Implementation of the training credit- based is a requirement of education reform in modernization
in order to improve the quality of training to meet the human resource needs of the country and
catch up with the advanced level of the world. To meet the training requirements of the creditbased, with individual differences and the characteristics of a multi-disciplinary training as the
Thai Nguyen university of education, in permit conditions, it may be to focus on the problem the
following:
1. Adjust the content, curriculum and syllabus
2. Innovation methods; the organization of classroom teaching
3. Advanced professional training issues; building human resources and facilities.
5 trang |
Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 423 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy học theo hệ thống tín chỉ tại trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hồ Thị Mai Phương Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 103(03): 73 - 77
73
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC
THEO HỆ THỐNG TÍN CHỈ TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM -
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
Hồ Thị Mai Phương*
Trường Đại học Sư phạm - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Thực hiện đào tạo theo học chế tín chỉ là một yêu cầu của đổi mới giáo dục theo hướng hiện đại
hóa để nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực của đất nước và đuổi kịp
trình độ tiên tiến của thế giới. Chất lượng và tiện ích của đào tạo theo tín chỉ so với đào tạo niên
chế là điều đã được khẳng định. Để đáp ứng được yêu cầu của đào tạo tín chỉ, với sự khác biệt
riêng và đặc thù của một trường sư phạm đa ngành, trong điều kiện cho phép cần bồi dưỡng
nguồn nhân lực theo hướng chuẩn hoá , chuyển biến căn bản nội dung, chương trình, phương pháp
dạy học trên cơ sở gắn liền với việc xây dựng hệ thống cơ sở vật chất, phương tiện dạy học. Tất cả
những điều đó góp phần nâng cao chất lượng day học theo hệ thông tín chỉ đáp ứng được yêu cầu
của xã hội.
Từ khóa: đại học Sư phạm Thái Nguyên, đào tạo tín chỉ, Quy định, vấn đề đào tạo đổi mới.
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Giáo dục Đại học Việt Nam đang bắt đầu một
cuộc cách mạng mới, tạo môi trường và điều
kiện cho người học được học tập suốt đời
trong một xã hội học tập. Chuyển đổi hình
thức đào tạo từ niên chế sang học chế tín chỉ
là thực hiện cuộc cách mạng giáo dục nhằm
đáp ứng nhu cầu xã hội. Việc đổi mới phương
thức đào tạo theo tín chỉ không ngoài mục
đích tìm đến một chất lượng cao cho nền Giáo
dục Đại học. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần
phải nhận thức rõ về những ưu thế và thách
thức trong đào tạo theo học chế tín chỉ ở bậc
đại học.
Những năm gần đây, nhiều trường đại học ở
Việt Nam đã và đang tiến hành đào tạo theo
học chế tín chỉ. Từ thực tế cho thấy hình thức
đào tạo này có nhiều ưu điểm đối với người
học, đó là:
- Sinh viên được chủ động lập kế hoạch, lựa
chọn tiến độ học tập cho mình. Những tín chỉ
chung có thể áp dụng cho nhiều ngành, sinh
viên có thể lựa chọn để học tập, tích lũy phù
hợp với điều kiện đi lại và hoàn cảnh của
bản thân.
- Thời lượng lên lớp giảm mạnh, giúp cho
sinh viên có nhiều thời gian tự học, tự nghiên
*
Tel: 0915 590027, Email: hophuong1864@gmail.com
cứu. Hầu hết các môn học đều giảm khoảng
trên dưới 40% số tiết lên lớp, như vậy, sẽ có
một phần lớn kiến thức sinh viên phải tự
nghiên cứu để nắm vững mà không cần phải
lên lớp. Điều này có tính hợp lý, có nhiều vấn
đề sinh viên có thể tự mình đọc hiểu. Tự học
sẽ tiết kiệm được nhiều thời gian để sinh viên
có thể học được nhiều kiến thức hơn. Đây là
điều cần thiết nhằm phát huy tính chủ động
sáng tạo của người học.
