Một số vấn đề xã hội bức thiết đối với thiết chế hôn nhân và gia đình Việt Nam hiện nay

Có thể thấy những điều khoản nêu trong các chương của Luật Hôn nhân và Gia đình 2000 đã phản ánh và bao quát các khía cạnh cơ bản của quan hệ hôn nhân – gia đình Việt Nam. Sự ra đời và hoàn thiện hệ thống văn bản luật pháp liên quan đến thiết chế hôn nhân và gia đình thời gian qua đã góp phần thiết lập các vai trò, trách nhiệm và quyền hạn của cá nhân cũng như của các tổ chức, cơ quan chức năng thực thi pháp luật, từ đó góp phần vào việc nâng cao tiến bộ trong quan hệ hôn nhân và cải thiện bình đẳng các quan hệ trong đời sống gia đình nước ta.

pdf11 trang | Chia sẻ: truongthinh92 | Lượt xem: 1676 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số vấn đề xã hội bức thiết đối với thiết chế hôn nhân và gia đình Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Xã hội học số 2 (118), 2012 Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn 89 MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI BỨC THIẾT ĐỐI VỚI THIẾT CHẾ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM HIỆN NAY NGUYỄN ĐỨC CHIỆN 1. Đặt vấn đề Nhiều học giả trên thế giới nhận định rằng thiết chế hôn nhân và gia đình đã và đang có nhiều biến đổi trên phạm vi toàn thế giới do tác động của quá trình hiện đại hóa và toàn cầu hóa (Goode, 1963; Therborn, 2004). Tại Việt Nam, công cuộc Đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng hơn hai thập kỷ qua đã và đang tác động mạnh mẽ đến hệ thống thiết chế xã hội, trong đó có thiết chế hôn nhân và gia đình. Những biến đổi mạnh mẽ trong đời sống gia đình Việt Nam đã buộc loại hình thiết chế này thay đổi, hoàn thiện nhằm phù hợp với thực tiễn xã hội. Bằng chứng về sự thay đổi này là hàng loạt văn bản chính thức (Luật, Nghị định) ở nhiều cấp độ khác nhau liên quan đến thiết chế hôn nhân và gia đình được ra đời hoặc hoàn thiện hơn trong thời gian qua nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội. Có thể nói, sự ra đời và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến hôn nhân và gia đình thời gian qua góp phần thiết lập các vai trò, trách nhiệm và quyền hạn của công dân cũng như cơ quan chức năng, từ đó góp phần vào việc nâng cao tiến bộ trong quan hệ hôn nhân và cải thiện bình đẳng trong các quan hệ gia đình ở nước ta. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại nhiều điểm chưa phù hợp, bất cập so với thực tế xã hội; hơn nữa, sự vận hành của thiết chế đôi khi kém hiệu lực, chưa phát huy tác dụng các điều luật. Điều này dẫn đến hiệu lực của thiết chế không cao, tác động xấu đến các quan hệ trong hôn nhân và gia đình; hơn thế nó có ảnh hưởng không nhỏ đến mục tiêu hiện đại hóa và phát triển xã hội Việt Nam tương lai. Việc nghiên cứu thiết chế hôn nhân và gia đình Việt Nam, tìm hiểu điểm phù hợp, bất cập của thiết chế này sẽ có ý nghĩa quan trọng trong việc đề xuất các giải pháp can thiệp nhằm hoàn thiện và phát huy thiết chế hôn nhân và gia đình Việt Nam giai đoạn tiếp theo. Dựa vào nguồn tài liệu nghiên cứu về biến đổi hôn nhân và gia đình Việt Nam những năm gần đây, báo chí, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, bài viết này cố gắng làm rõ tính hợp lý, bất cập của thiết chế hôn nhân và gia đình. Qua đó đề xuất giải pháp hoàn thiện và phát huy hiệu quả thiết chế hôn nhân và gia đình nước ta giai đoạn sắp tới. Ngoài phần đặt vấn đề, nội dung bài viết gồm có ba phần chính. Phần thứ nhất làm rõ khái niệm thiết chế hôn nhân và gia đình; phần thứ hai đề cập đến những vấn đề của thiết chế hôn nhân và gia đình Việt Nam mười năm gần đây; phần cuối cùng nhận xét về thiết chế hôn nhân và gia đình Việt Nam hiện nay và giai đoạn sắp tới. 2. Khái niệm thiết chế hôn nhân và gia đình Marshall cho rằng thiết chế xã hội nói tới những khía cạnh được củng cố vững chắc, được chính thức hóa hay đã trở thành tập quán của xã hội. Theo một nghĩa nào đó,  TS, Viện Xã hội học - Viện Khoa học xã hội Việt Nam Xã hội học số 2 (118), 2012 Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn 90 thiết chế có thể được xem như một loại "siêu tập quán", một tập hợp các tập tục, cung cách nhóm và khuôn mẫu hành vi liên quan đến những mối quan tâm xã hội (Marshall, G.1998: 317-318). Thiết chế là một hệ thống