Kiến nghị
Nhà nước quan tâm nhiều hơn nữa đối
với hoạt động khai thác thủy sản với những
chủ trương, chính sách sát thực về kỹ thuật
và nhân lực theo hướng an toàn và hiệu quả,
cũng như khâu kiểm tra giám sát kỹ thuật.
Cụ thể:
- Tiến hành kiểm tra, giám sát an toàn kỹ
thuật tàu và hệ động lực đảm bảo chất lượng
tốt ngay từ khâu thiết kế, đóng mới và trong
khai thác theo quy chuẩn thật đầy đủ và
nghiêm túc (Đăng kiểm tàu cá) trên cơ sở có
đủ hồ sơ máy, tàu và thiết bị cảnh báo sự cố
cho hệ động lực.
- Có chính sách đặc biệt về nâng cao dân
trí cho ngư dân và đào tạo nhân lực nghề
cá. Vận động ngư dân tham gia các lớp đào
tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ kỹ thuật,
chuyên môn.
- Xã hội hóa công tác hỗ trợ ngư dân trong
việc bồi dưỡng nguồn nhân lực (vận động các
nhà tài trợ hỗ trợ ngư dân).
- Giám sát việc tuân thủ đúng quy chế và
chú ý đến chất lượng trong đào tạo, bồi dưỡng
nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho
thuyền trưởng, máy trưởng trên cơ sở nội
dung, chương trình đào tạo được chuẩn hóa
(đưa kiến thức phần máy và chương trình đào
tạo thuyền trưởng tàu cá).
6 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 23/03/2022 | Lượt xem: 216 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số giải pháp góp phần khai thác an toàn và hiệu quả hệ động lực tàu cá, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2016
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 143
VAÁN ÑEÀ TRAO ÑOÅI
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN KHAI THÁC AN TOÀN VÀ HIỆU QUẢ
HỆ ĐỘNG LỰC TÀU CÁ
SOME MEASURES CONTRIBUTING SAFE AND EFFICIENT EXPLOITATION TO
MAIN ENERGY EQUIPMENT OF SMALL FISHING BOATS
Nguyễn Đình Long1
Ngày nhận bài: 23/02/2016; Ngày phản biện thông qua: 15/5/2016; Ngày duyệt đăng: 15/6/2016
TÓM TẮT
Việc khai thác an toàn và hiệu quả hệ động lực tàu cá không chỉ có ý nghĩa về kinh tế mà còn góp phần
đáng kể trong việc đảm bảo an toàn cho tàu và người trên tàu.
Từ khóa: Hệ động lực, tàu cá, khai thác, an toàn, hiệu quả
ABSTRACT
The safe and effi cient exploitation of main energy equipment not only brings economical benefi ts, but also
contributes signifi cantly to ensure the safety of small fi shing boats and their crew.
Key words: Main energy equipment, fi shing boat, exploitation, safe, effi cient
1 Khoa Kỹ thuật giao thông – Trường Đại học Nha Trang
I. MỞ ĐẦU
Với hơn 3 nghìn km bờ biển, nước ta được
thiên nhiên ưu đã về tiềm năng biển. Hoạt
động khai thác thủy sản không chỉ mang lại lợi
ích kinh tế mà còn cả lợi ích về an ninh quốc
phòng và đặc biệt là về mặt xã hội, giải quyết
công ăn việc làm cho một số lượng lớn lao
động của cư dân ven biển.
Trong những năm gần đây, Nhà nước đã
chú trọng đến việc phát triển ngành thủy sản
nói chung và khai thác thủy sản nói riêng theo
hướng bền vững, thể hiện ở chỗ đã dành sự
quan tâm đặc biệt đến hoạt động khai thác
thủy sản thông qua chương trình phát triển
đội tàu đánh bắt xa bờ từ năm 1997, đặc
biệt là Nghị định 67/2014/NĐ-CP và Nghị
định 89/2015/NĐ-CP của Chính phủ về một
số chính sách phát triển thủy sản nhằm tạo
điều kiện thuận lợi hơn nữa cho ngư dân
vươn khơi bám biển, cùng với việc đẩy mạnh
các hoạt động nghiệp vụ nhằm đảm bảo an
toàn cho người và tàu thuyền khi hoạt động
trên biển.
