh thể, là điều kiện góp phần đi đến đích của dạy học. Mục tiêu được coi là bước khởi
đầu mang tính quyết định đến chất lượng dạy học vì dựa vào đây giảng viên biết lựa chọn
đúng kiến thức cơ bản, biết sử dụng phối hợp các phương pháp một cách khoa học, sử
dụng các phương tiện khác một cách có hiệu quả. Nhờ thế ta có thể lựa chọn điểm nhấn
để làm cho tiết giảng trở nên hấp dẫn, cuốn hút đối tượng và sẽ linh hoạt hơn trong ứng
xử các tình huống sư phạm.
HSSV Lào đến Việt Nam học Tiếng Việt để chiếm lĩnh được công cụ giao tiếp trên
cơ sở hình thành và phát triển các kỹ năng nghe - nói - đọc - viết, sử dụng Tiếng Việt làm
công cụ tư duy để tiếp tục học cao đẳng, đại học. Từ đó ta thấy mục tiêu cơ bản và cũng
là đặc trưng của bộ môn Tiếng Việt nhằm giúp họ có năng lực sử dụng ngôn ngữ trong
giao tiếp. Thông qua hoạt động giao tiếp bằng Tiếng Việt, HSSV Lào không chỉ để trao
đổi tư tưởng, tình cảm mà cơ bản là để học tập, nghiên cứu ở một trình độ khác. Dạy
ngôn ngữ Tiếng Việt cho người Lào cũng là dạy cho họ chiếm lĩnh công cụ giao tiếp văn
hóa Việt. Nghi thức lời nói cũng là một bộ phận cấu thành hoạt động giao tiếp mà phụ
thuộc vào đó con người kiến tạo các dạng lời nói khác nhau để thực hiện mục tiêu giao
tiếp. Lời nói vừa mang tính cá nhân vừa mang tính xã hội của cộng đồng ngôn ngữ. Song
việc giao tiếp bằng ngôn ngữ phụ thuộc rất nhiều vào những hoàn cảnh, điều kiện, mục
tiêu và các tính chất khác nhau của hoạt động giao tiếp. Hơn nữa hoạt động giao tiếp
Tiếng Việt còn được thực hiện theo những cách thức khác nhau, được truyền trên những
kênh khác nhau.
2.2. Xây dựng chương trình và biên soạn tài liệu bài giảng
Những năm trước đây trường Đại học Quảng Bình dạy Tiếng Việt cho HSSV Lào
theo chương trình Tiếng Việt khá hàn lâm. HSSV Lào học Tiếng Việt từ các nội dung cơ
bản về Ngữ âm, Từ vựng, Ngữ pháp, Ngữ dụng và nâng cao trên cơ sở Tiếng Việt qua
Văn học, Tiếng Việt qua Lịch sử, Tiếng Việt qua Văn hóa, Tiếng Việt qua Toán học...Có
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH, SỐ 02
thể nói, xuất phát từ tình yêu, lòng hiếu khách và kỳ vọng lớn của chúng tôi muốn giúp
cho các em chiếm lĩnh hết công cụ Tiếng Việt. Nhưng thực tế đó dẫn đến sự phân hóa rất
cao giữa em có vốn Tiếng Việt, chăm học và em không có vốn Tiếng Việt ban đầu.
Những người học không có vốn Tiếng Việt cơ bản ban đầu không thể nào theo kịp, xảy ra
tình trạng phân hóa đối tượng trong cùng một lớp học. Chúng tôi phải bù đắp cho họ qua
rất nhiều kênh và tốn thời gian. Rút kinh nghiệm qua dạy học, chúng tôi đã điều chỉnh lại
chương trình, kết cấu cung cấp kiến thức theo kiểu vừa đơn giản vừa hàn lâm (cách gọi
tạm thời của các thành viên trong Bộ môn) và tuân thủ nguyên tắc giao tiếp trong dạy học
Tiếng Việt. Rất nhiều cuộc họp (ở cấp tổ bộ môn, liên môn và trường) đã đặt vấn đề tìm
các phương án giảng dạy, xây dựng chương trình chi tiết, biên soạn tài liệu theo định
hướng đã nêu trên để nâng cao chất lượng cho đối tượng. Làm sao giúp HSSV Lào rèn
các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt càng nhiều càng tốt. Định hướng trong xây dựng chương
trình chi tiết chủ yếu theo tỷ lệ lý thuyết và thực hành là 3/7 hoặc 4/6. Tùy theo đặc trưng
của từng học phần mà chọn 30% hay 40% lý thuyết nghĩa là tinh lọc những kiến thức nền
cơ bản trong hệ thống cấu trúc Tiếng Việt như: khái niệm, quy tắc cấu trúc...số tiết còn
lại dành cho việc rèn các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết để thực hành hoạt động giao tiếp.
