Từ các dịch chiết bằng n-hexan và etyl axetat
của lá cây sổ Dillenia indica đã phân lập được 5
chất tinh khiết, gồm 2 steroit, 1 tritecpen và 2
flavonoit, đã chứng minh được cấu trúc hóa học
của chúng. Các chất flavonoit là các chất chưa
có tài liệu nào công bố có trong thực vật
Dillenia indica, đó cũng là các lớp chất có hoạt
tính sinh học cao, có tác dụng tiêu độc, kháng
oxi hóa tốt.
5 trang |
Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 531 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số kết quả nghiên cứu ban đầu về thành phần hóa học trong lá cây sổ (Dillenia indica L.), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đinh Thúy Vân và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 86(10): 121 - 125
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 121
MỘT SỐ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU BAN ĐẦU VỀ THÀNH PHẦN HÓA HỌC
TRONG LÁ CÂY SỔ (DILLENIA INDICA L.)
Đinh Thúy Vân, Nguyễn Thị Mai, Phạm Văn Thỉnh*
Trường Đại học Sư phạm - ĐHTN
TÓM TẮT
Cây sổ có tên khoa học là Dillenia indica mọc phổ biến ở vùng núi nước ta. Quả sổ dùng làm thức
ăn, làm mứt. Theo Đông y, lá và vỏ cây sổ dùng để làm thuốc nam chữa bệnh. Bằng các phương
pháp sắc kí cột với chất hấp phụ là silicagel đã phân lập được từ cặn chiết n-hexan của lá cây sổ
(Dillenia indica) hai steroit thuộc lớp phytosterol và một tritecpenoit , còn từ cặn chiết etyl axetat
cũng phân lập được hai flavonoit. Cấu trúc hóa học của các hợp chất này được xác định bằng các
phương pháp phổ như ESI-MS, FT-IR, NMR là stigmatsterol; β-sitosterolglucozit, tritecpen là 3β-
hidroxy-lup-20(30)-en-28-oic còn hai flavonoit là 3,5-đihiđroy-4’-metoxy-flavon-7-O-L-glucozyt
và 5,7,4
’
-trihyđroxy-6-O-L-glucuzyl-6”-oic-flavon.
Từ khóa: Dillenia indica, stigmatsterol, β-sitosterol, flavonoit, 3,5-đihiđroy-4’metoxy-flavon-7-O-
L-glucosyllavon; betulinic, 5,7,4
’
-trihyđroxy-6-O-L-glucusyl-6”-oic-flavon.
MỞ ĐẦU
Cây sổ còn gọi là cây sổ bà, cây thiên biên,
người Thái gọi là cây co má sản, có tên khoa
học Dillenia indica thuộc họ sổ (Dilleniaceae).
Cây sổ là cây thân gỗ cao tới 20m, vỏ thân xù
xì có những vết sẹo của cuống lá hình lưỡi
liềm, lá to hình bầu dục hai đầu nhọn, mép lá
có răng cưa rất đều, phiến lá dài 13-30cm, rộng
5-10cm, có từ 15-23 đôi gân nổi rất đều rõ ở
mặt dưới. Hoa to, quả hình cầu đường kính
10cm, mang đài tồn tại, phát triển thành bản
dày mọng nước, vị chua, ăn được như chanh.
Mùa hoa tháng 3-5, mùa quả tháng 8-10. Cây
sổ mọc hoang ở vùng rừng núi các tỉnh phía
Bắc nước ta, đặc biệt ở các bờ suối. Phần các
lá đài của quả là phần ăn được, được thu hoạch
để ăn thay các quả chua, có thể dùng để làm
mứt, pha nước uống. Theo Đông y, lá của cây
sổ được thu hái phơi khô dùng làm thuốc giải
độc chữa ho, sốt, phù thũng, đầy bụng. Vỏ cây
sổ sấy khô, đun nước uống có tác dụng chữa
sỏi thận [1]. Thành phần hóa học của cây sổ
Việt Nam còn ít được nghiên cứu. Nghiên cứu
bước đầu cho biết quả sổ có chứa các axit hữu
cơ, vỏ cây sổ có chứa các phytosterol, các
tritecpenoit [2]. Cây sổ có nhiều công dụng cả
trong lĩnh vực thực phẩm và Đông y, nhưng
cho đến nay ở nước ta có rất ít các công trình
Tel: 0912 132563, Email: phamvanthinhsptn@gmail.com
nghiên cứu chúng. Bài báo này chúng tôi sẽ
thông báo kết quả thành phần một số
tritecpenoit có trong lá cây sổ.