Tuy nhiên, nghề cá nước ta vẫn là nghề
cá nhân dân, với 2 đặc điểm chính: tàu thuyền
thuộc loại nhỏ, chủ yếu được đóng bằng gỗ
(hơn 95%) theo kinh nghiệm dân gian; người
sử dụng không được đào tạo có hệ thống nên
việc khai thác tốt tàu và thiết bị là không thể.
Đồng thời, điều kiện hoạt động của tàu cá rất
khắc nghiệt, mọi sự trục trặc của tàu và thiết bị
đều là nguy cơ có thể dẫn đến mất an toàn cho
tàu và người. Thực tế cho thấy số tai nạn tàu cá
hàng năm có nguồn gốc do máy móc hư hỏng
chiếm số lượng lớn. Theo số liệu của Tổng cục
Thủy sản Bộ NN-PTNT, chỉ trong 5 năm (2007-
2012), cả nước đã xảy ra hơn 4.700 vụ tai nạn
tàu cá, làm chết 427 người, mất tích 213 người
và gần 1.400 người bị thương; hơn 60% số vụ
tai nạn là do tàu hỏng máy[1].
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2016
144 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Do đó, vấn đề là làm thế nào để góp phần
khai thác an toàn và hiệu quả hệ động lực
tàu cá.
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở vấn đề
Trên tàu thủy nói chung và tàu cá nói riêng,
hệ động lực (chủ yếu là động cơ chính) được
ví như “trái tim” của con tàu. Nếu có sự hỏng
hóc ở hệ động lực thì con tàu không thể hoạt
động được, nghĩa là không thực hiện được
nhiệm vụ đặt ra, đồng thời lúc này nguy cơ mất
an toàn cho tàu và người rất cao.
Thông thường, lỗi kỹ thuật do chế tạo rất
hiếm gặp, máy móc không đảm bảo an toàn
chủ yếu do sử dụng. Trước tiên là việc lựa
chọn động cơ chính (máy chính) và chân vịt
trang bị cho tàu không đảm bảo sự phù hợp
với tàu, tiếp theo là khâu khai thác: vận hành,
bảo dưỡng, sửa chữa.
Thực tế còn có nhiều bất cập liên quan
đến tàu thuyền nghề cá. Đó là do phần lớn tàu
được đóng theo kinh nghiệm dân gian, máy
chính trang bị cho tàu được lựa chọn không
dựa trên cơ sở khoa học, hầu hết thuộc loại đã
qua sử dụng, trong khi đó trình độ học vấn của
người vận hành còn thấp, không được đào tạo
chuyên môn thợ máy; thuyền trưởng (người lái
tàu) là người trực tiếp điều khiển động cơ (qua
hệ thống điều khiển từ xa) nhưng lại không có
kiến thức về nó. Do đó, hiệu quả khai thác tàu
không cao là tất yếu, máy móc dễ bị hư hỏng
và đặc biệt là nguy cơ tàu bị chìm bởi sóng gió
rất cao (do tàu ở trạng thái “thả trôi”), khó tránh
khỏi thiệt hại về nhân mạng.
Khai thác có hiệu quả ở đây bao gồm cả
hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả kinh tế, nhưng
tựu trung lại cũng vẫn là hiệu quả kinh tế. Về
mặt kỹ thuật cần khai thác hết tính năng của
máy móc thiết bị phù hợp với yêu cầu cụ thể
nhưng phải tránh tình trạng bị quá tải.
Sự quá tải ở động cơ có 2 dạng: quá tải
về cơ và quá tải về nhiệt. Nói chung cần phải
tránh quá tải, trừ trường hợp đặc biệt, có thể
cho động cơ làm việc quá tải ở mức tải và thời
gian cho phép với sự theo dõi sát sao.
Nguyên nhân khiến động cơ bị quá tải
trước nhất là nguyên nhân tiềm ẩn do việc
chọn máy chính và chân vịt không phù hợp với
thân tàu và nghề khai thác, kế đến là do người
vận hành không thực hiện đúng những quy
định về mặt kỹ thuật trong vận hành.