Chương trình cố gắng bám sát đối tượng HSSV Lào để cung cấp những tri thức có tính
chất công cụ của Tiếng Việt và chú trọng rèn các kỹ năng giao tiếp trong môi trường học
tập, sinh hoạt, nghiên cứu.
Muốn nâng cao chất lượng dạy học Tiếng Việt cho HSSV Lào thì phải thực hiện đổi
mới đồng bộ các khâu cấu thành quá trình dạy học và một điều không kém phần quan
trọng cần đặc biệt chú ý tới đổi mới biên soạn tài liệu bài giảng làm sao để giúp cho cả
giảng viên lẫn người học có được sự hứng thú, niềm đam mê đối với môn học, đồng thời
tích lũy một lượng kiến thức và kĩ năng Tiếng Việt làm công cụ để giao tiếp và tư duy.
Bài giảng phải được trình bày thành một hệ thống các vấn đề có quan hệ chặt chẽ với
nhau. Mối quan hệ giữa các vấn đề trong bài giảng như chính là mối quan hệ của các khái
niệm. Bài giảng phải mạch lạc mới phản ánh đầy đủ và chính xác mối quan hệ giữa các
khái niệm. Làm thế nào qua bài giảng giúp cho người học có phương pháp làm việc khoa
học, thể hiện được các thao tác tư duy (phân tích, tổng hợp, khái quát, hệ thống), đặc biệt
là năng lực giao tiếp. Vì vậy sau mỗi phần lý thuyết cơ bản, bài giảng phải tập trung xây
dựng một hệ thống bài tập phong phú, đa dạng, hấp dẫn, phù hợp đối tượng. Tùy theo nội
dung học phần mà thiết kế các dạng bài tập sao cho vừa sức, đảm bảo tính khoa học, tính
tư duy, tính lôgic...đặc biệt chú trọng nguyên tắc giao tiếp. Chẳng hạn: trong học phần
Tiếng Việt cơ sở, chúng tôi tạm chia ra các dạng bài tập theo một số kiểu chính sau:
- Dạng bài tập kết hợp, phân tích, so sánh:
+ Cho sẵn một số âm tiết có cùng vần, yêu cầu so sánh
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH, SỐ 02
+ Cho sẵn các âm và yêu cầu kết hợp thành vần, thành âm tiết
+ Cho sẵn một số âm tiết, từ, câu và yêu cầu phân tích. Ví dụ: âm tiết làm do âm,
vần và dấu thanh nào tạo thành?
+ Cho sẵn từ, cụm từ và yêu cầu sắp xếp kết hợp thành câu đúng
+ Cho sẵn tiếng và yêu cầu tìm thêm tiếng để kết hợp thành từ có nghĩa.
Loại bài tập này được đặc biệt chú trọng khi dạy Ngữ âm, Từ vựng, Ngữ pháp nhằm
giúp HSSV Lào nắm chắc hệ thống chữ cái, âm, vần, từ, câu trong Tiếng Việt. Thông qua
hệ thống bài tập này người học nắm được cấu trúc, quy tắc kết hợp của âm tiết, từ, câu
Tiếng Việt. Khi giúp HSSV Lào giải các bài tập này, chúng tôi luôn đặt trong đơn vị lớn
hơn để mở rộng vốn từ. Ví dụ hãy tìm những tiếng mà bạn biết có vần am... và giảng viên
kết hợp giải nghĩa từ. Hay đặt câu có từ chứa vần am.
