Sinh viên sẽ thấy khó hiểu hoặc không hiểu bài giảng của giảng viên nếu
họ không đọc trước những nội dung được giao tự học, tự nghiên cứu ở nhà. Ngược
lại, sinh viên sẽ không thể sáng tạo nếu không biết được tri thức của môn học đã
được nghiên cứu đến đâu, chỗ nào còn bỏ ngỏ. Như vậy, ta thấy cả 3 phương pháp
này không tách rời nhau mà chúng hỗ trợ cho nhau. Do đó, để học theo tín chỉ có
hiệu quả thì SV phải nắm rõ từng phương pháp và vận dụng kết hợp chúng vào việc
để đạt được kết quả tốt hơ
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số phương pháp học tập hiệu quả khi học theo tín chỉ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP HỌC TẬP HIỆU QUẢ KHI
HỌC THEO TÍN CHỈ
ThS. Trần Thị Thùy Trang
Học chế tín chỉ (HCTC) là một hình thức đào tạo được hầu hết các nước tiên tiến
trên thế giới áp dụng vì nó phân chia kiến thức đào tạo thành những đơn vị học tập mà
sinh viên (SV) có thể tự sắp xếp để tích lũy được ở những thời gian và không gian
khác nhau. Tùy điều kiện của mỗi người, sinh viên có thể học nhanh hơn hay muộn
hơn so với tiến độ bình thường, có thể thay đổi chuyên ngành học ngay giữa tiến trình
học tập mà không phải học lại từ đầu. HCTC còn tạo ra một "ngôn ngữ chung" giữa
các trường ĐH, CĐ; tạo điều kiện cho việc chuyển đổi SV giữa các trường trong nước
và trên thế giới, rất thuận lợi trong các chương trình đào tạo liên kết.
Theo lộ trình của Bộ GD-ĐT, từ năm 2010: Tất cả các trường ĐH-CĐ phải áp
dụng chương trình đào tạo theo tín chỉ. Giai đoạn đầu Trường Cao đẳng Kinh tế Đối
Ngoại mới thực hiện việc chuyển đổi đào tạo từ niên chế sang tín chỉ bắt đầu áp
dụng ở Khoa Tài chính kế toán đối với hệ Cao đẳng chính qui khóa 13 (NH2010 –
2011) Sau 1 năm áp dụng mô hình này, kết quả ban đầu cho thấy chất lượng học của
SV học theo tín chỉ lại thấp hơn SV học theo niên chế. Do đó, một câu hỏi lớn đặt ra:
“Làm thế nào để dạy – học theo tín chỉ cho hiệu quả ?”.
Một số sinh viên tỏ ra háo hức với mô hình dạy học mới này trong khi đó số khác
lại tỏ ra tiếc nuối với mô hình cũ - dạy học theo niên chế. Không phải vì mô hình cũ
có hứng thú và hiệu quả hơn với họ mà chỉ vì một lí do hết sức đơn giản: họ ngại
thay đổi, họ muốn giữ thói quen học - thi - trả bài từ bao lâu nay. Bản thân nhiều
giảng viên cũng chưa thích ứng ngay được với cường độ và tính chất của hình thức
giảng dạy mới này. Vì vậy, trước tiên đòi hỏi cả giảng viên và sinh viên phải thực sự
bứt phá, có ý thức thay đổi để thoát khỏi những thói quen cũ.
Ưu điểm: trao quyền chủ động cho SV
SV được tự quyết trong việc đăng kí môn học, SV có thể linh động hóa chương
trình đào tạo theo đúng khả năng, sở thích và thời khóa biểu riêng, nhờ vậy mà một
2SV giỏi có thể học vượt chương trình và những SV khó khăn có thêm cơ hội, thời
gian để đeo đuổi con đường học tập của mình. Đào tạo theo HCTC cũng mang lại
cho SV nhiều cơ hội chuyển đổi đơn vị môn học, học thêm văn bằng hai mà không
lãng phí thời gian học lại những điều đã biết. Việc lượng hóa kiến thức môn học và
qui đổi ra đơn vị tín chỉ cũng giúp cho SV có cái nhìn cụ thể hơn những kiến thức
mình đang tiếp thu.
