Một số trao đổi về giảng dạy học phần chuyên ngành theo học chế tín chỉ tại bộ môn kỹ thuật ô tô

Vấn đề sinh viên, nội dung cơ bản nhất làm sao xây dựng được ý thức tự giác, cần cù, chịu khó rèn luyện, học tập, định hướng sự nghiệp tương lai. Hiện tại, khá nhiều sinh viên không rõ có xác định được mục tiêu học tập hay do khả năng có hạn (chất lượng đầu vào) mà kết quả học tập hết sức hạn chế, yếu kém. Trong điều kiện, yêu cầu giảng dạy theo hệ thống tín chỉ, lấy người học làm trung tâm thì vấn đề ý thức tự giác của mỗi sinh viên để tự học tập nghiên cứu, để hoạt động nhóm cần đặt ở tầm cao và quan trọng hơn. Giải pháp hữu hiệu nhờ vào sự quan tâm giúp đỡ, kiểm tra đôn đốc thông qua nội dung học tập và sự thuyết phục lẫn hình thức răn đe của thầy. Và rất cần sự giáo dục của đoàn thanh niên kết hợp với gia đình sinh viên.

doc4 trang | Chia sẻ: truongthinh92 | Lượt xem: 1392 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số trao đổi về giảng dạy học phần chuyên ngành theo học chế tín chỉ tại bộ môn kỹ thuật ô tô, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỘT SỐ TRAO ĐỔI VỀ GIẢNG DẠY HỌC PHẦN CHUYÊN NGÀNH THEO HỌC CHẾ TÍN CHỈ TẠI BỘ MÔN KỸ THUẬT Ô TÔ. TS. Lê Bá Khang – Bộ môn Kỹ thuật ô tô I. ĐẶT VẤN ĐỀ Chúng ta đã và đang triển khai đào tạo theo hệ thống tín chỉ. Tuy nhiên, việc dạy và học theo hình thức này như thế nào là vấn đề được khá nhiều cán bộ giảng dạy, học sinh-sinh viên Nhà trường quan tâm. Trong lúc chưa có bất cứ tài liệu hướng dẫn thực hiện, chúng tôi xin trao đổi một số vấn đề theo quan điểm cá nhân. Bởi vậy, chắc chắn sẽ còn nhiều điều phải bàn, rất mong nhận được sự góp ý của quý thầy cô và các bạn đồng nghiệp. II. ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐÀO TẠO THEO HỆ THỐNG TÍN CHỈ Đào tạo theo hệ thống tín chỉ thực chất là đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội và xã hội hóa về nhân lực lao động. Với hai đặc điểm lớn nhất chi phối đến quá trình đào tạo: Thứ nhất: Thời lượng giảng dạy giảm trong khi khối lượng kiến thức không giảm mà vẫn phải đảm bảo và nâng cao chất lượng đào tạo. Thứ hai: Lấy sinh viên, học sinh làm trung tâm Ngoài ra, quá trình đào tạo này qui định thời gian giảng dạy 50 phút / 1tiết học, một buổi học nghỉ giải lao giữa giờ 20 phút, học theo lớp đăng ký môn học của sinh viên, sinh viên có thể chọn giáo viênvv Riêng với ngành Công nghệ kỹ thuật ô tô có đặc điểm: số lượng sinh viên không đông cỡ 30 – 40 SV /lớp. Sinh viên có cá tính. III. GIẢNG DẠY CÁC HỌC PHẦN CHUYÊN MÔN THEO HỆ THỐNG ĐÀO TẠO TÍN CHỈ Theo cá nhân tôi: đào tạo ở bậc đại học là hướng người học đến việc tự học, tự nghiên cứu, học suốt đời hay nói cách khác là tạo cho người học phương pháp tìm tòi, nghiên cứu tiếp cận kiến thức, tri thức. Giảng dạy theo hệ thống tín chỉ được xác định là giảng dạy theo vấn đề và dựa trên các nội dung đề cương chi tiết học phần đã được công bố để tổ chức giảng dạy. Như vậy, một học phần có thể có nhiều giảng viên giảng dạy nhưng nội dung kiến thức, kỹ năng đạt được của sinh viên là như