các quan hệ ổn định biểu hiện sự thống nhất được xã hội công khai thừa nhận nhằm mục đích thoả mãn các nhu cầu cơ bản của xã hội (Cohan, B và OrBuch, T 1995: 110-111). Như vậy, quan niệm của Marshall, Cohen, Orbuch cho thấy rõ thiết chế xã hội là những khía cạnh được củng cố vững chắc hay hệ thống quan hệ ổn định, nó có thể được chính thức hóa thành văn bản, luật pháp hoặc biểu hiện dưới dạng tập quán, tập tục. Nó được tạo ra nhằm thoả mãn nhu cầu và mối quan tâm của xã hội, có thể là của nhóm riêng. Thiết chế hôn nhân và gia đình với tính cách là một loại hình thiết chế xã hội cơ bản. Nó bao gồm hệ thống các quy định, chuẩn mực, giá trị xã hội về hành vi con người. Nó được chính thức hóa bằng văn bản pháp luật hay trở thành phong tục, tập quán của xã hội. Nó tồn tại nhằm thoả mãn nhu cầu của con người. Thiết chế hôn nhân và gia đình có một số chức năng cơ bản như điều hòa quan hệ xã hội, kiểm soát quan hệ xã hội và xác lập các vai trò của các cá nhân trong xã hội. Trong các phân tích dưới đây, chúng tôi nhấn mạnh các khía cạnh sự vận hành, chức năng kiểm soát của thiết chế hôn nhân và gia đình Việt Nam hiện nay. 3. Một số vấn đề xã hội đặt ra đối với thiết chế hôn nhân và gia đình Việt Nam hiện nay Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam năm 2000 do Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa 10, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 09 tháng 6 năm 2000 (Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam năm 2000). Luật này được hoàn thiện trên cơ sở kế thừa và phát triển pháp luật về Hôn nhân và Gia đình Việt Nam; Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992. Luật có 13 chương và 110 điều. Nhìn chung, những chương, điều khoản trong Luật bao phủ mọi mặt liên quan đến các khía cạnh khác nhau của hôn nhân và gia đình nước ta hiện nay; nội dung các điều luật phù hợp thực tiễn xã hội. Tuy nhiên, đối chiếu thực tế hôn nhân - gia đình đang diễn ra cho thấy một số điều khoản, nội dung của luật chưa phù hợp, nhiều hiện tượng xã hội mới liên quan đến hôn nhân và gia đình xuất hiện nhưng chưa có trong điều luật; hơn nữa, nhiều điều luật đưa ra chưa thực hiện được hay nói cách khác hoạt động chưa hiệu quả do những rào cản xã hội. Phần này, đề cập và phân tích một số nội dung, điều luật chưa phù hợp hoặc chưa thực hiện được. 3.1. Vấn đề hôn nhân a. Kết hôn với người nước ngoài Điều 103 chương XI có ghi “việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, mỗi bên phải tuân theo pháp luật của nước mình về điều kiện kết hôn; nếu việc kết hôn được tiến hành tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam thì người nước ngoài còn phải tuân theo các quy định của luật này về điều kiện kết hôn. Việc kết hôn giữa những người nước ngoài với nhau tại Việt Nam trước cơ quan có thẩm quyền của Xã hội học số 2 (118), 2012 Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn 91 Việt Nam phải tuân theo các quy định của luật này về điều kiện kết hôn. Nghiêm cấm lợi dụng việc kết hôn có yếu tố nước ngoài để buôn bán phụ nữ, xâm phạm tình dục đối với phụ nữ hoặc vì mục đích trục lợi khác” (Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000: 29). Phong tục kết hôn của ta cũng thường được thực hiện tuần tự theo các bước sau đây: con cái tìm người yêu; xin ý kiến bố mẹ; nếu bố mẹ đồng ý thì cưới rồi sau đó mới trở thành vợ chồng. Thực tế, tình trạng hôn nhân có yếu tố nước ngoài ở nước ta gia tăng đột biến trong những năm gần đây. Thống kê từ nhiều nguồn cho thấy xu hướng chủ yếu là việc các cô dâu Việt Nam kết hôn với nam giới mang quốc tịch các quốc gia khác, đặc biệt là các nước Đông Á: Trung Quốc, Hàn Quốc và Đài Loan. Theo số liệu thống kê công bố gần đây của Bộ Tư Pháp Việt Nam, chỉ trong khoảng 10 năm (từ 1995 -2007) số lượng cô dâu Việt Nam lấy chồng nước ngoài đã lên tới trên 100.000 người. Số liệu từ một số tổ chức nước ngoài, chẳng hạn theo số liệu do Cục Chính sách và Gia đình Hàn Quốc, hiện nay có tới 16.217 cô dâu Việt đang sinh sống trên đất Hàn. Trong số đó, cho tới nay chỉ có 1.361 cô dâu đã chuyển đổi quốc tịch (chiếm vẻn vẹn 8,4%). Số còn lại chưa được chuyển đổi quốc tịch (Trịnh Thị Kim Ngọc, 2009: 194). Nhiều lý do, trong số đó có việc các chú rể Hàn Quốc không muốn