Khuyết điểm: đòi hỏi SV phải chủ động
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm trên, giáo dục theo HCTC cũng mang những
điểm yếu chết người từ chính những ưu điểm của nó. Song song với việc trao quyền
chủ động cho SV, HCTC cũng đòi hỏi SV một sự chủ động và tự trách nhiệm, tự ý
thức lấy việc học của bản thân mình. Đây cũng chính là điểm mà nhiều rất nhiều SV
Việt Nam còn thiếu. Nhiều SV tỏ ra bị động và không hiểu rõ đường hướng học tập
rèn luyện trong những năm học. Cứ đến mùa đăng kí môn học, nhiều SV chỉ biết
đăng kí theo bạn bè, dẫn đến trường hợp có HK đăng kí quá nhiều môn lí thuyết, học
không nổi và rớt hàng loạt, bù lại, có những HK lại đăng kí quá nhiều môn thực
hành, thực tập, dẫn đến TKB trùng lắp khó mà học cho tốt.
Hơn nữa, với mô hình tín chỉ, lớp học phần sẻ giải tán sau khi kết thúc môn học
đó, SV không có sự gắn bó với nhau trong học tập vì phải theo học quá nhiều lớp
học phần khác nhau không phải là lớp sinh hoạt. Bạn bè ít quen biết cũng là một
nguyên nhân quan trọng làm nhiều SV không hứng thú khi ngồi trong giảng đường.
Việc lượng hóa một khối lượng kiến thức khổng lồ từ chương trình đào tạo niên
khóa sang HCTC khó tránh khỏi những thiếu xót, sai lầm cũng góp phần dẫn đến
khó khăn cho việc học của SV và công tác giảng dạy của giảng viên.
Trong phạm vi bài viết này, muốn đưa ra một số phương pháp học tập có hiệu
quả khi học theo tín chỉ.
Đối với SV, khó nhất của học theo tín chỉ là phải dành nhiều thời gian cho thảo
luận, làm việc nhóm, tự học. Như vậy, vấn đề ở đây là SV phải biết cách học như thế
nào trong việc học để mang lại hiệu quả trong việc học của mình. Sau đây, tôi xin
3trình bày 3 phương pháp: phương pháp tự học, phương pháp đọc tài liệu, và phương
pháp thảo luận.
1. Phương pháp tự học
Tự học là hình thức học tập không thể thiếu được của sinh viên đang học tập tại
các trường đại học, Cao đẳng theo tín chỉ. Tổ chức hoạt động tự học một cách hợp
lý, khoa học, có chất lượng, hiệu quả là trách nhiệm không chỉ ở sinh viên mà còn là
sự nghiệp đào tạo của nhà trường.
Trong quá trình học tập bao giờ cũng có tự học, nghĩa là tự mình lao động trí óc
để chiếm lĩnh kiến thức. Trong tự học, bước đầu thường có nhiều lúng túng nhưng
chính những lúng túng đó lại là động lực thúc đẩy sinh viên tư duy để thoát khỏi
“lúng túng”, nhờ vậy mà thành thạo lên, và đã thành thạo thì hay đặt những dấu hỏi,
phát hiện vấn đề và từ đó đi đến có đề tài nghiên cứu.
Nhưng sự thực việc tự học có phương pháp phải bắt đầu từ trên lớp học. Không
thể tách rời việc học ở lớp với việc học ở nhà. Trên lớp học, phải biết chú ý lắng
nghe lời giảng viên giảng, tập trung tư tưởng theo dõi một cách không thụ động, biết
đề xuất những thắc mắc, những chỗ chưa hiểu được rõ để giảng viên giải đáp, cùng
với người giảng viên xây dựng bài giảng. Giảng viên chú ý phát huy năng lực trí tuệ
của sinh viên, sinh viên biết tự phát huy để hưởng ứng.Sinh viên là chủ thể là thế,
sinh viên không phải nhân vật thụ động, tiếp thu máy móc. Kinh nghiệm của các học
sinh giỏi, các sinh viên thủ khoa là ở chỗ này. Nếu nói bí quyết để học giỏi cũng bắt
đầu từ đây. Chúng ta thường thấy có những học sinh, sinh viên con nhà nghèo về
nhà thường phải làm việc giúp đỡ gia đình nhưng vẫn học giỏi, chính là đã biết cách
học như trên, họ đã hiểu bài, thuộc bài ngay tại lớp. Đã từ lâu, các giảng viên giáo
giảng dạy có kinh nghiệm cũng đã đề ra phương pháp dạy và học đạt yêu cầu này.