- Nhờ tính liên thông nên có thể giúp sinh
viên thay đổi chuyên ngành mà không phải
học lại từ đầu. Sinh viên cũng có thể học thêm
ngành học để giải quyết vấn đề việc làm cho
tương lai và đáp ứng được nhu cầu xã hội.
- Nâng cao khả năng liên thông giữa các
trường đại học trong nước và trên thế giới,
nâng cao khả năng hội nhập. đồng thời khai
thác được đội ngũ giảng viên giỏi, trình độ
cao trong khu vực và cả nước.
Bên cạnh đó còn nảy sinh những thách thức,
đó là sự cạnh tranh trong việc đáp ứng yêu
cầu của người học. Người học sẽ tìm đến
những giảng viên có uy tín, có trình độ
chuyên môn cao, nhiệt tình và phương pháp
dạy học tốtThông qua quá trình lựa chọn
của người học, uy tín của giảng viên sẽ được
củng cố và nâng cao.
76Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Hồ Thị Mai Phương Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 103(03): 73 - 77
74
Như vậy, ưu điểm lớn nhất của đào tạo theo
học chế tín chỉ đó là tính mềm dẻo của quá
trình đào tạo, tính hiệu quả về chi phí, khả
năng thích ứng cao của người học..., nhưng
đồng thời đào tạo theo học chế tín chỉ cũng
thể hiện tính cạnh tranh và đào thải trong quá
trình đào tạo, đây là một trong những những
thách thức lớn đối với người học và đội ngũ
giảng viên.
THỰC TRẠNG CHUNG
Thực hiện đào tạo theo học chế tín chỉ là một
yêu cầu của đổi mới giáo dục theo hướng hiện
đại nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, đáp
ứng nhu cầu nguồn nhân lực của đất nước và
đuổi kịp trình độ tiên tiến của thế giới. Chất
lượng và tiện ích của đào tạo theo tín chỉ so
với đào tạo niên chế là điều đã được khẳng
định qua quá trình đào tạo nhiều năm ở các
trường đại học uy tín trên thế giới. Cùng với
các trường đại học trong cả nước, Trường Đại
học sư phạm- Đại học Thái Nguyên bắt đầu
đào tạo theo học chế tín chỉ từ năm học 2008-
2009. Nhìn lại quá trình thực hiện mấy năm
qua ai cũng có thể nhận thấy ưu điểm của loại
hình đào tạo này so với đào tạo theo niên chế
trước đây. Tuy nhiên, trên thực tế đang trong
quá trình triển khai, việc chuyển đổi còn
không ít khó khăn- thách thức về nguồn nhân
lực, cơ sở vật chất, phải tập chung tháo gỡ.
Cụ thể là:
+ Khả năng tự học, tự nghiên cứu của sinh
viên còn thiếu tính chủ động, tư tưởng và thói
quen học tập chưa phù hợp với việc đào tạo
theo học chế tín chỉ. Đào tạo tín chỉ với việc
giảm thời lượng lên lớp không phải là giảm
yêu cầu học tập. Tuy vậy, hiện nay một số lớn
sinh viên chưa hiểu được điều này, nên không
phải sinh viên nào cũng dùng thời gian dôi ra
để tự nghiên cứu. Vì vậy, việc giảm thời gian
lên lớp về lý thuyết là có lợi, nhưng trên thực
tế đối với đa số sinh viên chưa phải là tốt đặc
biệt là sinh viên vùng miền như của chúng ta.
+ Sinh viên chưa chủ động lựa chọn môn học
và thầy dạy, việc học cải thiện theo khả năng
và nguyện vọng còn nhiều vướng mắc do chủ
quan cũng như khách quan, điều đó dẫn đến
những khó khăn đối với sinh viên khi muốn
học thêm ngành để phòng bị cho tương lai.
+ Về đội ngũ giảng viên: Chưa có đội ngũ trợ
giảng theo mô hình của học chế tín chỉ, tỉ lệ
số sinh viên trên một giảng viên còn quá lớn,
Đội ngũ giảng viên dày kinh nghiệm còn
mỏng chưa đủ để đáp ứng kịp thời nhu cầu
đào tạo theo tín chỉ. Việc bồi dưỡng chuyên
môn, cập nhật tri thức mới, đặc biệt là những
thông tin về đổi mới phương pháp dạy và
kiểm tra đánh giá trong đào tạo theo tín chỉ
cũng còn gặp nhiều khó khăn. Người dạy
chưa thích ứng với yêu cầu đào tạo tín chỉ
trong một thời gian ngắn, từ việc chuẩn bị
giáo trình, đề cương bài giảng đến việc xây
dựng các bài tập nhận thức, bài tập nghiên
cứu cho sinh viên, thay đổi phương pháp dạy
cũng là vấn đề cần phải nhìn nhận. Tất cả đều
làm cho kết quả, chất lượng đào tạo chưa thật
sự đáp ứng tốt yêu cầu chung của xã hội.
+ Đội ngũ cố vấn còn yếu, chưa am hiểu nội
dung, chương trình đào tạo nên việc tư vấn
cho sinh viên còn thiếu tính hợp lý.
+ Cơ sở phòng học chưa thích ứng, lớp tín chỉ
quá đông (có những lớp trên 100 sinh viên),
sinh viên phải ngồi chen chúc nhau, giảng
viên chỉ có thể thuyết trình, không có điều
kiện tổ chức trao đổi, thảo luận.
+ Về phương tiện, trang thiết bị dạy học tuy
đã được trang bị nhưng chưa đáp ứng cho
hoạt động độc lập và chủ động của các khoa,
các ngành học, Phòng ốc thiếu tính chủ động,
chưa có phòng bộ môn riêng cho đặc thù
ngành đào tạo, phương tiện thiết bị thực hành,
giáo trình và tài liệu để sinh viên tham khảo
và nghiên cứu còn hạn chế, các phương tiện
hiện đại để cập nhật thông tin đối với người học
chưa đáp ứng kịp thời nhu cầu của sinh viên.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP
Từ thực trạng trên, để đáp ứng được yêu cầu
của đào tạo tín chỉ, với sự khác biệt riêng và
đặc thù của một trường sư phạm đa ngành,
trong điều kiện cho phép có thể làm được
theo chúng tôi cần tập trung vào những vấn
đề sau:
* Điều chỉnh nội dung, cách thức biên soạn
giáo trình và đề cương bài giảng
Tất cả các học phần khi chuyển sang học chế
tín chỉ đều giảm tải thời gian lên lớp từ 30
77Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Hồ Thị Mai Phương Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 103(03): 73 - 77
75
đến 40 % so với niên chế, nhưng không được
cắt giảm nội dung cơ bản của chương trình,
chính vì vậy vấn đề đầu tiên của người giảng
viên là phải điều chỉnh lại nội dung, cấu trúc
bài giảng. Đây là điều kiện tiên quyết đồng thời
là một thách thức lớn đối với mỗi giảng viên.
Theo chúng tôi, cách biên soạn chương trình
và đề cương bài giảng theo hướng "lan tỏa"
và “tích hợp” là nhân tố quan trọng để nâng
cao chất lượng dạy học.
Việc biên soạn bài giảng theo hướng này tức
là chọn một số vấn đề cốt lõi mà từ những vấn
đề đó có thể hướng sinh viên nghiên cứu
nhiều vấn đề khác trong nội dung môn học.
Mỗi một học phần tùy theo số tín chỉ và nội
dung cơ bản có thể biên soạn thành một số
vấn đề và giữa các vấn đề có lô gic gắn kết
bắt buộc là một hướng đi phù hợp với môi
trường đào tạo đa ngành.