cho vợ nhập quốc tịch vì sợ rằng chị ấy bỏ trốn. Hôn nhân với người nước ngoài không thể không nhắc đến tình trạng hôn nhân không đăng ký, hoặc ép buộc, mua bán. Một nguồn số liệu cho biết “nhiều cuộc hôn nhân bất hợp pháp: hôn nhân không đăng ký: gần 78,6% chị em kết hôn với người Trung Quốc là tự nguyện song cũng do hoàn cảnh buộc phải thực hiện, số còn lại (trên 21,4%) là các chị em bị dụ dỗ, lừa gạt hoặc cưỡng ép. Thực chất đây là nạn nhân của việc buôn bán phụ nữ và trẻ em vị thành niên qua biên giới của một số cá nhân, tổ chức, núp dưới bóng hoạt động kinh doanh. Hầu hết chị em do hôn nhân không đăng ký nên các chị em đều thuộc diện cư trú bất hợp pháp (Trịnh Thị Kim Ngọc, 2009: 198). Tình trạng môi giới hôn nhân diễn ra công khai ở một số địa phương. Khu vực chung cư Bình Thới, phường 8, quận 11 là địa điểm môi giới hôn nhân diễn ra nhộn nhịp nhất của thành phố Hồ Chí Minh mà người dân địa phương gọi là “chợ vợ”. Dư luận, báo chí Việt Nam cũng đã đăng tải nhiều bài viết tỏ rõ sự bất bình vì cách tuyển chọn các cô gái theo kiểu lựa chọn, mua bán hàng hóa ở chợ. Có nhiều cô chỉ sau một vài lần tiếp xúc với các chú rể Đài Loan, Hàn Quốc là được “chấm”, nhưng cũng có cô phải ở nhà trọ 3-4 tháng và phải qua nhiều lần tiếp xúc với nhiều đoàn từ Đài Loan, Hàn Quốc sang (Trần Mạnh Cát và Đỗ Thị Bình, 2009: 223-224). Vấn đề gây nhiều bức xúc hiện nay là tình trạng hỗn loạn trong môi giới hôn nhân. Vì lợi nhuận, những công ty môi giới và những người làm môi giới không tuân theo pháp luật, bất chấp đạo lý, vi phạm thuần phong mỹ tục, chà đạp lên nhân phẩm người phụ nữ . Một vấn đề nổi lên có liên quan đến hôn nhân với người nước ngoài hiện nay là sự chênh lệch tuổi tác, tình trạng hôn nhân, trình độ văn hóa và bất đồng ngôn ngữ giữa chú rể và cô dâu. Dẫn theo một nguồn tài liệu “Chênh lệch lớn về lứa tuổi và sức khoẻ giữa các đối tượng tham gia hôn nhân: cô dâu lấy chồng Hàn Quốc (cũng như Đài Loan) là Xã hội học số 2 (118), 2012 Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn 92 tuổi đời còn rất trẻ, chủ yếu trong độ tuổi 18-25. Trong khi đó, các chú rể lấy vợ Việt Nam chủ yếu nằm trong khoảng tuổi 31-50, thậm chí có trường hợp lên tới 60-70. Sự chênh lệch tuổi tác và sức khoẻ này sẽ có ảnh hưởng rất lớn tới cuộc sống vợ chồng và hạnh phúc gia đình. Sự khác biệt về trình độ văn hóa phổ thông, ngoại ngữ: 21,5% cô dâu hoàn toàn không biết ngôn ngữ của chồng; 69,9% biết ở mức giao tiếp tối thiểu; và gần 100% chú rể không biết tiếng Việt. Những hiểu biết phong tục tập quán, pháp luật của nước bên kia càng ít ỏi, phần lớn cô dâu không nắm được những quy định pháp luật cơ bản nhất về hôn nhân gia đình của nước đó (Trịnh Thị Kim Ngọc, 2009: 199). Về tình trạng hôn nhân: Tỷ lệ nam giới Đài Loan, Hàn Quốc đã từng lập gia đình nay sang Việt Nam tìm vợ cao hơn hẳn tỷ lệ nữ giới Việt Nam đã từng lập gia đình tham gia vào các cuộc hôn nhân Việt - Đài, Việt - Hàn, khá nhiều nam giới đã có con riêng. Có thể khẳng định rằng sự chênh lệch tuổi tác, khác biệt ngôn ngữ văn hóa, tình trạng hôn nhân và có con riêng của người chồng đang là một thách thức đối với phụ nữ Việt Nam trong các cuộc hôn nhân với người nước ngoài. Thực tế trên cho thấy hôn nhân nước ngoài theo kiểu này ở nước ta đang ngầm báo một tương lai không sáng sủa với nhưng hậu quả đáng ngại trong giai đoạn tới, khi số phận các cô dâu Việt Nam không được hứa hẹn một cuộc sống hạnh phúc, những thế hệ con lai không được đảm bảo những nhu cầu tối thiểu như học hành hoặc tiếp cận các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe ở quốc gia cư trú. Thực tế văn bản pháp luật của Việt Nam về hôn nhân có yếu tố nước ngoài đã tạo cơ sở pháp lý tương đối đầy đủ và thuận lợi cho việc kết hôn với người nước ngoài. Tuy nhiên, thực tế tồn tại những hình thức tiêu cực trong hôn nhân, theo chúng tôi là do thiết chế hôn nhân và gia đình chưa được thực thi. Cụ thể là chức năng kiểm soát của thiết chế chính thức chưa làm tốt chức năng. Bên cạnh đó cũng phải nhắc đến pháp lý của ta còn nhiều kẽ hở, sự thiếu hiểu biết về pháp luật của các bên tham gia hôn nhân. Các hình thức kiểm soát phi chính thức như gia đình, cộng đồng, hệ thống đạo đức xã hội, dư luận xã hội ... chưa thực sự có hiệu quả trong