THỰC NGHIỆM
Nguyên liệu
5kg lá sổ mọc bên bờ suối ở huyện Hàm Yên,
Tuyên Quang được TS. Lê Ngọc Công Khoa
sinh trường Đại học sư phạm thẩm định là
loài Dillenia indica L. Mẫu tươi được diệt
men bằng cách sấy nóng ở 1100C trong 10
phút sau đó sấy khô ở nhiệt độ 40-500C đến
khối lượng không đổi thu được 1150 gam.
Phương pháp nghiên cứu.
Mẫu thực vật khô được nghiền nhỏ thành bột,
ngâm chiết bằng dung môi n-hexan ở nhiệt độ
phòng (5 lần, mỗi lần 24 giờ). Thu hồi toàn bộ
dung môi n-hexan, làm khô bằng natri sunfat
khan, cất cô dưới áp suất giảm (để thu hồi
dung môi) đến cặn khô (35g). Phần không tan
trong n-hexan tiếp tục ngâm chiết bằng etyl
axetat ở nhiệt độ phòng (5 lần, mỗi lần 24 giờ).
Phần dung dịch etyl axetat cũng được thu gom
và chế biến tương tự phần n-hexan, thu được
cặn khô (42g). Phần nguyên liệu không tan
trong etyl axetat tiếp tục được ngâm chiết
trong metanol và cũng thu chất như cách thức
trên được (48g).
Đinh Thúy Vân và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 86(10): 121 - 125
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 122
Phân lập các chất có độ phân cực gần nhau
trong các phần cặn để thu các chất tinh khiết
được tiến hành theo phương pháp sắc kí cột
và rửa nhanh lại bằng dung môi thích hợp. Từ
cặn n-hexan thu được 2 chất tinh khiết kí hiệu
là chất HD-1 (22mg) và chất HD-2 (28mg),
còn từ cặn etyl axetat thu được ba chất tinh
khiết khác kí hiệu là chất ED-1, ED-2 và ED-3.
Thiết bị nghiên cứu
Để phân lập các chất có trong lá sổ chúng tôi
dùng sắc kí cột nhồi silicagel (Kieselgel 64-
200 mesh). Các quá trình chiết dùng hóa chất
kĩ thuật, các quá trình phân lập và tinh chế
dùng hóa chất tinh khiết của hãng Meck. Sản
phẩm tinh khiết được xác định điểm chảy
bằng máy Electrothermal IA-9200 (Anh), Phổ
IR được ghi trên máy IMPACT 410 sử dụng
đĩa nén tinh thể KBr. Phổ ESI-MS đo trên
máy HP-1100 LS/MS Trap. Phổ 1H-NMR
(500 MHz) và
13
C-NMR (125 MHz) được ghi
trên máy Bruker AM500 FT-NMR và TMS
được sử dụng là chất nội chuẩn. Sắc kí cột
(CC) sử dụng chất nhồi Silicagel (Kieselgel
60, 70 - 230 mesh và 230 - 400 mesh, Merck).
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Từ các phân đoạn dịch chiết n-hexan và
etylaxetat của bột khô lá cây sổ (1,0 kg),
bằng các phương pháp ngâm chiết, phân lập
các chất trên sắc ký cột với chất nhồi Silicagel
rửa giải bằng các hệ dung môi thích hợp
chúng tôi đã thu được 5 chất sạch.