Ví dụ: Đối với học phần "Phương pháp dạy
học các nội dung môn toán ở trường trung
học cơ sở", trong nội dung đào tạo niên chế
thời lượng tới 5 đơn vị học trình, với 7
chương cơ bản, khi chuyển sang đào tạo tín
chỉ được rút ngắn còn 4 tín chỉ, nhưng để
thích hợp theo hình thức đào tạo tín chỉ chúng
tôi biên soạn lại theo 4 nội dung lớn: Hoạt
động số học và đại số, hoạt động hình học,
hoạt động tính toán và sử lý số liệu thống kê,
hoạt động ôn tập và kiểm tra đánh giá. Với 4
hoạt động đó, tính lô gíc lan tỏa của nội dung
chương trình không những chỉ chuyển tải
được tất cả những nội dung cơ bản của học
phần mà còn hướng cho sinh viên mở rộng và
cập nhật được nhiều vấn đề trong trong chuỗi
các môn học của chương trình đào tạo như đại
số sơ cấp, lý thuyết số, hình học sơ cấp,
Tạo cho sinh viên nhận thức được tính logic,
đồng tâm của môn học với nghiệp vụ với các
môn chuyên ngành. Quan trọng hơn việc biên
soạn giáo trình, bài giảng như vậy giảng viên
sẽ xây dựng được những bài tập nhận thức và
bài tập nghiên cứu cho sinh viên. Điều này có
thể hướng sinh viên tự học, tự nghiên cứu và
giúp cho việc đánh giá chuẩn xác.
* Đổi mới phương pháp, cách thức tổ chức
dạy học trên lớp
Trước hết cần phải đổi mới trong tư duy nhận
thức của giảng viên và sinh viên, dạy học ở
đại học theo đúng nghĩa là dạy cách học.
- Dạy cho sinh viên cách lập kế hoạch học
tập: sinh viên phải xác định rõ cần đạt được
những gì sau khi học bài này, phần này,
cách lập kế hoạch thực hiện cho từng môn
học, lập kế hoạch để làm chủ được thời gian
cho học tập.
- Dạy cho sinh viên cách học bài: Dạy cách
học cá nhân như biết phân tích, tổng hợp,
đánh giá, kết nối các vấn đề với nhau để xác
lập được mối quan hệ giữa các hệ thống kiến
thức. Cách tìm tòi, phát hiện những nội dung
tri thức mới mà người thầy yêu cầu hoặc chưa
đề cập tới. Dạy cách học hợp tác (học nhóm),
cách giao tiếp, cách trình bày ý kiến, ý tưởng
của mình trước tập thể nhóm, cách thuyết
phục tập thể, cách lắng nghe và lựa chọn ý
kiến, đồng thời biết cách tổ chức, quản lí từ
một nhóm nhỏ đến một tập thể lớn trong học
tập và nghiên cứu.
- Dạy sinh viên cách đọc tài liệu và ghi nhớ:
Dạy lựa chọn tài liệu phù hợp với chuyên
môn, với trình độ của bản thân. Dạy cách ghi
chép thông tin từ đọc sách và cách lưu giữ
những thông tin đó để bổ sung bài giảng và
tra cứu .
- Dạy cho sinh viên cách nghiên cứu và giải
quyết vấn đề: Dạy cách xây dựng đề cương,
thu thập tư liệu, cách phân tích, tổng hợp và
nhận xét vấn đề.
- Dạy sinh viên cách tư duy. Chẳng hạn cuối
mỗi bài dành 3 – 5 phút yêu cầu sinh viên
viết ra 2-3 vấn đề chính của bài giảng mà họ
cho là quan trọng nhất, và giải thích sự lựa
chọn của mình, khuyến khích, tạo điều kiện
cho sinh viên nhận biết, hiểu và giải thích các
mối liên hệ giữa các kiến thức, giữa các vấn đề.