việc điều chỉnh và ngăn chặn hành vi lệch chuẩn của các cá nhân. Đây có thể xem là nguyên nhân dẫn đến hiện tượng tiêu cực nảy sinh, tạo ra nhiều vấn đề xã hội bức xúc với những hậu quả đáng lo ngại. Trong thời gian tới chúng ta tiếp tục cần phải điều chỉnh, hoàn thiện khung pháp luật, bảo vệ quyền lợi cho những cô dâu Việt Nam. Mặt khác, kiểm soát chính thức và phi chính thức phải phát huy chức năng, cần phải quản lý tốt hơn các trường hợp hôn nhân có yếu tố nước ngoài cũng như thành lập, mở rộng các dịch vụ, tư vấn hôn nhân không chỉ ở các thành phố lớn mà ở ngay tại các vùng quê – nơi xuất phát của nguồn hôn nhân với người nước ngoài. b. Sống chung trước hôn nhân Điều 11 chương II có ghi “Nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng thì không được pháp luật công nhận”(Luật Hôn nhân và Gia đình 2000:5). Về góc độ văn hóa xã hội, sống chung trước hôn nhân là điều cấm kỵ và được xem là trái với đạo lý gia đình và cộng đồng người Việt, điều cấm kỵ này được thực hiện nghiêm túc trong các xã hội trước đây. Nếu một ai đó sống chung trước hôn nhân sẽ bị Xã hội học số 2 (118), 2012 Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn 93 xã hội tẩy chay, mọi người xung quanh đàm tiếu, dư luận xã hội lên án. Sự chuyển đổi kinh tế, xã hội trong những năm qua dẫn đến trào lưu sống chung trước hôn nhân xuất hiện và đang gia tăng trong giới trẻ tại các thành phố lớn ở Việt Nam. Bằng chứng về thực tế này là tiêu đề “sống chung trước hôn nhân” hay “sống thử” trong giới sinh viên và công nhân trong các khu nhà trọ tại các thành phố lớn xuất hiện ngày càng nhiều trên các trang báo viết và báo điện tử. Nhiều bài viết đã mô tả hiện tượng này với từ ngữ khá đặc biệt “nạn dịch”, “mốt”, hay tình yêu thế hệ @. Điều đáng quan tâm là thông tin công bố trên báo chí cho rằng số cặp nam, nữ thanh niên, công nhân trẻ, sinh viên tham gia sống chung trước hôn nhân ngày càng gia tăng. Chẳng hạn, có bài viết cho rằng “Những năm gần đây, nam nữ sinh viên chung sống đang trở thành một nạn dịch mà việc ngăn chặn nó đến thời điểm này vẫn coi như không có gì. Ở các thành phố lớn như Hà Nội, Huế, Đà Nẵng, và thành phố Hồ Chí Minh, sống thử trước kết hôn phổ biến trong nhóm sinh viên ngoại trú ở các nhóm ngành của các trường cao đẳng và đại học. “Sống thử” còn lan sang cả giới “gõ đầu học sinh” ( 23/4/2006). Hoặc bài viết trên báo mạng của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam “Đã qua rồi cái thời ngại ngùng và giấu diếm, sinh viên ngày nay sống thử công khai, nhiều đôi còn tự hào vì hạnh phúc của mình trong cái nhìn thiếu thiện cảm của bạn bè và những người xung quanh. Dư luận xã hội, sự đàm tiếu của người khác không còn làm những người trong cuộc ngượng ngừng hay hoang mang” ( 23/4/2006). Thực tế này cũng được kiểm chứng từ các cuộc khảo sát gần đây, ví dụ như công trình “Vấn đề sống chung sống thử trước hôn nhân của nam nữ công nhân ở các khu công nghiệp, khu chế xuất tại thành phố Hồ Chí Minh” do Khoa Xã hội học, Trường Đại học Bán công Tôn Đức Thắng thực hiện. Công trình nghiên cứu “Vì sao lựa chọn giải pháp sống chung” do Khoa xã hội học, Đại học Mở bán công thực hiện. Công trình nghiên cứu “Hiện tượng chung sống trước hôn nhân của công nhân trẻ tại thành phồ Hồ Chí Minh” của Lưu Phương Thảo, và “Sống chung trước hôn nhân của nam, nữ sinh viên hiện nay” của Nguyễn Đức Chiện, v.v... Điều đáng nói là các công trình nghiên cứu này không chỉ cung cấp những số liệu thực tế về tình hình sống chung trước hôn nhân của giới trẻ đang sống học tập và làm việc ở thành phố mà còn lý giải các nguyên nhân xã hội dẫn đến xuất hiện và gia tăng sống chung trước hôn nhân. Như vậy, những thông tin trên báo chí và bằng chứng khảo sát thực nghiệm cho thấy vấn đề sống thử, sống chung trước hôn nhân đang tồn tại khá phổ biến trong giới trẻ tại các thành phố lớn ở nước ta hiện nay. Mặc dù về mặt pháp lý, đạo đức, văn hoá tập quán xã hội, chúng ta không thừa nhận cá nhân lựa chọn kiểu sống này. Tuy nhiên, hình thức sống chung trước hôn nhân vẫn tồn tại và xu hướng có thể gia tăng nhanh trong những năm tới trong bối cảnh Việt Nam đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập sâu rộng ra thế giới bên ngoài. Đây là vấn đề xã hội cần sớm quan tâm vì sống chung có thể để lại nhiều hậu quả xã hội phá vỡ trình tự, chu trình sống gia đình, tình dục và sức khoẻ sinh sản, có thai ngoài ý muốn, v.v...