Ngoài thời gian học ở trường, ở lớp, học với giảng viên cô, những lúc còn lại khác
đều có thể là thời gian để tự học kể cả khi giải trí, thư giãn, làm việc tay chân Tự
học không phải là học riêng một mình, mà có nghĩa là chúng ta có thể học mọi lúc,
mọi nơi, ở tất cả mọi người và mọi sự việc. Bạn sẽ có thể học được nhiều hơn, thu
4được nhiều kết quả hơn nữa bằng cách tự học hơn là chỉ thụ động dựa vào việc nghe,
đọc, chép.
Học tập không đơn thuần chỉ là một quá trình chuyển kiến thức vào bộ óc của ta
một cách thụ động mà còn phải là tự học, biến những tri thức ấy thành hành động
bằng cách tích cực suy nghĩ. Khi học ta nên đặt ra những câu hỏi, những thắc mắc
rồi lại tìm cách giải đáp những vấn đề khúc mắc. Sẽ rất có tác dụng nếu bạn nêu ra
được nhiều câu hỏi và tự cố gắng trả lời. Bạn sẽ càng nhớ được lâu, càng sâu sắc và
càng chắc chắn hơn.
Tự học là tự hỏi chính bản thân mình, tự hỏi để ôn luyện và tự hỏi để biết mình
hiểu và không hiểu vấn đề gì để tiếp tục tham khảo. Tự học là tìm tài liệu đọc, hỏi
han, lắng nghe và đào sâu giúp ta nắm vững vấn đề. Vì vậy, tự học là không để
những điều đã học mà lại còn chưa hiểu trong óc, càng không nên cho qua một cách
dễ dàng, cũng chớ để lâu những điều khó hiểu này vì có thể nó sẽ phát sinh những
điều khó hiểu khác khi gặp những vấn đề có liên quan.
Ngoài ra, để giúp trí nhớ phát triển tốt, ta có thể tự học bằng cách vận dụng việc
học ở mọi lúc, mọi nơi và ở mọi người. Bởi vì nhiều thứ được lưu trữ một cách tự
nhiên, ví dụ: Bạn có thể học ngoại ngữ khi xem truyền hình khi thì một vài từ, khi là
một vài câu dần dần sẽ tích lũy trong óc bạn. Tự học là tự làm việc với chính mình,
cách học này còn có thể ứng dụng vào việc học tập văn hóa xã hội, học cách làm
việc, học cách thông cảm, học cách ứng xử, giao tiếp, học cách phát biểu, diễn
thuyết v.v
Tự học giúp suy nghĩ có được sự chăm chú chuyên tâm, giúp năng lực suy nghĩ
được rèn luyện trở nên mạnh mẽ và nhạy bén. Tự học, và chỉ nhờ tự học bạn sẽ rũ bỏ
hết mọi thói quen ỷ lại, suy nghĩ độc lập hơn, tự do hơn. Sự tự học giúp bạn trở
thành người nghiên cứu, có được sự tập trung suy nghĩ sâu sắc hơn và tự học cũng là
điều kiện cần phải có để tư duy thăng hoa, giúp khai thác tối đa khả năng còn tiềm
ẩn của bạn. Bạn sẽ được tăng cường hơn các khả năng nói, hùng biện, chia sẻ hợp
tác, tổng hợp tài liệu Sẽ không còn thấy hiện tượng ngủ gật hay ngồi im phăng
phắc ghi chép trong lớp học nữa. Sinh viên - sinh viên sẽ chủ động phát biểu trao đổi
5góp ý cho bài học. Hơn nữa sinh viên cũng sẽ cảm thấy thực sự phấn khích khi các ý
kiến của họ được nêu lên. Họ được nói, được bộc lộ quan điểm cho dù đôi khi không
tránh khỏi sự tranh luận, bảo vệ cho quan điểm của bản thân. Có điều, tự bạn phải
xác định được mình ngồi trong lớp học để làm gì, bạn là chủ thể chứ không phải
“người ngoài cuộc”. Vì vậy hãy tự tin và tích cực nói. Giảng viên sẽ là người tổng
kết lại cuối cùng ý kiến của tất cả để giờ học diễn ra đúng hướng.
