Một vài vấn đề về phương thức biểu hiện hành vi phủ định trong tiếng Việt

Theo định nghĩa của Từ điển thuật ngữ ngôn ngữ học (Nguyễn Như Ý chủ biên, Nxb Giáo dục, 1996), hành vi ngôn ngữ là một đoạn lời nói có tính mục đích nhất định được thực hiện trong những điều kiện nhất định, được tách biệt bằng những phương tiện tiết tấu – ngữ điệu và hoàn chỉnh, thống nhất về mặt cấu âm - âm học mà người nói và người nghe đều có liên hệ với một ý nghĩa như nhau trong hoàn cảnh giao tiếp nào đó. Như vậy, khi sử dụng ngôn ngữ, ngoài vệc tạo ra những phát ngôn có chứa mệnh đề về những đối tượng, những thực thể, sự kiện, chúng ta còn phải thực hiện những chức năng như đánh giá, yêu cầu, cám ơn, phủ nhận Những hành động ngôn từ này được chúng ta nhận biết thông qua một ngữ cảnh mà trong đó phát ngôn diễn ra. Dù ở trong trường hợp nào thì phát ngôn cũng bao gồm ba hành động liên quan. Đó là hành động tạo lời (locutionary act), hành động tại lời (illocutyonary) và hành động xuyên lời (perlocutionary act). Hành động tạo lời là hành động cơ sở của phát ngôn, liên quan đến kết học, kết cấu, tạo ra những mệnh đề phản ánh nội dung của mệnh đề đó. Hành động xuyên lời là hành động gây được hiệu quả ở người nghe, giúp người nghe hiểu được điều người nói muốn bày tỏ thông qua phát ngôn. Cách bày tỏ có thể là hiển ngôn hoặc hàm ngôn, có đánh dấu hoặc không có đánh dấu. Còn loại hành động thông qua mô hình cấu trúc của câu mà tạo thành lời hứa hẹn, một lời bác bỏ hay một lời tuyên bố có nghĩa là nói lên một hành động ngôn trung nào đó, thì được gọi là hành động tại lời

doc10 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 3784 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một vài vấn đề về phương thức biểu hiện hành vi phủ định trong tiếng Việt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Một vài vấn đề về phương thức biểu hiện hành vi phủ định trong tiếng Việt I. ĐẶT VẤN ĐỀ Theo định nghĩa của Từ điển thuật ngữ ngôn ngữ học (Nguyễn Như Ý chủ biên, Nxb Giáo dục, 1996), hành vi ngôn ngữ là một đoạn lời nói có tính mục đích nhất định được thực hiện trong những điều kiện nhất định, được tách biệt bằng những phương tiện tiết tấu – ngữ điệu và hoàn chỉnh, thống nhất về mặt cấu âm - âm học mà người nói và người nghe đều có liên hệ với một ý nghĩa như nhau trong hoàn cảnh giao tiếp nào đó. Như vậy, khi sử dụng ngôn ngữ, ngoài vệc tạo ra những phát ngôn có chứa mệnh đề về những đối tượng, những thực thể, sự kiện, chúng ta còn phải thực hiện những chức năng như đánh giá, yêu cầu, cám ơn, phủ nhận … Những hành động ngôn từ này được chúng ta nhận biết thông qua một ngữ cảnh mà trong đó phát ngôn diễn ra. Dù ở trong trường hợp nào thì phát ngôn cũng bao gồm ba hành động liên quan. Đó là hành động tạo lời (locutionary act), hành động tại lời (illocutyonary) và hành động xuyên lời (perlocutionary act). Hành động tạo lời là hành động cơ sở của phát ngôn, liên quan đến kết học, kết cấu, tạo ra những mệnh đề phản ánh nội dung của mệnh đề đó. Hành động xuyên lời là hành động gây được hiệu quả ở người nghe, giúp người nghe hiểu được điều người nói muốn bày tỏ thông qua phát ngôn. Cách bày tỏ có thể là hiển ngôn hoặc hàm ngôn, có đánh dấu hoặc không có đánh dấu. Còn loại hành động thông qua mô hình cấu trúc của câu mà tạo thành lời hứa hẹn, một lời bác bỏ hay một lời tuyên bố … có nghĩa là nói lên một hành động ngôn trung nào đó, thì được gọi là hành động tại lời. Có 5 phạm trù cơ bản của hành động tại lời: (1). Phạm trù phán xử: là hành động ngôn ngữ làm thay đổi sự việc qua các phát ngôn. Các hành động như tuyên án, kết luận, đánh giá, xếp loại, chẩn đoán, tha bổng, giải quyết, tuyên bố … thuộc phạm trù này. (2). Phạm trù hành chức: là hành động mà người nói sử dụng để khiến người nghe làm một cái gì đó. Thuộc mhóm này có các hành động như chỉ thị, thăng chức, từ chức, chỉ định, tha, hiệu triệu … (3). Phạm trù hứa hẹn: là một hành động cam kết của người nói về một sự việc, hoạt động nào đấy, chẳng hạn như hứa, cam kết, bảo lãnh, hợp đồng, thề thốt… (4). Phạm trù ứng xử: là hành động thể hiện trong quá trình ứng xử, giao tiếp giữa người nói và người nghe. Thuộc phạm trù ứng xử là những hành động xin lỗi, cám ơn, chia buồn, trách móc, trao tặng… (5). Phạm trù trình bày: hành động này thể hiện ở những câu mà người nói phải chịu trách nhiệm về tính chân thực của mệnh đề biểu đạt. Nhóm này bao gồm các hành vi như khẳng định, phủ định, bác bỏ, đáp, thừa nhận, tường thuật … Mỗi một loại phạm trù chắc chắn phải được thể hiện bằng những phương thức ngôn ngữ phù hợp, tương ứng. Để tìm ra câu trả lời, tôi đã lựa chọn hành vi phủ định (HVPĐ) (thuộc phạm trù trình bày như đã nói ở trên) trong ngôn ngữ, cụ thể là trong tiếng Việt và thử tìm hiểu về phương thức biểu hiện hành vi. Sẽ là cần thiết nếu chúng ta tìm hiểu sơ lược về sự phủ định, câu phủ định trước khi đi vào nghiên cứu các phương thức biểu đạt hành vi phủ định. Thế nào là sự phủ định, câu phủ định? Có những loại câu phủ định nào? Khái niệm phủ định trong Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên được hiểu là “bác bỏ sự tồn tại, sự cần thiết của cái gì”. Còn trong cuốn Logic – Ngữ nghĩa – Cú pháp (Nxb Đại học và trung học chuyên nghiệp, 1987), Nguyễn Đức Dân viết: “Sự phủ định là một phạm trù cơ bản của tư duy, của logic hình thức. Nó đối lập với phạm trù khẳng định”. Sự phủ định là một trong những vấn đề quan trọng nhất của Ngôn ngữ học đại cương bởi nó biểu hiện mối quan hệ giữa nội dung và hình thức, giữa cấu trúc ngữ pháp và cấu trúc ý nghĩa. Nhiều nhà ngôn ngữ học trong nước và ngoài nước đã đề cấp đến câu phủ định. Diệp Quang Ban cho rằng “Câu phủ định xác nhận sự vắng mặt của vật, hiện tượng hay sự kiện, sự vắng mặt của đối tượng hay của đặc trưng đối tượng trong hiện thực hoặc tưởng tượng, bằng những phương tiện hình thức nhất định” (Ngữ pháp Tiếng Việt phổ thông, tập II, Nxb ĐH&THCN, 1989,tr 261). Theo Từ điển Larouse của Pháp, câu phủ định chỉ khác câu khẳng định ở chỗ có sự tồn tại của từ phủ định. Có nhiều loại câu phủ định. Có câu phủ định toàn bộ và câu phủ định bộ phận, có câu phủ định chung và câu phủ định riêng. Câu phủ định toàn bộ “là những câu mà sự phủ định tác động vào vị ngữ hoặc vào thành phần chính biểu hiện vị ngữ” (Sách ngữ pháp tiếng Nga của Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô (cũ) (RG 198)). Câu sau đây là câu phủ định toàn bộ: VD1: Tiếng Việt: Anh ấy không làm việc Tiếng Anh: He doesn’t work Câu phủ định bộ phận được phân biệt với câu phủ định toàn bộ ở chỗ nó chỉ phủ định một thành phần của câu. Câu Anh ấy không nói tiếng Anh là câu phủ định toàn bộ, còn câu Anh ấy nói tiếng Anh không hay là phủ định bộ phận vì từ không chỉ tác động vào trạng từ hay – một thành phần phụ của câu. Người ta nói đến câu phủ định chung khi sự phủ định được thực hiện với mọi yếu tố, mọi người, còn câu phủ định miêu tả một hoặc một số phần tử của một tập hợp không có một thuộc tính nào đó được gọi là câu phủ định riêng. Các ví dụ sau sẽ minh hoạ cho hai kiểu câu này: VD2: Câu phủ định