Đứng về mặt thiết chế chúng tôi cho rằng kiểm soát thiết chế chính thức chưa phát huy vai trò, trong khi kiểm soát phi chính Xã hội học số 2 (118), 2012 Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn 94 thức trong xã hội về vấn đề này đang ngày càng yếu dần. 3.2. Vấn đề gia đình a. Bạo lực gia đình Điêu 34 chương IV có ghi: “Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền thương yêu, trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con; tôn trọng ý kiến của con; chăm lo việc học tập và giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội. Cha mẹ không được phân biệt đối xử giữa các con, ngược đãi, hành hạ, xúc phạm con, không được lạm dụng sức lao động của con chưa thành niên; không được xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội (Luật Hôn nhân và Gia đình 2000:25). Thực tế, bạo lực gia đình đối với trẻ em vẫn là hiện tượng diễn ra khá phổ biến ở Việt Nam trong những năm qua. Bằng chứng về tình trạng này được công bố thường xuyên trên các phương tiện truyền thông đại chúng và các báo cáo nghiên cứu khoa học gần đây. Điều tra quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt Nam (SAVY1-2003) cho thấy 2,2% thanh thiếu niên nói rằng đã từng bị người trong gia đình đánh gây thương tích, tỷ lệ này cao gấp đôi ở nhóm nam thành thị 14-17 tuổi. Có sự khác biệt về giới trong vấn nạn bạo hành tại gia đình: với 1,5% nữ là nạn nhân của bạo hành gia đình so với 2,9% nam (Bộ Y tế và các cơ quan khác, 2005:70). Nghiên cứu về bạo lực gia đình tại 6 tỉnh, thành phố trên cả nước do Trung tâm Nghiên cứu Giới, Gia đình và môi trường trong phát triển phối hợp với Uỷ ban các vấn đề xã hội của Quốc hội thực hiện năm 2006, với câu hỏi quan điểm của người dân về giáo dục con cái, thì có 12,2% số người được hỏi đồng ý với chuyện sử dụng đòn roi trong giáo dục con cái, 34,4% cho rằng “Tuỳ mức độ mà có thể đánh đòn”. Cha mẹ đánh đòn con không phải là chuyện hiếm, như ở một huyện của Đồng Tháp có trường hợp người cha đem con dìm xuống dòng kênh “Mày nín đi, còn khóc tao dìm nữa". Có người cha đánh con, con chạy thì cầm cây cung bắn tên sắt vào chân con mình. Kết quả cuộc khảo sát 1.449 trẻ em và người thân (cha mẹ, ông bà) tại Thanh Trì và Thượng Đình (Hà Nội) cho thấy: 44,72% trẻ em từ 1 đến 15 tuổi và 78, 23% trẻ em từ 6-15 tuổi bị cha mẹ sử dụng hình phạt thân thể. Hình phạt về tinh thần: chửi 27,89% gặp nhiều hơn ở nhóm trẻ từ 11 đến 15 tuổi; hạ nhục 6,8%, các hành vi thô bạo khác 8,84%. Trẻ em trong gia đình có từ 2 con trở lên bị phạt tinh thần và thân thể nhiều hơn hẳn nhóm trẻ khác. Nghiên cứu của Tổ chức Cứu trợ trẻ em Thuỵ Điển thực hiện tại 4 tỉnh Vĩnh Phúc, Quảng Ngãi, Gia Lai và Tiền Giang với sự tham gia của 514 trẻ em (6-18 tuổi) và 571 người lớn cho thấy: 30,7% người lớn đánh đón trẻ em ngay khi trẻ mắc lỗi. Người lớn thường dùng đồ vật đánh trẻ: roi, gậy 46,1%; véo tai, mũi, giật tóc 30,2%; vớ được cái gì dùng cái đó 32,7%. Nghiên cứu gần đây của UNICEP và Tổng cục Thống kê khi thực hiện giám sát thực trạng trẻ em và phụ nữ Việt Nam, cho thấy, 93,3% trẻ em tuổi từ 2-14 đã bị người mẹ/chăm sóc hoặc các thành viên khác trong hộ gia đình xử phạt về tâm lý (quát mắng, cấm đoán, bắt buộc) hoặc xử phạt bằng roi vọt; trong đó 9,4% trẻ em đã bị phạt nặng bằng roi vọt. Trẻ em trai bị xử phạt bằng roi cả nhẹ và nặng đều cao hơn so với trẻ em gái (94,7% và 11,6% so với 91,6% và 6,6%) (Hoàng Bá Thịnh, Xã hội học số 2 (118), 2012 Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn 95 2009: 526). Theo báo cáo của Ban chỉ đạo phòng chống tai nạn thương tích trẻ em thành phố Hồ Chí Minh, trong hai năm (từ 1-10-2005 đến 1-10-2007 đã có 1200 trẻ em ở thành phố này bị thương tích do bạo lực trong gia đình và xã hội phải nhập viện. Gần đây qua các phương tiện truyền thông đại chúng, dư luận xã hội bất bình và công phẫn với một số trường hợp bạo lực với trẻ em được xem là “điển hình”, ví dụ: em Nguyễn Thị Bình bị vợ chồng chủ quán phở trên đường Nguyễn Trãi, quận Thanh Xuân, Hà Nội đánh đập hơn 10 năm. Em Hồ Thị Bông (9 tuổi), thành phố Hồ Chí Minh bị mẹ nuôi bắt đi ăn