Tự học có ý nghĩa to lớn đối với bản thân sinh viên để hoàn thành nhiệm vụ học
tập của họ đối với chất lượng, hiệu quả của quá trình dạy học - đào tạo trong nhà
trường. Tự học là sự thể hiện đầy đủ nhất vai sinh viên chủ thể trong quá trình nhận
thức của sinh viên. Trong quá trình đó, sinh viên hoàn toàn chủ động và độc lập, tự
lực tìm tòi, khám phá để lĩnh hội tri thức dưới sự chỉ đạo, điều khiển của giảng viên.
Để phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của mình, sinh viên cần tự rèn luyện
phương pháp tự học, đây không chỉ là một phương pháp nâng cao hiệu quả học tập
mà là một mục tiêu quan trọng của học tập. Có như vậy thì phương pháp tự học mới
thực sự là cầu nối giữa học tập và nghiên cứu khoa học. Phương pháp tự học sẽ trở
thành cốt lõi của phương pháp học tập.
2. Phương pháp đọc tài liệu
Sinh viên cần phải đọc sách vì sách là nguồn cung cấp kiến thức phong phú, là
người giảng viên trung thành của sinh viên. Đọc sách không chỉ thu lượm được
những điều quý báu về mặt nội dung mà còn học được cách diễn đạt và trình bày
từng vấn đề, đặc biệt là nâng cao phẩm chất tư duy. Puskin đã coi đọc sách là cách
học tốt nhất và khi tâm sự với bạn vè Goócky đã nói: “Những điều quý giá trong
người tôi, tôi đã thu lượm từ sách vở”.
Trong kế hoạch học tập – nghiên cứu ở trường cao đẳng, đại học phần lớn thời
gian là dành cho việc tự đọc các tài liệu tham khảo, có điều là đọc sách thì dễ nhưng
đọc thế nào cho hiệu quả cao thì không phải đơn giản. Nhà bác học Vônte đã có một
nhận xét: “Phần lớn người ta chưa biết cách đọc sách”. Do đó khi đọc sách không
thấy hết cái hay, cái dở. Vì vậy có người đã nói sách hay chỉ có giá trị với người biết
6đọc nó. Từ thực tiễn người ta có một nhận xét khái quát: “Anh nói cho tôi biết anh
hay đọc những sách gì, tôi sẽ nói cho anh biết anh là người như thế nào”.
Thông thường người ta phân chia hai loại đọc sách: đọc lướt và đọc chậm. Đọc
luớt qua để có một cách nhìn khái quát chung nhất về nội dung tư tưởng và tính nghệ
thuật của cuốn sách. Đọc chậm có suy nghĩ, nghiền ngầm, nghiên cứu từng phần,
từng nội dung cụ thể. Trong khi đọc cần có sự phân biệt thế nào là nắm vững sự kiện
và thế nào là việc thu thập sự kiện. Tuỳ theo mức độ yêu cầu mà sinh viên có thể lựa
chọn cách đọc thích hợp. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật ngày nay đặt ra cho
sinh viên một vấn đề là phải biết lựa chọn sách mà đọc. Trong khi đọc cần xác định
cho mình những nhiệm vụ cụ thể. Một là hiểu và nắm nội dung đã đọc. Hai là, suy
nghĩ về những điều đã đọc. Ba là, ghi chép những điều cần ghi nhớ. Bốn là, cần phải
tự hỏi mình xem quyển sách vừa đọc đã đem đến cho mình những điều gì mới mẻ?
Khi đọc một quyển sách nào đó sinh viên có thể tiến hành các bước như sau: Đọc
phần giới thiệu sách hay lời tựa của tác giả và phần mục lục để có một biểu tượng
chung về quyển sách. Sau đó thực hiện việc đọc cụ thể từng phần. Đọc xong có sự
trao đổi với bạn bè để rút ra những kết luận bổ ích.