Hợp chất HD-1 thu được từ phần cặn n-
hexan là chất rắn, sau khi kết tinh lại trong
metanol thu được tinh thể hình kim không
màu (29 mg), điểm chảy 138-140 0C. IR (νmax,
cm
-1): 3431,5 (dao động hóa trị OH), 2931,3
(dao động hóa trị CH); 1647,2 (C=C); EI-MS
(m/z): 414[M]
+
.
1
H-NMR (500MHz, CDCl3,
TMS, δ ppm): 3,51 (1H, m, H-3); 5,31 (1H,
dd, J=5 và 2 Hz, H-6); 1,01 (3H, s, H-18);
0,92 (3H, d, J = 6,6Hz, H-21); 0,85 (3H, d, J
= 7,1Hz, H-26); 0,84 (3H, d, J = 6,6Hz, H-
29); 0,81 (3H, d, J = 6,6Hz, H-28); 0,68 (3H,
s, H-19).
13
C-NMR (125MHz, CDCl3, TMS, δ
ppm): 37,3 (C-1); 31,7 (C-2); 71,8 (C-3); 42,3
(C-4); 140,8 (C-5); 121,7 (C-6); 31,9 (C-7);
31,9 (C-8); 50,2 (C-9); 36,5 (C-10); 21,1 (C-
11); 39,8 (C-12); 42,3 (C-13); 56,8 (C-14);
24,3 (C-15); 28,3 (C-16); 56,1 (C-17); 11,9
(C-18); 19,4 (C-19); 36,2 (C-20); 18,8 (C-21);
33,9 (C-22); 26,1 (C-23); 45,9 (C-24); 29,2
(C-25); 19,1 (C-26); 19,4 (C-27); 23,1 (C-28);
11,9 (C-29).
So sánh đối chiếu các dữ liệu về phổ và
tính chất vật lí của chất HD-1 với các tạp
chí đã công bố cho biết chất HD-1 chính
là β-Sitosterol
β-Sitosterol (HD-1)
Hợp chất HD-2 là chất rắn màu trắng, sau
khi kết tinh lại trong metanol thu được tinh
thể hình kim, nóng chảy ở 316-3180C, dễ tan
trong dung môi ít phân cực, khó tan trong
nước. Phổ FT-IR cho vân hấp thụ mạnh, rộng,
tù ở vùng 3400 cm-1 đặc trưng cho dao động
hóa trị của nhóm OH Phổ 1H-NMR (500MHz,
CDCl3, TMS, δ ppm): 3,37 (1H, q, J=6Hz, H-
3), 2,91 (1H, m, H-19) 4,69 (1H,d, J=2Hz, H-
29)và 4,56 (1H,m, H-29) 1,64 (3H, s, H-30)
Phổ 13C-NMR (125MHz, DMSO, TMS, δ
ppm) cho thấy 37,59 (t, C-1); 27,12 (t, C-2);
76,79 (d, C-3); 39,92 (t, C-4); 54,90 (d, C-5);
17,94 (t, C-6); 33,92 (t, C-7); 40,24 (d, C-8);
49,94 (d, C-9); 38,27 (s, C-10); 20,45 (t, C-11);
25,07 (t, C-12); 38,46 (d, C-13); 41,98 (s, C-
14); 31,70 (t, C-15); 36,32 (t, C-16); 55,39 (s,
C-17); 48,55 (d, C-18); 46,58 (d, C-19); 150,26
(s, C-20); 30,10 (t, C-21); 39,00 (t, C-22); 27,78
(q, C-23); 15,70 (q, C-24); 15,90 (q, C-25);
15,74 (q, C-26); 13,36 (q, C-27); 177,17 (s, C-
28); 109,55 (, C-29) ; 18,92 (q, C-30).