xin. Do không kiếm đủ số tiền như quy định, Bông bị bà mẹ này đổ nước sôi lên người làm phỏng nặng (Tuổi trẻ online, thứ tư, 11/6/2008, 10:30 GMT+7). Có thể nói thông tin công bố trên báo chí và kết quả nghiên cứu gần đây là những bằng chứng xác thực về tình trạng bạo lực gia đình, đặc biệt là bạo lực đối với trẻ em đang diễn ra trong xã hội cho dù Việt Nam đã và đang thực thi nhiều văn bản luật, công ước liên quan đến chăm sóc, bảo vệ trẻ em. Tại sao thực tế xã hội vẫn tồn tại vấn đề này? Chúng tôi cho rằng chức năng kiểm soát của thiết chế (bao gồm cả kiểm soát chính thức và phi chính thức) chưa thực hiện tốt vai trò. Kiểm soát chính thức ở đây là hệ thống giám sát của các cơ quan chức năng như chính quyền địa phương, công an, tòa án, ... xử lý hành vi bạo lực gia đình, bạo lực trẻ em chưa nghiêm, hình phạt chưa mạnh để ngăn chặn hành vi bạo lực của các cá nhân trong xã hội. Kiểm soát phi chính thức ở đây là gia đình, cộng đồng, hệ thống đạo đức xã hội, và dư luận xã hội chưa gây nhiều áp lực phản kháng đối với hành vi bạo lực của cá nhân. Một lý do nữa có liên quan đến hành vi bạo lực phổ biến là trình độ dân trí, hiểu biết của cá nhân về pháp luật, vị trí, vai trò của cá nhân, nhất là quyền và nghĩa vụ của cha mẹ trong việc chăm sóc trẻ em còn nhiều hạn chế do ảnh hưởng của điều kiện kinh tế, văn hóa của nhóm xã hội. b. Phân biệt nam nữ Điều 2, chương I có ghi “Nhà nước và xã hội không thừa nhận sự phân biệt đối xử giữa các con, giữa con trai và con gái, con đẻ và con nuôi, con trong giá thú và con ngoài giá thú”(Luật Hôn nhân và Gia đình 2000:2). Nhiều nghiên cứu khẳng định phân biệt nam, nữ hay giữa con trai và con gái là một đặc trưng đã tồn tại lâu dài trong xã hội Việt Nam. Tác giả Lương Văn Hy, trong công trình nghiên cứu "Cuộc cách mạng ở làng: truyền thống và chuyển đổi ở Bắc Việt Nam, 1925-1988" cho rằng trong gia đình thừa kế phần lớn nghiêng về con trai - những người chịu trách nhiệm thờ cúng tổ tiên và nối dõi; quyền uy nằm trong tay nam giới (Lương Văn Hy, 1992:71). Trong ý thức cộng đồng vẫn còn quan niệm có những việc dành riêng cho phụ nữ và nam giới. Điều đó thể hiện rõ từ việc xã hội hóa giới đối với con cái. Cha mẹ thường có những cách dạy dỗ con trai khác con gái. Trong khi con trai được dạy dỗ hướng tới những phẩm chất “hướng ngoại” có liên quan đến các cơ hội thăng tiến xã hội sau này; thì con gái thường được dạy dỗ các phẩm chất “hướng nội” liên quan nhiều hơn đến việc chuẩn bị các vai trò của người phụ nữ thảo hiền, đảm đang quán xuyến việc nhà. Ngay trong quan niệm chung của người phụ nữ, những kỳ vọng về vai trò của người vợ định hướng mạnh hơn đến mô hình vai trò giới truyền thống. Họ vẫn đánh giá cao vai trò trụ cột kinh tế của người chồng và bằng lòng với vai trò nội trợ. Những phẩm chất đối với Xã hội học số 2 (118), 2012 Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn 96 người phụ nữ như biết nội trợ giỏi, biết nuôi dạy con cái được đánh giá quan trọng hơn so với những đặc điểm như học vấn cao, nghề nghiệp có uy tín và có địa vị trong xã hội (Vũ Tuấn Huy và Carr 2000:48-51). Hiện nay, xã hội ta đã có điều luật nhằm giảm đảm bảo sự bình đẳng cho hai giới nhưng tình trạng phân biệt đối xử giữa các con vẫn tiếp diễn ở nhiều nơi, đặc biệt là ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, phong tục và tập quán pháp (vẫn còn phân biệt đối xử giữa con trai và con gái, con trai trưởng và con trai thứ trong gia đình). Điển hình nhất về sự phân biệt đối xử này là con trai là người được thừa kế tài sản của gia đình như đất đai, nhà cửa cha mẹ để lại, trong khi con gái không được thừa kế tài sản của gia đình. Thực tế này dẫn đến xung đột gia đình do các tranh chấp về quyền lợi, tài sản, nhất là đất đai do cha mẹ để lại giữa con trai và con gái, con trai trưởng và con trai thứ xảy ra nhiều trong thời gian gần đây được đăng tải nhiều trên các báo viết và báo điện tử nước ta. Ví dụ: Vụ án xung đột gia đình tranh chấp đất đai gần đây của các con của ông Trần ở Khánh Hoà để lại nhiều hậu quả xấu đối với gia đình và xã hội (baokhanhhoa.com.vn, 13/10/2009 (GMT+7)). Từ thực tế này cho thấy nhiều người dân khi giải quyết các mối quan hệ trong gia đình vẫn chỉ dùng phương pháp xử lý theo phong tục, tập