3. Phương pháp học nhóm
Trước nay chúng ta vẫn quen với từ học nhóm, học tổ. Trong dạy học theo tín
chỉ, chúng ta sẽ được làm quen với một khái niệm khác: Làm việc nhóm. Quyền lợi
cũng như nghĩa vụ của bạn trong mỗi nhóm là bình đẳng với những người khác. Bạn
phải làm việc và không được ỷ lại, không thể học tốt nếu bạn có ý nghĩ kiểu “vắng
cô thì chợ vẫn đông” bởi đó sẽ là thiệt thòi của chính bạn. Đã có rất nhiều trường
hợp sinh viên không thích làm việc nhóm vì không thấy hiệu quả của hình thức này.
Thực tế thì không phải ai cũng tích cực tham gia vào việc nêu và đóng góp ý kiến,
chấp hành thời gian của cả nhóm khi làm việc chung, cũng như việc khó thống nhất
ý kiến giữa các thành viên với nhau. Tình trạng này có thể khắc phục dễ dàng nếu
như chúng ta biết phân chia công việc đồng đều và cụ thể. Tất nhiên ý thức tự giác
và nỗ lực của các thành viên đóng vai sinh viên quyết định.
7Làm việc theo nhóm là cách học cho phép tất cả các thành viên trong nhóm giải
quyết một cam kết làm việc được mô tả rõ ràng, không được giảng viên dẫn dắt trực
tiếp mà chỉ nhờ vào sự hợp tác chặt chẽ và sự phân công công việc trong nhóm, vì
vậy mỗi thành viên trong nhóm tự ý thức được phải cố gắng hết mình không phải chỉ
vì thành tích cá nhân mà còn vì thành công của cả nhóm. phương pháp làm việc theo
nhóm nâng cao được tính trách nhiệm của từng thành viên trong nhóm. Do mỗi
thành viên trong nhóm được phân công thực hiện một vai sinh viên nhất định, một
công việc và trách nhiệm cụ thể. Các thành viên trong nhóm không thể trốn tránh
trách nhiệm hoặc dựa vào công việc của người khác. Trách nhiệm của mỗi thành
viên là yếu tố quyết định việc thành công hay thất bại của nhóm. Hay nói cách khác,
việc học theo nhóm không phải là hình thức nhằm thay thế học tập cá nhân mà là để
giúp cá nhân thực hiện nhiệm vụ học tập của mình thông qua trao đổi, thảo luận với
các thành viên cùng học.
Để học nhóm có hiệu quả, giảng viên phải đảm bảo rằng trong nhóm có sự “phụ
thuộc tích cực”, trao đổi trực tiếp, thảo luận trong nhóm và trách nhiệm của cá nhân
cũng như của cả nhóm. “Phụ thuộc tích cực” nhấn mạnh tầm quan trọng và tính độc
đáo sự đóng góp của mỗi thành viên trong nhóm trong khi thực hiện các hoạt động
nhận thức và giao lưu giữa các cá nhân. Trong khi sinh viên giao tiếp với nhau, sẽ
phải có một người làm trưởng nhóm. Người này phải có kĩ năng hòa giải xung đột, có
khái niệm rõ ràng và khả năng thảo luận, có khả năng tháo gỡ những phức tạp trong
quan hệ giữa mọi người. Quá trình học như thế này sẽ nâng cao hiệu quả học tập của
sinh viên. Vì thế, sinh viên có thể học được nhiều hơn những gì được giảng giải.
Tuy nhiên, học nhóm có thể tạo điều kiện cho những sinh viên lười – những
thành viên không hoàn thành trách nhiệm mà vẫn được điểm do thành tích của cả
nhóm. Để hạn chế tình trạng này, giảng viên có thể cho áp dụng hình thức đánh giá
theo nhóm để đánh giá đóng góp của từng thành viên trong nhóm, hoặc tổ chức một
bài kiểm tra kèm theo. Vì vậy sẽ tồn tại hai mức độ trách nhiệm: cá nhân và nhóm.