- Dạng bài tập điền từ vào ô trống như: Cho một đoạn văn còn thiếu một số từ, yêu
cầu người học tìm từ (chọn từ đã cho) thích hợp điền vào ô trống.
- Dạng bài tập mở rộng vốn từ theo chủ đề: nhà trường, gia đình, quê hương, đất
nước, thiên nhiên, lịch sử, thăm viếng, lễ hội, sinh hoạt.
- Dạng bài tập rèn các kỹ năng Tiếng Việt như: yêu cầu HSSV Lào nghe giảng viên
đọc các từ, câu, đoạn thơ và viết vào bảng. Hoặc cho một văn bản, yêu cầu HSSV Lào
đọc hiểu và trả lời câu hỏi. Loại bài tập này được chú trọng trong dạy rèn các kỹ năng
tổng hợp và nâng cao.
Trong bài giảng của mình, chúng tôi cố gắng thiết kế một hệ thống các hoạt động
dạy và học thông qua các dạng câu hỏi và bài tập thực hành. Từ việc nhận thức đúng mục
tiêu, các nhiệm vụ cụ thể, tính vừa sức của các bài học, người dạy có thể hướng dẫn cho
HSSV Lào nắm chắc kiến thức bài qua hệ thống câu hỏi và bài tập thực hành đã được
biên soạn. Nếu hệ thống câu hỏi và bài tập được chuẩn bị tốt trong quá trình biên soạn thì
dưới sự dẫn dắt của giảng viên, bài giảng được triển khai một cách có hiệu quả và người
học có cơ hội, điều kiện phát huy khả năng, hứng thú, chủ động, sáng tạo chiếm lĩnh tri
thức, rèn luyện các kỹ năng Tiếng Việt, phát triển mối quan hệ giao tiếp với các thành
viên trong lớp học, kích thích sáng tạo. Điều đó có tác động kép đến quá trình học tập,
chiếm lĩnh tri thức của HSSV Lào vì phát huy tính được tính tích cực, chủ động của
người học và đồng thời đổi mới phương pháp, nâng cao hiệu quả dạy học.
2.3. Tổ chức hoạt động dạy học theo quan điểm giao tiếp
Trên cơ sở định được đích cần đến, chúng ta lựa chọn phương án dạy cho đối tượng
HSSV Lào kết hợp giữa kiến thức đơn giản và kiến thức hàn lâm. Điều đó có nghĩa là
vừa có nét giống như việc cung cấp vốn từ cho học sinh Tiểu học (nghĩa là bắt đầu từ
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH, SỐ 02
cung cấp hệ thống chữ cái, âm, vần... Tiếng Việt) và rèn đức tính cần cù chịu khó, vừa có
nét khác trong hướng dạy tăng cường tư duy, óc suy luận (dạy các quy tắc Tiếng Việt),
vừa cung cấp lý thuyết tinh giản vừa tăng cường thực hành như đối tượng sinh viên người
Việt học Tiếng Việt. Cách đơn giản nhất phải bắt đầu từ dạy cho HSSV Lào chiếm lĩnh
được hệ thống chữ cái, âm, vần Tiếng Việt (như kiểu dạy cho học sinh lớp 1 ở các trường
Tiểu học) kết hợp với việc rèn các kỹ năng nói, nghe, đọc, viết, kể. Nghĩa là dạy âm nào,
vần nào, người học phải đọc, viết, nhớ, nói được âm, vần đó trong hoạt động giao tiếp cụ
thể. Luôn đặt âm vào trong từ, đặt từ vào trong lời nói (nghĩa là đưa vào hoạt động hành
chức của ngôn ngữ). Có thể nói phương hướng tốt nhất để dạy các đơn vị ngôn ngữ trong
hệ thống hành chức là phải tìm mọi cách hướng học sinh và hoạt động giao tiếp. Muốn
thực hiện điều này, cần phải tạo được các tình huống khác nhau để kích thích động cơ,
tạo tình huống và hoàn cảnh giúp họ có cơ hội giao tiếp. Ví dụ: trong phân môn Tiếng
Việt cơ bản, khi dạy vần oc chúng tôi đặt trong từ khóa học tập và đặt tiếp trong câu nói
tôi chăm chỉ học tập để vừa ôn luyện vần, vừa giải thích nghĩa từ và câu, rèn kỹ năng