Các đặc trưng về phổ của chất HD-2 hoàn
toàn phù hợp với các dữ liệu về phổ của axit
betulinic đã được công bố trên tạp chí [2-5]
CH2
H3C
OH
CH3 CH3
CH3
H3C CH3
HO
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
1920 21
22
23 24
25
26
27
28
29
30
O
Đinh Thúy Vân và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 86(10): 121 - 125
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 123
Axit betulinic (HD-2)
Chất ED-1 Tinh thể hình kim không màu,
điểm chảy 296-298 0C. 1H-NMR (500MHz,
CDCl3, TMS, δ ppm): 3,41 (1H, m, H3α);
5,32 (1H, dd, J=5Hz và 2Hz, H-6); 5,11 (1H,
dd, J=15Hz và 5Hz, H-22); 5,03 (1H, dd,
J=15Hz và 5Hz, H-23); 1,00 (3H, s, H-18);
0,95 (3H, d, J21-20 = 6,4Hz, H-21); 0,85 (3H,
d, J26-25 = 7,2Hz, H-26); 0,83 (3H, d, J29-27 =
6,5Hz, H-29);0,80 (3H, d, J28-27 = 6,5Hz, H-
28); 0,70 (3H, s, H-19); 4,3 (d, J1’-2’ = 7,8Hz,
H-1’ phần đường); và các tín hiệu của các
proton thuộc các C carbinol phần đường
glucozơ có độ dịch chuyển hóa học nằm trong
khoảng 3,2 – 3,9 ppm. 13C-NMR (125MHz,
DMSO, TMS, δ ppm): Phần đường gồm:
100,7 (d, C-1’); 73,3 (d, C-2’); 76,4 (d, C-3’);
70,1 (d, C-4’); 76,9 (d, C-5’); 61,9 (d, C-6’);
Phần genin: 38,1 (t, C-1); 29,5 (t, C-2); 71,7 (d,
C-3); 42,2 (t, C-4); 140,6 (s, C-5); 120,8 (d, C-
6); 38,2 (t, C-7); 31,5 (d, C-8); 50,3 (d, C-9);
36,0 (s, C-10); 24,4 (t, C-11); 38,2 (t, C-12);
31,5 (s, C-13); 56,1 (d, C-14); 25,6 (t, C-15);
31,1 (t, C-16); 55,4 (d, C-17); 15,0 (q, C-18);
18,6 (q, C-19); 45,1 (d, C-20); 20,8 (q, C-21);
137,5 (d, C-22); 128,7 (d, C-23); 49,5 (d, C-24);
33,2 (d, C-25); 20,5 (q, C-26); 19,3 (d, C-27);
18,8 (q, C-28); 11,7 (q, C-29).
So sánh đối chiếu các dữ liệu phổ của chất
ED-1 với các dữ liệu phổ của chất 3β-O-
stigmasterol-glucopyranosid hoàn toàn
phù hợp cho phép quy kết chất ED-1 là
3β-O-stigmasterol-glucopyranosid.
O
O
OH
HO
OH
HO
3β-O-stigmasterol-glucopyranosid (ED-1)
Bảng 1.Độ chuyển dịch hóa học trong phổ NMR của các chất ED-2 và ED-3
Vị trí Chất ED-2 Chất ED-3
ACD (tính) δC (ppm) δH (ppm) ACD (tính) δC (ppm) δH (ppm)
2 149,54 146,94 163,65 163,27
3 136,30 136,387 102,65 101,97 6,68 s
4 173,50 176,18 182,20 181,13
5 160,50 160,37 152,90 14,34
6 99,20 98,77 6,43, d,J=2 127,90 126,06
7 162,90 162,75 157,40 157,22
8 94,80 94,41 6,82, d,J=2 94,40 100,19 6,69 s
9 156,00 156,72 152,20 152
10 108,33 104,71 104,60 100,90
1’ 123,10 123,93 121,20 121,27
2’ 129,30 129,42 8,17 dd 128,15 128,96 8,15 d