chung: Tất cả các bạn của tôi đều không đến đó Câu phủ định riêng: Một số người bạn của tôi không đến đó Trên đây chỉ là một vài nét rất khái quát về sự phủ định và câu phủ đinh. Tiếp theo, tôi xin nói đến một số phương thức nổi bật được dùng để thể hiện hành vi phủ định trong tiếng Việt. II. CÁC PHƯƠNG THỨC BIỂU HIỆN SỰ PHỦ ĐỊNH TRONG TIẾNG VIỆT Khi quan sát hay tư duy về các sự vật, hiện tượng, người ta thường đưa những lời nhận xét, phán đoán về các thuộc tính của chúng. Chẳng hạn khi quan sát các căn phòng, người ta nói: Căn phòng này rộng, Căn phòng kia hẹp. Các phán đoán này được biểu hiện bằng câu khẳng định. Người ta cũng có thể dùng câu phủ định: Căn phòng kia không rộng để thể hiện phán đoán Căn phòng kia hẹp. Như vậy, có loại câu phủ định dùng để miêu tả. Bên cạnh đó, câu phủ định còn được dùng để đối đáp, bác bỏ ý kiến. VD3: - Tớ vừa thấy cậu đi với một cô gái - Tớ đâu có đi với ai Câu trả lời là một HVPĐ bác bỏ được thực hiện bằng câu phủ định. Nói cách khác, bằng cách dùng câu miêu tả hay câu đối đáp, bác bỏ, chất vấn, người ta có thể thực hiện được HVPĐ. 1. Dùng từ kèm phủ định như không, chẳng, chả, chưa trong câu để thực hiện HVPĐ Các từ này được dùng trong câu phủ định miêu tả, chẳng hạn như: VD4: Cuộc đời cố nhiên là chẳng có gì vui, nhưng cũng không buồn lắm (Truyện Người hàng xóm, Nam Cao) Tác giả đưa lời nhận định về sự vui – buồn của cuộc đời bằng một câu phủ định. Để có được câu phủ định này, phải kể đến vai trò của hai từ chẳng và không. Câu trên có thể chỉ cần dùng một từ không cho cả hai lần cũng đủ diễn đạt ý phủ định, nhưng có thêm từ chẳng thì dường như câu văn nghe cân đối, nhịp nhàng hơn. Hay như trong câu nói Tao chả biết, HVPĐ được thể hiện bằng một sắc thái khác với trong câu Tao không biết. Đó là sắc thái thân mât, thậm chí có cả sắc thái bỗ bã nữa trong từ chả, khác với sắc thái trung tính trong từ không. Vậy là các từ kèm phủ định, tuy là thực hiện một chức năng như nhau nhưng vẫn có những nét riếng biệt của chúng. Nhờ thế mà người nói , khi thực hiện HVPĐ, có thể lựa chọn để phát ngôn của mình có tính biểu cảm hơn. Không, chẳng, chả, chưa còn được dùng trong câu phủ định đối đáp, bác bỏ: VD5: - Ở làng có việc gì lạ không? - Chả có việc gì lạ sất … (Trở về, Thạch Lam, Gió đầu mùa) VD6: - Thế thì ta đợi anh ấy một lát - Không đợi. Nó bảo: chúng mình đi trước (Cái mặt không chơi được, Nam Cao) Để thực hiện câu bác bỏ, trong tiếng Việt còn có những phương thức đặc biệt khác 2. Phương thức dùng các từ phiếm định ai, nào, sao, gì, đâu và phương thức dùng từ mà VD7: - Ai bảo mày gạ gẫm tao? - Ai ạ gẫm nhà anh? Có anh quyến rũ tôi thì có (Lang Rận, Nam Cao) Không cần đến từ không, HVPĐ vẫn được thực hiện rõ ràng. Đó là nhờ đến vai trò của từ phiếm chỉ ai. Không chỉ được dùng để biểu hiện HVPĐ, ai dường như còn làm cho sắc thái phủ định có nét khác so với khi dùng từ không trong câu Tôi không gạ gẫm nhà anh. Câu trả lời Tôi không gạ gẫm nhà anh có vẻ như nghiêm túc, đứng đắn hơn câu trả lời của mụ Lợi đối với Lang Rận, một câu bác bỏ có vể như rất phù hợp với “chất” của câu mà Lang Rận nói. VD8: A hỏi B: Nghe nói mày yêu cái Vân hả? B có thể có những câu trả lời sau: - Làm gì có chuyện ấy - Tao có yêu nó đâu - Tao yêu nó thế nào được - Không, tao không yêu nó Như vậy, chỉ với một ý cốt lõi là Tao không yêu nó mà tiếng Việt có rất nhiều cách diễn đạt khác nhau. Sự phong phú của phương tiện biểu hiện đã tạo nên sự đa dạng trong mức độ phủ định. Rõ ràng là ta có thể thấy Tao có yêu nó đâu! khác hẳn Tao