ngôn ngữ. Ngoài ra còn kích thích động cơ, khuyến khích tinh thần chăm chỉ học tập cho
HSSV Lào thông qua những hoạt động giao tiếp cụ thể. Một trong những yêu cầu về đồ
dùng học tập của chúng tôi là: người học luôn mang theo bảng con, bút viết bảng, các
dụng cụ cần thiết để thực hành rèn các kỹ năng viết, nghe, nói, đọc. Đồng thời dạy theo
kiểu hàn lâm tức là sau một nhóm các âm vần, chúng tôi tiến hành quy nạp để người học
rút ra quy tắc kết hợp trong Tiếng Việt (âm vị kết hợp với nhau thành hình vị, hình vị kết
hợp với nhau thành từ, rồi các cách kết hợp từ thành cụm từ, thành câu, kết hợp các câu
thành đoạn, văn bản....) nghĩa là dạy theo hướng hàn lâm trên các phương diện: Ngữ âm,
Từ vựng, Ngữ pháp....nhằm giúp họ có điều kiện so sánh, suy luận, tư duy về cách thức
liên kết các đơn vị trong quy tắc kết hợp để chiếm lĩnh quy luật hoạt động và tồn tại của
ngôn ngữ Tiếng Việt. Bên cạnh đó chúng tôi còn tập trung chú trọng dạy học theo định
hướng tích hợp với phần nâng cao (Tiếng Việt qua Văn học, Tiếng Việt qua Lịch sử,
Tiếng Việt qua Văn hóa...) trong dạy Tiếng Việt cơ bản.
Chẳng hạn: trong dạy Ngữ âm, chúng tôi cung cấp cho người học hệ thống âm vị
(nguyên âm, phụ âm, ...), âm tiết (phụ âm đầu, vần, thanh điệu..) và kết hợp cung cấp tất
cả các vần có trong chương trình Tiếng Việt ở Tiểu học. Trong quá trình dạy vần, chúng
tôi kết hợp với kiến thức văn hóa để tăng cường mở rộng vốn từ cho HSSV Lào. Chẳng
hạn: dạy vần ao, chúng tôi lựa chọn lời chào làm từ khóa và hướng dẫn cho người nước
ngoài hiểu nghĩa của nó. Trên cơ sở nghĩa của từ này để dạy cho học sinh cách thức chào
hỏi theo văn hóa của người Việt sao cho đúng đối tượng.
Ví dụ: đối với người đồng trang lứa, cùng tuổi thì chào bạn, nhưng với người lớn
tuổi hơn thì thêm chữ ạ sau câu chào để tỏ thái độ tôn kính; chào anh (ông, bà, chú, bác,
cô, gì) ạ! Điều này phù hợp với thói quen và tập quán của văn hóa Việt. Ngay cả trong
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH, SỐ 02
giao tiếp khi nói chuyện với người lớn tuổi hơn mình cũng khác với người nhỏ hoặc bằng
tuổi mình. Khi giao tiếp với người lớn phải nói câu đầy đủ, có đầu có cuối, không nói câu
rút gọn, câu tỉnh lược, người nghe có cảm giác cộc lốc, thiếu tôn trọng, đi ngược lại quan
niệm văn hóa của người Việt. Ngược lại nói với bạn bè có thể rút gọn lại.
Cũng từ việc dạy vần am, chúng tôi giúp người học hiểu thêm nghĩa của các từ quả
cam, làm, cảm ơn... và dừng lại giải thích hành động cảm ơn trong giao tiếp của người
Việt. Mỗi khi ai đó giúp mình điều gì dù lớn, dù nhỏ đều phải nói lời cảm ơn. Đó là
nguyên tắc ứng xử lịch sự trong giao tiếp. Người Việt cũng không sử dụng cảm ơn chung
cho mọi trường hợp mà luôn biến hóa linh hoạt trước các đối tượng khác nhau, tạo lập
các dạng lời nói khác nhau trên cùng một cách hiểu. Chẳng hạn: Con xin cô (cảm ơn khi
nhận được quà), Chú chu đáo quá (Cảm ơn khi được quan tâm), Chị bày vẽ quá nhiều
(Cảm ơn khi được đón tiếp chu đáo), Ôi quý hóa quá (Cảm ơn khi có khách đến thăm),
Anh/ chị quá khen (lời cảm ơn khi được khen)...Nhờ thế HSSV Lào có được nhiều vốn
từ về các cách cảm ơn để lựa chọn khi giao tiếp.