nhau. Đối với sinh viên, dựa trên khả năng, tiêu chí của mình và đề cương chi tiết các học phần để chọn, đăng ký học phần phù hợp, từ đó thiết lập, hoạch định chương trình học tập, nghiên cứu nhằm đạt kết quả cao nhất. Những vấn đề trao đổi có tính khoa học, định hướng đúng đắn nêu trên theo tôi đó là cơ sở hết sức cần thiết. Tuy nhiên, trên thực tế việc triển khai áp dụng và kết quả của nó tùy thuộc rất nhiều vào từng trường hợp cụ thể. Vấn đề cần bàn sâu ở đây là trong điều kiện hiện nay với khả năng ngày một đáp ứng tốt hơn của Nhà trường về chương trình, trang thiết bị phục vụ giảng dạy thì việc còn lại ở người thầy và người học. Thầy dạy như thế nào, trò phấn đấu học tập ra sao để khi ra trường đạt kết quả học tập xuất sắc, giỏi, khá, giảm loại trung bình, yếu, kém”. Đó cũng chính là nội dung then chốt của việc đảm bảo và nâng cao chất lượng đào tạo. Người thầy, trước hết đó là sự say mê, yêu nghề, gắn bó với Nhà trường, quan tâm sinh viênvv tất cả điều đó cần được thể hiện từ những việc làm gần gũi, thực tế nhất đó là làm sao để bài giảng ngày một cập nhật phong phú hơn, truyền thụ hấp dẫn, lôi cuốn hơn. Làm được điều đó dựa trên tính tự giác, chủ động trong việc học tập nâng cao trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, tin học, thường xuyên tiếp cận thực tế, kết hợp đổi mới phương pháp giảng dạy, đánh giá. Tuy nhiên, cần phải nhìn nhận thẳng thắn rằng, hiện nay rất nhiều giảng viên (không muốn nói là hầu hết) đang duy trì phương pháp giảng dạy truyền thống là chủ yếu. Việc giảng dạy này có nhiều ưu điểm nhưng cũng không ít hạn chế. Một trong những hạn chế đó là truyền đạt kiến thức cho sinh viên dựa trên những gì thầy có, mang tính hàn lâm, bảo thủ, không ít phần trừu tượng, khó hiểu, chưa phát huy được tính chủ động học tập của sinh viên. Hiện nay, sự phát triển bùng nổ về công nghệ thông tin, việc tìm kiếm các tài liệu để cập nhật, việc sử dụng các phần mềm làm trực quan sinh động bài giảng là không khó, phương tiện, thiết bị mới hiện đại không hiếm, có thể tiếp cận được. Để dạy học theo vấn đề, đối với các học phần chuyên môn yêu cầu thầy phải có kiến thức khá tổng hợp, vững vàng về các nội dung liên quan từ học phần cơ sở, và thực tế, điều này không phải thầy nào cũng có được. Và giảng dạy ở đây phải xác định là dạy theo hình thức mở, tức là giảng và dạy các kiến thức cốt lõi mới đủ thời gian qui định, từ kiến thức này có thể làm tiền đề cho việc giải quyết các nội dung liên quan và cả ở mức độ rộng hơn. Chính điều đó người thầy đã chuyển đổi sang dạy năng lực nhận thức, năng lực tư duy. Riêng vấn đề dạy kỹ năng cho sinh viên có những nội dung khác nhau: - Kỹ năng đọc, phân tích bản vẽ và tính toán: nhìn chung sinh viên ngành Công nghệ kỹ thuật ô tô còn khá hạn chế trong việc vẽ kỹ thuật, đọc và phân tích bãn vẽ. Riêng tính toán, trong từng vấn đề các thầy cô cần phải yêu cầu sinh viên sử dụng, áp dụng phần mềm tính toán phù hợp như: Excel, AutoCAD, SAP, Flash, Solidworksđể tính, vẽ, mô phỏngvv. Các phần mềm này theo chúng tôi nếu được cần