8Có nhiều nguyên nhân dẫn tới phương pháp học tập này không đạt hiệu quả. Cả
nguyên nhân khách quan và cả từ bản thân sinh viên. Vậy làm thế nào để phương
pháp học tập nhóm đạt hiệu quả cao nhất?
Trước hết là sự phân công công việc hợp lí. Điều này phụ thuộc nhiều vào vai
sinh viên và khả năng chỉ đạo của người nhóm trưởng. Khi công việc được phân chia
rõ ràng cho từng thành viên họ sẽ ý thức được vai sinh viên của mình, có trách
nhiệm hoàn thành công việc.
Một điều đặc biệt quan trọng khác phải nói đến sự tự ý thức của các cá nhân
trong nhóm, bản thân sinh viên nên thấy trách nhiệm của một phần trong đó, và sản
phẩm hoàn thành có một phần đóng góp của bản thân. Một nhóm học chỉ hiệu quả
khi các thành viên có ý thức tự giác: tự giác về thời gian, bài vở, tự giác “phát
biểu” Chỉ khi nào mỗi sinh viên phát huy cao độ tinh thần độc lập, suy nghĩ về
những vấn đề cần đưa ra học tập nghiên cứu tập thể khi đó việc học nhóm, tổ mới
phát huy được tác dụng.
Và cuối cùng, tinh thần học hỏi, chịu khó lắng nghe, hết mình vì tập thể đó sẽ là
chìa khóa giúp một bài tập nhóm thành công. Học nhóm chỉ đạt hiệu suất cao khi nó
được thực hiện trên cơ sở có sự chuẩn bị chu đáo cả về mặt nội dung lẫn phương
pháp tổ chức của mọi thành viên.
Với chiếc máy tính nối mạng, bạn có thể chat voice để thảo luận, học nhóm cùng
bạn bè ở khắp nơi vừa tiết kiệm thời gian, lại thực sự hiệu quả! Hãy chuẩn bị cho
mình một thái độ học tập nghiêm túc và một nhóm học hiệu quả! Hi vọng với những
chia sẻ trên một phần giúp các bạn sinh viên tìm được hứng thú trong việc học tập
nhóm, đặc biệt là sự hiệu quả trong học tập với phương thức này.
Kết luận
Phương thức đào tạo theo tín chỉ là phương thức đặt dạy - học ở bậc đại học, cao
đẳng vào đúng với bản chất của nó: nó đặt sinh viên vào vị trí trung tâm của quá
trình dạy - học, tạo cho họ thói quen tự học, tự khám phá kiến thức, có kĩ năng giải
quyết vấn đề, tự chủ động thời gian hoàn thành một môn học, một chương trình cử
nhân hay thạc sĩ. Nó khắc phục được việc học lệch, học tủ, dẫn đến coi cóp trong
9kiểm tra và trong các kì thi. Hơn nữa, trong phương thức đào tạo theo tín chỉ, hầu
như bất kì môn học nào cũng bao gồm ít nhất hai trong ba hình thức tổ chức dạy -
học: giảng bài của giảng viên, thực tập, thực hành của sinh viên dưới sự hướng dẫn
của giảng viên, và tự học, tự nghiên cứu của sinh viên. Trong các hình thức tổ chức
dạy học này, nghe giảng, thực hành thực tập và tự học có mối liên hệ hữu cơ với
nhau, hỗ trợ cho nhau giúp sinh viên nắm kiến thức và tạo kiến thức một cách hiệu
quả hơn. Sinh viên sẽ thấy khó hiểu hoặc không hiểu bài giảng của giảng viên nếu
họ không đọc trước những nội dung được giao tự học, tự nghiên cứu ở nhà. Ngược
lại, sinh viên sẽ không thể sáng tạo nếu không biết được tri thức của môn học đã
được nghiên cứu đến đâu, chỗ nào còn bỏ ngỏ. Như vậy, ta thấy cả 3 phương pháp
này không tách rời nhau mà chúng hỗ trợ cho nhau. Do đó, để học theo tín chỉ có
hiệu quả thì SV phải nắm rõ từng phương pháp và vận dụng kết hợp chúng vào việc
để đạt được kết quả tốt hơn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_phuong_phap_hoc_tap_hieu_qua_khi_hoc_tin_chi_2577.pdf