3 113,90 114,05 7,14 dd, 115,80 115,88 6,90 d
4’ 164,90 160,61 160,90 160,92
5’ 113,90 114,047 7,14; (dd, 115,80 115,88 6,90 d
6’ 129,30 129,42 8,17; dd, 128,50 128,96 8,15 d
1’’ 100,50 99,87 5,13(d,J=5) 103,50 106,46 4,67 d
2’’ 73,40 73,08 3,28 733,50 72,89 3,26 m
3’’ 76,70 76,39 3,33 75,90 76,42 3,16 m
4’’ 70,10 69,54 3,18 m 71,30 72,41 3,58 m
5’’ 77,30 77,13 3,45 m 75,50 76,01 3,60 d
6’’ 61,20 60,58 3,46 m 169,9 171,95
4’. OCH3 55,25 55,35 3,85 s
Đinh Thúy Vân và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 86(10): 121 - 125
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 124
Chất ED-2 là chất rắn vô định hình (15mg) màu
vàng sáng, nóng chảy và bị phân hủy ở 2820C,
Phổ IR cho các vân đặc trưng cho dao động hóa trị
của nhóm C=O ở vùng 1665cm-1 và vân ở vùng
3405 cm
-1
cho biết có dao động hóa trị của nhóm
OH. Phổ 1H-NMR (500MHz, DMSO, TMS, δ
ppm): 12,77 (1H, s ) là tín hiệu đặc trưng của
nhóm OH ở vị trí C-5 trong các hợp chât
flavonoit vì nhóm OH tạo ra vòng với Oxi ở vị trí
C-4 bằng liên kết hiđro. Phổ 13C-NMR và phổ
DEPT cho biết chất ED-2 có 22 nguyên tử
cacbon bao gồm 1 nhóm CH3, 1 nhóm CH2, 11
nhóm CH và 9 cacbon bậc 4. Nguyên tử C-1 của
phần đường cho δC ở 99,87ppm có thể quy kết
chất ED-2 tồn tại ở dạng O-glucozit. Độ chuyển
dịch hóa học của từng vị trí được trình bày ở bảng
1.
Căn cứ vào kết quả ghi phổ của chất ED-2, so
với phần mềm tính được do mô phỏng của chất
3,5-đihyđroxy-4’-metoxi-7-O-glucosylflavon cho
thấy có sự tương thích rất tốt, với sự sai số cho
phép để có thể khẳng định chât ED-2 là 3,5-
đihyđroxy-4’-metoxi-7-O-glucosylflavon.
O
OCH3
OH
O
O
OH
O
OH
HO
HO OH
3,5-đihyđroxy-4’-metoxi-7-O-glucosylflavon
(ED-2)
Chất ED-3 thu được sau phân đoạn ED-2, khi
rửa giải cột sắc kí bằng hệ dung môi etyl axetat-
metanol (7:3) sau đó được kết tinh lại trong
metanol thu được 16 mg chất rắn màu vàng. Phổ
FT-IR cho biết có vân đặc trưng cho dao động
hóa trị ở 3350cm-1 và các vân đặc trưng cho dao
dộng hóa trị của liên kết C=O ở vùng 1690cm-1.
Phân tích sơ bộ phổ NMR của chất ED-3 cho
thấy cũng tương tự như phổ của chất ED-2 điều
này cho biết chất ED-3 cũng là một flavonoit.
Khi phân tích chi tiết cho thấy chất ED-3 chỉ có
21 nguyên tử cacbon gồm 11 nhóm CH và 10
cacbon bậc 4, trên phổ DEPT không thấy nhóm
CH3 và nhóm CH2. Nguyên tử cacbon của nhóm
CH có δC=101,98 và hiđro liên kết với nó có
δH=6,68 s chính là cacbon C-3 đặc trưng cho vị
trí C-3 của các flavon.