Ví dụ: Khi dạy hoạt động số học và đại số,
nên đặt nó trong tổng thể của các hoạt động
toán học điển hình, khuyến khích sinh viên
giải quyết được các mối liên hệ giữa hoạt
động số học và đại số với các hoạt động : Dạy
học khái niệm, dạy học định lý và dạy giải bài
tập toán.Từ mối liên hệ đó sinh viên sẽ rút ra
được đặc điểm riêng cho phương pháp dạy
học các vấn đề cụ thể trong khi dạy hoạt động
số học và đại số
78Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Hồ Thị Mai Phương Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 103(03): 73 - 77
76
* Nâng cao việc bồi dưỡng chuyên môn
nghiệp vụ, xây dựng nguồn lực con người và
cơ sở vật chất
- Cung cấp đầy đủ thông tin về giảng viên để
sinh viên có điều kiện lựa chọn. Đó là những
thông tin cơ bản về lí lịch khoa học, về giáo
trình, về những thành tích nổi bật trong quá
trình dạy học....
- Xây dựng nguồn nhân lực, đặc biệt là đội
ngũ giảng viên có bề dày kinh nghiệm, đội
ngũ trợ giảng lành nghề, đội ngũ cố vấn am
hiểu nội dung chương trình và linh hoạt trong
khâu tư vấn . .
- Hoàn thiện và bổ sung giáo trình, đề cương
bài giảng theo cách đào tạo tín chỉ.
- Có những hiểu biết cơ bản về phương pháp
dạy học theo hình thức tín chỉ trong từng khâu
của quá trình lên lớp:
+ Tập trung trình bày cho sinh viên những nội
dung trọng tâm, khuyến khích và khai thác
hiệu quả các ý kiến trao đổi giúp sinh viên
hoàn thiện nhận thức của mình.
+ Nêu các vấn đề, tạo không khí học tập,
trong đó sinh viên được khuyến khích tìm tòi,
phát hiện những kiến thức, kĩ năng cần thiết
để giải quyết vấn đề mà giảng viên nêu ra.
+ Giao các bài tập, buộc sinh viên phải làm
việc theo nhóm ở trên lớp cũng như ngoài giờ
học. Nhằm khuyến khích tư duy và hình
thành những phương pháp học tập hữu hiệu,
cách thức hợp tác và diễn đạt các ý tưởng của
từng cá nhân.
+ Ra các câu hỏi, bài tập buộc sinh viên phải
giải quyết theo nhiều hướng, nhiều quan điểm
khác nhau và đòi hỏi phải có giải thích, đánh
giá, rút ra kết luận.
+ Cần tổ chức và kết hợp nhiều hình thức dạy
học: cá nhân, nhóm và tập thể để có thể phát
huy tối đa năng lực tư duy của từng sinh viên,
của nhóm và của cả tập thể.
+ Cần nêu rõ mục đích, những câu hỏi đánh giá
và nguồn tài nguyên tham khảo làm định hướng
cho việc tự học, tự nghiên cứu của sinh viên.
- Về khâu tổ chức và quản lý: Thường xuyên
tiến hành dự giờ rút kinh nghiệm, sinh hoạt
chuyên môn định kì để trao đổi chuyên môn,
phương pháp giảng dạy giữa các giảng viên
cùng chuyên ngành hẹp.
- Khâu kiểm tra đánh giá cần có nhiều hình
thức đa dạng và phù hợp với học tập theo kiểu
tích luỹ, tỉ trọng điểm chuyên cần và điểm thi
có thể là 50/50, đa dạng phương thức đánh
giá học phần như báo cáo chuyên đề làm bài
tập lớn, thi kết thúc hoặc thi giữa kì thời
gian dành cho ôn thi các môn cần đủ theo qui
định của đào tạo theo tín chỉ.
- Khuyến khích ứng dụng công nghệ thông tin
vào giảng dạy để khai thác được tiềm lực của
công nghệ hiện đại vào đổi mới phương pháp
dạy học.