quán, tình cảm hoặc sự ràng buộc thân tộc, huyết thống mà ít quan tâm đến yếu tố pháp luật. Điều này cho thấy giữa phong tục, tập quán và các điều luật hiện hành hiện nay không thống nhất với nhau, là nguyên nhân dẫn đến rối loạn quan hệ xã hội. Điều 18, chương III của Luật Hôn nhân và Gia đình 2000, có viết “Vợ chồng chung thuỷ, thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững”. Điều 19, chương III cũng ghi rõ “Vợ, chồng bình đẳng với nhau, có nghĩa vụ và quyền ngang nhau về mọi mặt trong gia đình”. Thực tế hiện nay, phụ nữ vẫn phải chịu sự bất bình đẳng so với nam giới, phụ nữ thường có địa vị thấp, họ không có quyền quyết định trong phạm vi gia đình và hơn thế nữa là cả bên ngoài xã hội. Trong một bài viết "Về gia đình truyền thống Việt Nam với ảnh hưởng Nho giáo", nhà nghiên cứu Trần Đình Hượu kết luận rằng: Phụ nữ Việt Nam có địa vị thấp, họ không có quyền quyết định trong gia đình (Trần Đình Hượu, 1991). Dựa vào các bằng chứng khảo sát thực nghiệm, tác giả Khuất Thu Hồng đưa ra nhận xét "Địa vị phụ nữ thấp hơn nhiều còn do ý thức về địa vị của mình là phụ nữ, điều này có lẽ là do ảnh hưởng của giáo dục trong Gia đình, con gái phải thức khuya dậy sớm, biết thu vén đảm đang" (Khuất Thu Hồng, 1996). Con gái thường làm việc nhà nhiều hơn con trai và nam giới là trụ cột kinh tế, là người đem lại thu nhập chính trong gia đình (Đỗ Thị Bình, Lê Ngọc Văn, Nguyễn Linh Khiếu, 2002). Tác giả Vũ Mạnh Lợi trong bài viết "Khác biệt nam nữ trong gia đình nông thôn đồng bằng Bắc Bộ" cũng đưa ra kết luận "Nhiều thế hệ phụ nữ kế tiếp nhau trong hàng chục năm ròng rã đã từng có những đóng góp quan trọng và phần nhiều vào đời sống gia đình, nhưng địa vị của họ trong gia đình chưa được cải thiện so với nam giới tương ứng với những đóng góp đó. Việc giải phóng phụ nữ dường như chỉ dừng lại ở những cái mà cơ chế xã hội mới mang lại như trong lĩnh vực giáo dục, y tế và các quyền luật định khác" (Vũ Mạnh Lợi, 1995). Trong công trình "Xu hướng gia đình ngày nay", dựa trên những kết quả nghiên cứu thực nghiệm xã hội Xã hội học số 2 (118), 2012 Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn 97 học, tác giả Vũ Tuấn Huy cho rằng "nhìn chung thì người chồng là người quyết định hầu hết các công việc quan trọng trong gia đình, trong khi đó các công việc như giữ tiền, mua thức ăn, nấu cơm, rửa bát, giặt giũ, chăm sóc con nhỏ thường do người vợ đảm nhận" (Vũ Tuấn Huy, 2004: 87-92). Trong công trình “Chuẩn bị cho tương lai: Các chiến lược ưu tiên nhằm thúc đẩy bình đẳng giới ở Việt Nam” do Naila Kabeer, Trần Thị Vân Anh và Vũ Mạnh Lợi viết “Người phụ nữ vẫn phải đảm đương quá nhiều công việc trong đó có rất nhiều công việc không được trả lương, họ cũng tham gia tích cực vào nền kinh tế tạo ra thu nhập nhưng không làm cho công việc gia đình và đóng góp của họ trong chăm sóc người thân giảm đi. Thực tế cho thấy rằng sự vận động của người phụ nữ từ nhà đến nơi làm việc không kéo theo sự dịch chuyển của nam giới từ nơi làm việc trở về nhà. Hình ảnh phổ biến hiện nay phụ nữ vẫn là nhân vật xã hội tham gia và quyết định các công việc nội trợ, chăm sóc sức khỏe trong gia đình, cho dù những năm gần đây đã có sự chuyển biến về thời gian làm việc gia đình theo nghĩa phụ nữ làm ít đi và nam giới bắt đầu chia sẻ nhiều hơn các việc trong gia đình" (Knodel và cộng sự, 2004). Có thể nói, dù đề cập đến vấn đề này ở phạm vi nào thì tất cả các nghiên cứu đều có chung nhận định là phụ nữ có địa vị thấp cả trong gia đình và ngoài xã hội. Họ là người tham gia nhiều công việc trong phạm vi gia đình (nội trợ, chăm sóc con cái và thành viên trong gia đình) nam giới là người trụ cột trong gia đình tham gia và nắm quyền quyết định công việc ngoài xã hội. Điều đáng quan tâm là thực tế này cho thấy những điều luật quy định về quan hệ đối xử giữa vợ và chồng, nam và nữ trong gia đình vẫn chưa được thực hiện triệt để do những rào cản văn hóa, xã hội. Nó cũng cho thấy độ vênh giữa các quy định của luật pháp với thực tế xã hội. Quan trọng hơn là thực tế này đang đặt ra nhiều vấn đề xã hội bức thiết cần khắc phục. 4. Nhận xét Có thể thấy những điều khoản nêu trong các chương của Luật Hôn nhân và Gia đình 2000 đã phản ánh và bao quát các khía cạnh cơ bản của quan hệ hôn nhân – gia đình Việt Nam. Sự ra đời và hoàn thiện hệ thống văn bản luật pháp liên quan đến thiết chế hôn nhân và gia đình thời gian qua đã góp phần thiết lập các vai trò, trách nhiệm và quyền hạn của cá nhân cũng như của các tổ chức, cơ quan chức năng thực thi pháp luật, từ đó góp phần vào việc nâng cao tiến bộ trong quan hệ hôn nhân và cải thiện bình đẳng các quan hệ trong đời sống gia đình nước ta. Tuy nhiên, thực tế cho thấy một số điều khoản nêu trong Luật Hôn nhân và Gia đình đang hiện hành chưa phát huy hiệu lực hay nói cách khác là chưa được thực hiện triệt để dẫn đến nảy sinh nhiều vấn đề bức thiết trong xã hội hiện nay. Điều này không thể không nhắc đến chức năng kiểm soát của thiết chế hôn nhân và gia đình nước ta thời gian qua chưa làm tốt hay thực hiện đúng chức năng. Chẳng hạn, cơ chế kiểm soát của thiết chế chính thức như toà án, công án,chưa thực hiện hiệu quả, đúng chức năng xã hội dẫn đến việc không ngăn chặn được hành vi xã hội lệch chuẩn, không theo khuôn mẫu chuẩn mực, giá trị hôn nhân và gia đình. Bên cạnh đó, hình thức kiểm soát phi chính thức thông qua các nhóm xã hội như gia đình, cộng đồng, dư luận xã hội chưa làm tốt cơ chế giám sát, điều chỉnh hành vi cá nhân. Thực tế này đang tiềm ẩn nhiều nguy cơ và hệ luỵ xã hội đối với gia đình, xã hội Việt Nam thời gian tới. Mặt khác cũng phải thấy rằng quá trình xã hội hóa cá nhân trong xã hội để giúp cá nhân học hỏi, tiếp thu những chuẩn Xã hội học số 2 (118), 2012 Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn 98 mực, giá trị về hôn nhân gia đình để qua đó cá nhân đóng các vai trò sao cho phù hợp với sự mong đợi xã hội chưa thực sự hiệu quả; do những rào cản về phong tục, tập quán xã hội. Có thể nói những vấn đề trên đang đặt ra nhiều thách thức đối với quan hệ hôn nhân và gia đình và thiết chế hôn nhân và gia đình Việt Nam hiện nay và trong tương lai. Tài liệu trích dẫn Đỗ Thị Bình, Lê Ngọc Văn, Nguyễn Linh Khiếu. 2002. Gia đình Việt Nam và người phụ nữ trong gia đình thời kỳ Đổi mới. Nhà xuất bản khoa học xã hội. Trần Mạnh Cát và Đỗ Thị Bình. 2009. Hôn nhân giữa phụ nữ Việt Nam với người nước ngoài trong bối cảnh họi nhập Bộ Y tế và các cơ quan khác. 2003. Điều tra Quốc gia về Vị thành niên và Thanh niên Việt Nam (SAVY1). Cohan, B và OrBuch, T (1995) Nhập môn xã hội học (Người dịch: Nguyễn Minh Hòa), Nxb Giáo dục, Hà Nội Goode, William J. 1963. World Revolutation and Family Parterns. Glencoe, Free Press. Khuất Thu Hồng. 1996. Các mô hình hôn nhân ở đồng bằng sông Hồng từ truyền thống đến hiện đại. Luận án Phó tiến sĩ khoa học. Hà Nội: Thư viện Viện Xã hội học Vũ Tuấn Huy và Carr. 2000. Phân công lao động nội trợ trong gia đình. Tạp chí Xã hội học, Số 3. Trần Đình Hượu. 1991. Về gia đình truyền thống Việt Nam với ảnh hưởng Nho giáo. Trong: những nghiên cứu xã hội học về gia đình ở Việt Nam. Nhà xuất bản khoa học xã hội. Vũ Mạnh Lợi.1995. Khác biệt nam nữ trong Gia đình nông thôn đồng bằng Bắc Bộ. Tạp chí Xã hội học, Số 3. Hy V. Luong. 1992. Revolution in the Village – Tradition and Transformation in North Vietnam, 1925-1988. University of Hawaii Press, Honolulu. Knodel, John et al. 2004. Gender Role in the Family: Change and Stability in Vietnam”. Research report No.04-559, Population Studies Center, University of Michigan, 5/2004. Marshall, G.1998. A Dictionnary of Sociology. Oxford University Press. Naila Kabeer, Trần Thi Vân Anh và Vũ Mạnh Lợi. 2005. Chuẩn bị cho tương lai: Các chiến lược ưu tiên nhằm thúc đẩy bình đẳng giới ở Việt Nam. Ngân hàng thế giới và Liên hợp quốc tại Việt Nam (Hà Nội). Trịnh Thị Kim Ngọc. 2009. Hôn nhân của phụ nữ Việt Nam với nam công dân Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan- những vấn đề đặt ra, Trong: Nguyễn Hữu Minh, Trần Thị Vân Anh.2009. Nghiên cứu Gia đình và Giới thời kỳ Đổi mới. Nhà xuất bản khoa học xã hội. Xã hội học số 2 (118), 2012 Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn 99 Hoàng Bá Thịnh. 2009. Bạo lực gia đình đối với trẻ em và một số giải pháp phòng ngừa. Therborn, G. 2004. Between Sex and Power. London: Routledge Luật hôn nhân và gia đình (Luật số 22/2000/QH10 ngày 9/6/2000) truy cập ngày 17/11/2009

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfso2_2012_nguyenducchien_0226.pdf