Khi dạy các bài hội thoại chúng tôi lựa chọn các chủ đề về nhà trường, gia đình,
quê hương, đất nước, lịch sử, thăm viếng, lễ hội, ...để cung cấp vốn từ, rèn kỹ năng nghe,
nói, đọc, viết Tiếng Việt để giao tiếp. Trên chủ đề nhà trường, ngoài việc thiết lập văn
bản giới thiệu tình cảm thầy trò, ngôi trường, chúng tôi chú trọng biểu hiện nội dung đức
tính cần cù, chịu khó, siêng năng, lễ phép, biết ơn của người Việt để cho đối tượng tham
gia đọc hiểu. Khi dạy chủ đề gia đình, chúng tôi thiết kế văn bản giới thiệu về họ hàng
huyết thống, cách xưng hô và "tôn ti trật tự" kính trên, nhường dưới để khi giao tiếp cần
phải đắn đo, cân nhắc, thật ý tứ trong các mối quan hệ. Với chủ đề quê hương chúng tôi
yêu cầu đối tượng giới thiệu (nghĩa là các em buộc phải tự nói ra những điều mình nghĩ)
về quê quán của mình và so sánh với các hình ảnh Động Phong Nha, biển Nhật Lệ, ...và
kết thúc tiết giảng trong âm thanh giai điệu bài hát “Quảng Bình quê ta ơi” đằm thắm
thiết tha xao động lòng người. Nghĩa là qua mỗi tiết, mỗi bài học Tiếng Việt, HSSV Lào
luôn được giao tiếp trong mọi tình huống. Trong dạy ngôn ngữ Tiếng Việt chúng tôi luôn
tuân thủ nguyên tắc: tìm mọi cách để mở rộng vốn từ và tạo điều kiện môi trường cho
người học giao tiếp ở mọi nơi, mọi lúc, khi học, khi vui chơi, giải trí, đi chợ, nấu nướng,
sinh hoạt, dã ngoại... Các em HSSV Lào tiếp xúc, giao tiếp bằng Tiếng Việt với mọi
người càng nhiều càng tốt.
Bên cạnh các yếu tố trên để nâng cao chất lượng dạy học Tiếng Việt cho HSSV Lào
chúng tôi còn cần một trái tim, tình yêu và lòng nhiệt thành trước đối tượng. Trong quá
trình giảng dạy chúng tôi cố gắng tạo được mối quan hệ thân mật, gắn bó, xây dựng một
môi trường đầy thiện cảm, mở rộng tâm hồn cho họ đón nhận những tình cảm yêu thương
của thầy cô như người thân trong gia đình, tạo tâm lý và hoàn cảnh giao tiếp thoải mái tự
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH, SỐ 02
nhiên, không gò bó, từ đó họ có điều kiện trải nghiệm. Nghề giáo cũng đòi hỏi các nhà sư
phạm xây dựng chuẩn mực về lời nói, hành vi giao tiếp, cách thức ứng xử với mọi thành
viên trong cộng đồng.
Chẳng hạn: Thường một buổi học bắt đầu từ 8 giờ, nhưng mỗi lần lên lớp chúng tôi
đến sớm hơn, không bao giờ để HSSV Lào đứng chờ; khi hết giờ cố gắng củng cố thêm ít
phút cho bài vừa học, dặn dò chuẩn bị công việc hôm sau. Để tăng cường vốn từ, vốn
sống và tích cực hóa vốn từ, rèn kỹ năng giao tiếp cho HSSV Lào, chúng tôi đã sử dụng
mọi biện pháp, thủ pháp dạy học và vận dụng ở mọi nơi, mọi lúc (có thể được): trong giờ
ra chơi, trên đường từ lớp học về ký túc xá, đi dã ngoại .... Nghĩa là phải biết chia sẻ,
đồng cảm với các em trước rào cản ngôn ngữ Tiếng Việt rất khó với đối tượng. Giảng
viên phải nắm được tâm lý họ cần được thông hiểu ngôn ngữ, tiếp nhận để giao tiếp trong
cuộc sống, sinh hoạt và học tập.