yêu nó thế nào được! ở mức độ phủ định. Trong câu trước, sự bác bỏ không quyết liệt bằng ở câu sau và câu sau dường như lại kém mạnh mẽ hơn câu Làm gì có chuyện ấy! Trường hợp dưới đây lại là trường hợp dùng từ mà để diễn đạt ý phủ định bác bỏ: VD9: - Cái Linh trông cũng xinh đấy chứ! - Nó mà xinh! Ý bác bỏ thể hiện rất rõ ràng ở câu trả lời trên mà không cần đến sự có mặt của các từ kèm phủ định. Đây là một hiện tượng rất thú vị của tiếng VIệt mà các ngôn ngữ khác không có. 3. Phương thức trả lời dưới dạng câu nghi vấn Một điều tưởng như nghịch lý: trả lời cho câu hỏi bằng chính một câu hỏi, vẫn tồn tại trong thực tế sử dụng ngôn ngữ. Câu nghi vấn dùng để trả lời đó có thể gián tiếp thực hiện được các hành vi ngôn ngữ, trong đó có HVPĐ. Trong trường hợp này, câu trả lời có hình thức là một câu nghi vấn, còn nội dung của nó là sự không công nhận điều được nêu trong câu hỏi là đúng, là có một cách gián tiếp. Sau đây là các cách thực hiện HVPĐ thông qua câu trả lời có hình thức câu nghi vấn: 3.1. Phủ định bằng hành vi phản ứng câu hỏi Trước một câu hỏi mà mình cho là không hợp lý, người nghe sẽ phản ứng lại và qua đó gián tiếp thực hiện HVPĐ. VD10: - Mày có nhận lời anh ấy không? - Sao mày hỏi buồn cười thế? Cô gái cho rằng việc nhận lời mời của một anh bạn là chuyện đáng buồn cười nên đã phản ứng lại câu hỏi đó và gián tiếp phủ định việc cô sẽ nhận lời. 3.2. Phủ định bằng hành vi nêu lý do của sự phủ định VD11: - Thế lại đi buôn à? - Vốn đâu mà đi buôn? (Một bữa no, Nam Cao) Đứa cháu gái đi ở hỏi bà nó có đi buôn chút gì để kiếm tiền không. Bà lão không phủ định trực tiếp là Tao không đi buôn mà lại nêu lí do của việc bà không đi buôn được, đó là vì bà không có vốn. Như vậy HVPĐ đã được thực hiện một cách gián tiếp. 3.3. Phủ định bằng hành vi hỏi về một yếu tố thuộc hệ quả của điều kiện nêu trong câu hỏi VD12: - Lan ngủ rồi hả con? - Mẹ bảo gì ạ? Câu hỏi giả định một hành động (ngủ) đã xảy ra ở người được hỏi. Câu trả lời dưới dạng nghi vấn hỏi luôn về sự việc sẽ xảy ra tiếp theo, chứng tỏ luôn rằng điều mà người hỏi giả định là không đúng. Bằng cách này, người ta cũng có thể thực hiện được HVPĐ 3.4. Phủ định bằng hành vi chối cãi VD13: Mẫn tò mò: - Nhưng yêu em sao mày lại “xù” Chuyên giật mình: - Tao “xù” gì đâu? (Phòng trọ ba người, Nguyễn Nhật Ánh) Người đọc có thể nhận ra rằng Chuyên đã gián tiếp phủ định điều nêu trong câu hỏi của Mẫn bằng hành vi chối cãi. Có lẽ nhờ thế mà sự phủ định diễn đạt được hiệu quả cao hơn. III. KẾT LUẬN Như vậy HVPĐ có thể được thực hiện gián tiếp dưới dạng câu nghi vấn. Đây là một phương thức thường thấy trong các hội thoại bởi tính linh hoạt và biểu cảm của nó. Trên đây là một số phương thức tiêu biểu thể hiện HVPĐ trong tiếng Việt. Từ những quan sát đó chúng ta có thể thấy được sự phong phú trong cách diễn dạt HVPĐ. Người ta dùng từ kèm phủ định hoặc có thể dùng các từ phiếm định. Người ta còn có thể gián tiếp thực hiện HVPĐ thông qua các câu trả lời dưới dạng câu nghi vấn, câu cảm thán, ngữ điệu … Những phương thức ấy đã làm giàu chó sự thể hiện HVPĐ, khiến cho nó sinh động hơn, biểu cảm hơn và do đó cũng hiệu quả hơn. Như thế, người sử dụng ngôn ngữ, khi thực hiện HVPĐ, nếu biết lựa chọn các phương thức diễn đạt trên sao cho phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp thì sẽ làm dồi dào thêm lời ăn tiếng nói của bản thân mình. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docMột vài vấn đề về phương thức biểu hiện hành vi phủ định trong tiếng Việt.doc
Tài liệu liên quan