Nguyên tử cacbon C-1’’ của đường cho
δC=106,46 chứ ng tỏ đường liên kết với flavon
bằng liên kết O-glucosyl. Phổ 13C-NMR còn có
2 cacbon cho độ chuyển dịch hóa học ở trường
yếu với δC=181,13 và δC=171,95 chứng tỏ phân
tử ED-3 có 2 nhóm C=O trong đó nhóm C=O có
δC=181,13 là nhóm C=O tại C-4 còn nhóm C=O
có δC=171,95 là nhóm C=O trong nhóm
cacboxyl của axit glucuronic. Số liệu chi tiết về
phổ NMR của chất ED-3 và số liệu tính toán từ
phần mềm của công thức mô phỏng được trình
bày ở bảng 3.1. Như vậy từ công thức giả định
và phổ NMR chúng tôi ghi được của chất ED-3
có sự phù hợp cao, vì vậy chúnh tôi quy kết chất
ED-3 là 5,7,4
’
-trihidroxi-6-O-glucusyl-6
’’
-oic-
flavon.
OHO
OH O
O
OH
O
OHO
OHHO
HO
5,7,4’-trihidroxi-6-O-glucusyl-6’’-oic-flavon
(ED-3)
KẾT LUẬN
Từ các dịch chiết bằng n-hexan và etyl axetat
của lá cây sổ Dillenia indica đã phân lập được 5
chất tinh khiết, gồm 2 steroit, 1 tritecpen và 2
flavonoit, đã chứng minh được cấu trúc hóa học
của chúng. Các chất flavonoit là các chất chưa
có tài liệu nào công bố có trong thực vật
Dillenia indica, đó cũng là các lớp chất có hoạt
tính sinh học cao, có tác dụng tiêu độc, kháng
oxi hóa tốt..
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Đỗ Tất Lợi, (1999). “Những cây thuốc và vị thuốc
Việt Nam” Nxb Y học Hà Nội- 1999.
[2].Phạm Văn Thỉnh, Lê Văn Kiên, (2010), Các
tritecpenoit trong vỏ cây sổ Dillenia indica. Tạp chí
Khoa học & Công nghệ. T.69(07), tr 125-129.
[3]. Shashi B., Mahato and Asish P. Kundu (1985).
13
C-
NMR spectra of pentacyclic triterpenoids –a
compilation and some salient features. Phytochemistry,
Vol-39 (6) p. 1417- 1574.
[4]. Kamala.P, Trwari, Sariti. D, Srivastava and Santosh
(1980). K. α-L-Ramnopyranozyl-3β-hidroxylup-20(29)-en-28-oic
acid from the stem of Dillenia pentagina. Phytochemistry Vol-19,
p 980-981.
[5]. Andre Nick, Anthony D, Wright, (1995).
Atinbacterial triterpenoids from Dillenia Papuana and
their structure- activity relationships Phytochemistry,
Vol-40 (6) p. 1691- 1695.
Đinh Thúy Vân và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 86(10): 121 - 125
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 125
SUMMARY
PRIMARY STUDY ON THE CHEMICAL COMPOSITION
FROM DILLENIA INDICA L. BARK
Dinh Thuy Van
, Nguyen Thi Mai, Pham Van Thinh
College of Education - TNU
Dillenia indica grows common in our country’s moutains. According to oriental medicine, it’s leaves and bark
used as Vietnamese traditional medicine treatment. By the method of column chromatography with silicagel
absorbent was isolated from n-hexane extraction residue of the leaves Dillenia indica two steroid and a
tritecpenoit. from ethyl acetate extracts were isolated three substances.The chemical structure of these compounds
was determined by spectral methods such as ESI-MS, FT-IR, NMR is stigmatsterol; β-sitosterolglucosid,
betulinic acid and two flavonoid: 3,5-dihydroy-4’-metoxy-flavones-7-O-L-glucozyt and 5,7,4
’
-trihydroxy-6-O-L-
glucusyl-6
’’
-oic-flavon.
Key words: Dillenia indica, stigmatsterol, β-sitosterol, flavonoit, 3,5-đihiđroy-4
’
metoxy-flavon-7-O-L-
glucosylflavon; betulinic, 5,7,4
’
-trihyđroxy-6-O-L-glucusyl-6
”
-oic-flavon.
Tel: 0912 132563, Email phamvanthinhsptn@gmail.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- brief_32778_36617_238201281612motsoketquanghiencuubandau_7958_2052675.pdf