HSSV Lào, do thói quen dậy muộn, những ngày đầu mới đến Việt Nam, các em rất
khó có thể thay đổi nếp sống, thường đi học chậm. Trước mỗi buổi học, chúng tôi ghé
chỗ ở của các em để nhắc nhở, ân cần, động viên và tạo thói quen mới để giúp HSSV Lào
dần đi vào nề nếp, phù hợp với cách sống của người Việt. Những cử chỉ đó dù nhỏ nhoi
nhưng đã truyền lửa của tình yêu, lòng nhiệt thành, tính cần mẫn, miệt mài của tâm huyết
người thầy để kích thích, khơi gợi, lôi cuốn đối tượng.
3. KẾT LUẬN
HSSV Lào học Tiếng Việt trong môi trường sống của người Việt là thuận lợi lớn,
các em có điều kiện trải nghiệm nhiều: khi học tập, sinh hoạt, vui chơi, giải trí... trong giờ
học cũng như ngoài lớp học đều có thể giao tiếp bằng Tiếng Việt. Chính đó là điều kiện,
hoàn cảnh tốt giúp các em tăng cường, mở rộng vốn từ và tích cực hóa vốn từ qua giao
tiếp một cách nhanh chóng. Thông qua thái độ sống của người dạy từ phương pháp lên
lớp, cách ứng xử, giao tiếp cho đến hành vi ngôn ngữ trong cuộc sống, sinh hoạt đều có
thể giúp HSSV có thêm kinh nghiệm giao tiếp cho chính mình. Điều đáng nói nữa là
nguyên tắc giao tiếp trong dạy học Tiếng Việt có mối quan hệ mật thiết và thống nhất với
quan điểm lấy người học làm trung tâm (dạy học theo hướng tích cực). Chúng tôi vận
dụng sáng tạo quan điểm giao tiếp trong dạy học Tiếng Việt vừa phát huy được tính chủ
động, năng lực trí tuệ của HSSV Lào vừa đảm bảo đặc trưng hướng vào hoạt động giao
tiếp của môn học và đó cũng là định hướng để nâng cao hiệu quả giảng dạy.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Trường Đại học Quảng Bình (2010), Chương trình đào tạo Tiếng Việt dự bị.
[2] Nguyễn Văn Huệ (chủ biên) (2002), (2003), Giáo trình Tiếng Việt dành cho người nước
ngoài, tập 2,3, Nxb Giáo dục.
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH, SỐ 02
[3] Bùi Minh Toán, Đặng Thị Lanh, Lê Hữu Tỉnh (1994), Tiếng Việt tập 1, Nxb Giáo dục.
[4] Lê Ngọc Trà, Giao tiếp, giáo dục và giáo dục văn hóa giao tiếp trong nhà trường,
http//wwwtrungtamdaytienghan.com/tv/.
IMPROVING THE QUALITY OF TEACHING VIETNAMESE
LANGUAGE FOR LAO STUDENS ON COMMUNICATIVE APPROACH
Nguyen Thi Nga
Quang Binh University
Abstract. In recent years, Lao People's Democratic Republic has sent many students to
Quang Binh University for undergraduate. For their studying, Lao students have to master
Vietnamese language – an important step in becoming proficient in their major subjects.
Therefore, the paper aims at approaching the communicative way in teaching Vietnamese
language following basic ways: studying the communicative activities and viewpoints in teaching
Vietnamese; Determining the characteristics and target of the students studying Vietnamese;
Collecting the best ways to teach Vietnamese language for Lao students in communicative
approach such as: building the curriculum, writing the materials, and organizing the class.
Key words: improving the quality, teaching Vietnamese, communicative approach, Lao
students, importance
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 10_nguyen_thi_nga_9909_2024775.pdf