giúp, hỗ trợ cho các em ở học kỳ thứ 3, thứ 4. - Kỹ năng vận hành, kiểm tra, bảo dưỡng, sữa chữa thiết bị: kỹ năng này đòi hỏi người học phải được tiếp cận, được tham gia công việc cụ thể với khối lượng và thời gian nhất định. Nếu thực hiện tốt, tạo điều kiện cho sinh viên ra trường tiếp cận nhanh với công việc. Hiện tại sinh viên của ngành còn gặp nhiều khó khăn trong vấn đề này. Có lẽ do máy móc, thiết bị, phụ tùng, dụng cụ còn quá ít, lạc hậu (từ ngày thành lập BM mới được đầu tư thiết bị với khoảng trên 300 triệu VNĐ và 2 ô tô 4 chỗ thanh lý). Trong lúc, muốn đạt được kỹ năng này phần chủ yếu phải thực tập tại các cơ sở trong Trường. - Kỹ năng viết, tổng hợp, trình bày một vấn đề: hạn chế lớn nhất đó là thầy cô chỉ chú tâm giảng dạy chuyên môn cho sinh viên, còn góp ý cho sinh viên về câu chữ, tác phong, cách diễn đạt, trình bày, hoặc thuyết trình một vấn đề mang tính khoa học, lôgíc có tính thuyết phục...vv chưa nhiều. Sinh viên chuẩn bị ra trường viết một đơn xin việc, một tờ trình ... không nổi, chữ nghĩa ngệch ngoặc, văn vẻ vụng về. Dù hết sức sức ngạc nhiên nhưng đó là thực tế. Chúng tôi đang thử nghiệm áp dụng: Thứ nhất: kết hợp giữa học lý thuyết có sử dụng các phần mềm mô phỏng và tăng cường kỹ năng thực hành, bằng cách sau một số giờ dạy lý thuyết trên giảng đường tổ chức cho sinh viên xuống xưởng thực hành tiếp cận, nghiên cứu. Tại xưởng thực hành chính thầy dạy lý thuyết kết hợp với thầy dạy thực hành hướng dẫn cho sinh viên thực hành, nghiên cứu (nếu có projecter và các đĩa dữ liệu mô phỏng nguyên lý, tháo lắp cơ cấu, hệ thống thì việc tiếp cận của sinh viên với thực tế sẽ rất nhanh và hiệu quả. Lý do chính ở đây, các em có thể tự giải đáp những nội dung khó hiểu trong điều kiện có thầy và máy móc, thiết bị ngay bên cạnh). Thứ hai, nếu được trong lúc giải pháp “đổi mới phương pháp giảng dạy – đánh giá “ đã tổ chức thực hiện, đang tiến hành tổng kết, đúc rút kinh nghiệm, chúng tôi đề xuất giải pháp “điều chỉnh ngược hay tự điều chỉnh”. Cơ sở chủ đạo của giải pháp này xuất phát từ đề thi kết thúc học phần. Mỗi đề thi học phần chuyên môn nên phải có kiến thức lý thuyết và áp dụng thực tế (các học phần khác có thể linh hoạt vận dụng như kết hợp lý thuyết và bài tập ứng dụng). Như vậy, cần tăng cường công tác xây dựng ngân hàng đề thi, kiểm tra, chấm thi, lấy phiếu góp ý từ sinh viênvv trong đó việc xây dựng đề thi, tổ chức chấm thi đóng vai trò cực kỳ quan trọng, quyết định hiệu quả của giải pháp. Việc làm này cần làm thí điểm trước khi triển khai rộng khắp và phải chấp nhận sự thay đổi có tính quyết liệt. Chúng tôi đang rất băn khoăn, giảng dạy theo chủ đề có thực chất, hay là sự chuyển đổi một cách linh hoạt, hình thức. Bộ phận chức năng duy trì sự giám sát, đánh giá như thế nào để tạo động lực cho quá trình đào tạo hệ thống tín chỉ. Có thể nói vẫn phải dựa vào sự đổi mới một cách thiết thực của người thầy. Ngoài đổi mới phương pháp giảng dạy, người thầy cần phải thay đổi cách đánh giá, và sẽ kéo theo sự thay đổi ý thức, cách học của sinh viên. Theo