- Bố trí phòng ốc, thời gian lên lớp khoa học
để sinh viên có thời gian tự học (theo tiêu chỉ
để tiếp thu 1 tín chỉ sinh viên phải dành ít
nhất 30 giờ chuẩn bị cá nhân) . Mỗi phòng
học nên có một máy tính, một máy chiếu và
một màn chiếu lắp đặt sẵn, thêm một tấm
bảng kéo để viết bên cạnh màn chiếu. Phòng
học chỉ nên có khoảng 50 sinh viên, ngồi
thoải mái, mỗi bàn có ổ cắm điện để sinh viên
có thể sử dụng máy tính cá nhân.
- Thư viện cần được tổ chức tiện lợi cho việc
đọc và mượn sách .
- Một điều không thể thiếu là giúp sinh viên
nhận thức rõ những cơ hội mà đào tạo theo hệ
thống tín chỉ tạo ra cho họ.
- Hệ thống tổ chức, đào tạo cần ổn định, hoạt
động đồng bộ.
KẾT LUẬN
Đào tạo theo học chế tín chỉ đã, đang và sẽ
mở ra những cơ hội cùng những thách thức
mới. Để thực hiện việc đào tạo theo học chế
tín chỉ với chất lượng ngày càng nâng cao,
chúng ta cần phải thẳng thắn nhìn nhận những
yếu kém cùng những bất cập để có chiến lược
phát triển phù hợp.
Với nguồn nhân lực được chuẩn hoá cùng
những chuyển biến căn bản trong đổi mới nội
dung, chương trình, phương pháp dạy học
trên cơ sở gắn liền với việc xây dựng hệ
thống cơ sở vật chất, phương tiện dạy học tiên
tiến, hiện đại, chúng tôi tin tưởng rằng chất
lượng day học theo hệ thông tín chỉ tại trường
Đại học Sư phạm- Đại học Thái Nguyên
không ngừng được nâng cao đáp ứng nhu cầu
của xã hội và hội nhập quốc tế.
79Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Hồ Thị Mai Phương Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 103(03): 73 - 77
77
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Quy định đào tạo Đại học và Cao đẳng hệ
chính quy theo hệ thống tín chỉ số 595/ QĐ-ĐT-
ĐHSP Đại Học Thái Nguyên - 2011.
[2]. Phạm Xuân Hậu "Một số giải pháp nâng cao
chất lượng đào tạo theo tín chỉ ở các trường đại
học Việt Nam", Kỉ yếu Hội thảo khoa học lần 2,
Trường Đại học Sư phạm I Hà Nội . (2007),
[3]. Lê Đức Ngọc, "Phương pháp dạy và học đại
học áp dụng trong học chế tín chỉ", Kỉ yếu Hội
thảo khoa học lần 2, Trường Đại học Sư phạm I
Hà Nội. (2007)
SUMMARY
SOME SOLUTIONS TO IMPROVE TEACHING QUALITY BY CREDIT -
BASES SYSTEM AT THE THAI NGUYEN UNIVERSITY OF EDUCATION
Ho Thi Mai Phuong*
College of Education - TNU
Implementation of the training credit- based is a requirement of education reform in modernization
in order to improve the quality of training to meet the human resource needs of the country and
catch up with the advanced level of the world. To meet the training requirements of the credit-
based, with individual differences and the characteristics of a multi-disciplinary training as the
Thai Nguyen university of education, in permit conditions, it may be to focus on the problem the
following:
1. Adjust the content, curriculum and syllabus
2. Innovation methods; the organization of classroom teaching
3. Advanced professional training issues; building human resources and facilities.
Keyword: At the thai Nguyen university of education, Credit- based training, Regulate, innovation
training issues.
Ngày nhận bài:23/11/2012, ngày phản biện:30/11/2012, ngày duyệt đăng:26/3/2013
*
Tel: 0915 590027, Email: hophuong1864@gmail.com
80Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- brief_38513_42062_148201310473673_2658_2052038.pdf