tôi dựa vào bốn tiêu chí đánh giá như sau: · Tham gia học trên lớp: đầy đủ, tích cực trao đổi, thảo luậnđánh giá sinh viên ở tính chuyên cần, ý thức, tính tích cực yêu ngành nghề, ham hiểu biết. Nội dung này có thể chiếm tỉ trọng cỡ 5% . · Tự nghiên cứu: đây là nội dung quan trọng bậc nhất bởi giảng dạy theo vấn đề, giảng viên phần lớn phân bổ thời gian tự nghiên cứu cho sinh viên (như điều bắt buộc). Và đây là cơ sở cho hoạt động nhóm (trình bày kỹ ở phần sau). Nhưng làm sao để kiểm tra, giám sát ? giải pháp chủ động đó là giao công việc cụ thể như các chủ đề thảo luận, bài tập hay tìm hiểu, đề xuất ý tưởng sau đó kiểm tra, chấm nội dung đó. Tỉ trọng phần này cỡ 20% . · Hoạt động nhóm: nếu giảng viên phân công chủ đề cho nhóm sinh viên, sinh viên đã có phần tự nghiên cứu theo nội dung được giao của nhóm trưởng thì phần còn lại của công việc hoạt động nhóm là tích hợp các phần chuẩn bị. Khi trình bày, có thể cử một sinh viên nắm vững nhất, hoặc hãy để mỗi thành viên của nhóm thuyết trình theo nội dung cá nhân chuẩn bị, nhóm trưởng có thể tóm tắt chung cho nhóm. Vận dụng cách nào là tùy thuộc khả năng của nhóm sinh viên. Nhưng cách thứ hai có nhiều ưu điểm hơn, nó yêu cầu và đánh giá thực chất hoạt động của mỗi sinh viên đồng thời nhóm trưởng phải thể hiện khả năng của mình nhiều hơn. Và câu hỏi nhận được từ sinh viên cũng như góp ý của giảng viên sẽ cụ thể, đến được nhiều sinh viên hơn. Phần đánh giá này thiên về sự hợp tác tập thể nhóm và nên có qui định trước cách đánh giá cho điểm, nêu cao sự công bằng, có thể thay một bài kiểm tra, tỉ trọng cỡ 15%. · Kiểm tra đánh giá giữa kỳ hoặc cuối kỳ: tùy thuộc vào thời lượng của học phần mà nội dung này được tiến hành (áp dụng với các học phần 3 tín chỉ trở lên), hình thức viết, tỉ trọng cỡ 10%. Như vậy, tổng tỉ trọng cho phần đánh giá nói trên chiếm 50%, còn lại 50% là điểm thi kết thúc học phần bằng hình thức viết hoặc vấn đáp hoặc tiểu luận. Vấn đề sinh viên, nội dung cơ bản nhất làm sao xây dựng được ý thức tự giác, cần cù, chịu khó rèn luyện, học tập, định hướng sự nghiệp tương lai. Hiện tại, khá nhiều sinh viên không rõ có xác định được mục tiêu học tập hay do khả năng có hạn (chất lượng đầu vào) mà kết quả học tập hết sức hạn chế, yếu kém. Trong điều kiện, yêu cầu giảng dạy theo hệ thống tín chỉ, lấy người học làm trung tâm thì vấn đề ý thức tự giác của mỗi sinh viên để tự học tập nghiên cứu, để hoạt động nhóm cần đặt ở tầm cao và quan trọng hơn. Giải pháp hữu hiệu nhờ vào sự quan tâm giúp đỡ, kiểm tra đôn đốc thông qua nội dung học tập và sự thuyết phục lẫn hình thức răn đe của thầy. Và rất cần sự giáo dục của đoàn thanh niên kết hợp với gia đình sinh viên. Trên đây là một số suy nghĩ của cá nhân, cùng hướng đến vấn đề lớn của Nhà trường trong giai đoạn sắp tới. Rất mong nhận được ý kiến, trao đổi của quí thầy, các bạn và sinh viên ngành Công nghệ kỹ thuật ô tô. Chân thành cảm ơn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docmot_so_trao_doi_ve_giang_day_hoc_phan_chuyen_nganh_6523.doc
Tài liệu liên quan