Ở các tài liệu chuyên môn, khi khảo sát các
chế độ làm việc của động cơ chính trong tổ hợp
tàu (cùng với thân tàu và chân vịt) ta thấy miền
các chế độ làm việc của động cơ như hình 1
[3] (giới hạn bởi các đường 1, 5, 3 hoặc 2 và 8,
7, 9) nhỏ hơn nhiều so với miền công suất do
động cơ phát ra (giới hạn bởi các đường 1, 4, 8
và 9). Mọi điểm làm việc nằm cao hơn đường 3
(đặc tính công suất giới hạn theo mômen xoắn –
theo ứng suất cơ) và đường 2 (đặc tính công
suất giới hạn theo ứng suất nhiệt (đối với động
cơ tăng áp)) đều khiến động cơ rơi vào tình
trạng quá tải về cơ và nhiệt tương ứng.
Chế độ chạy tàu thường gặp phải trường
hợp sức cản tăng lớn, lúc này tốc độ của động
cơ chính giảm, và bộ điều tốc của động cơ
chính tự động tác động cấp thêm nhiên liệu để
tăng công suất nhằm tăng tốc độ quay động cơ
hoặc do người vận hành xử lý không tốt nên
động cơ rất dễ bị quá tải.
Các tình huống xuất hiện quá tải ở động cơ
chính có thể nhận thấy như sau:
Xét trường hợp sức cản thân tàu tăng lớn,
đặc tính chân vịt dốc hơn, ví dụ động cơ chính
làm việc ở chế độ buộc tàu ứng với đường 5
trên hình 1. Nếu chưa xét tác động của bộ điều
tốc, lúc này ta thấy điểm giao của đường đặc
tính động cơ 4 và đặc tính đặc tính chân vịt 5
nằm bên trên đường đặc tính công suất giới
hạn theo mômen 3, nghĩa là động cơ đã bị quá
tải về mômen mặc dù công suất và tốc độ quay
của động cơ chưa đạt định mức. Trong thực tế,
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2016
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 145
với tác động của bộ điều tốc là cấp thêm nhiên
liệu nhằm khôi phục tốc độ quay ban đầu, động
cơ càng bị quá tải nặng về mômen.
Tùy thuộc mức độ tăng độ dốc của đặc tính
chân vịt mà sự quá tải của động cơ có thể là:
- Quá tải mômen khi công suất chưa vượt
quá giá trị định mức và tốc độ quay chưa đạt
định mức: Me > Međm, Ne < Neđm , n < nđm;
- Quá tải mômen và công suất khi tốc độ
quay chưa đạt định mức:
Me > Međm , Ne > Neđm, n < nđm;
- Quá tải mômen và công suất khi tốc độ
quay đạt định mức:
Me > Međm , Ne > Neđm , n = nđm.
Hình 1. Đồ thị phối hợp làm việc giữa động cơ chính
và chân vịt định bước khi truyền động cơ khí
1. Đặc tính tốc độ quay vận hành thấp nhất ổn định; 2.
Đặc tính công suất giới hạn theo ứng suất nhiệt (đối với
động cơ tăng áp);
3. Đặc tính công suất giới hạn theo mômen xoắn (M2e =
M1eđm); 4. Đặc tính ngoài công suất định mức; 5. Đặc
tính chân vịt ở chế độ buộc tàu; 6. Đặc tính chân vịt ở
chế độ tính toán; 7. Đặc tính chân vịt ở chế độ tàu chạy
không hàng; 8. Đặc tính điều tốc; 9. Đặc tính công suất
nhỏ nhất làm việc lâu dài
Để tránh quả tải (về cơ) trong mọi trường
hợp, cần điều khiển cho động cơ làm việc
theo đặc tính bộ phận sao cho giao điểm của
đặc tính động cơ và đặc tính chân vịt nằm
trên đường đặc tính công suất giới hạn theo
mômen, nghĩa là điều khiển tay ga giảm bớt
lượng nhiên liệu để điểm làm việc là giao điểm
của đường 3 và đường 5 (hình 1). Lúc này
chấp nhận động cơ làm việc với công suất và
tốc độ quay nhỏ hơn giá trị định mức, và tất
nhiên hiệu quả đạt thấp.
Rõ ràng giải pháp giúp khai thác tốt động
cơ là áp dụng truyền động gián tiếp (vốn áp
dụng với động cơ có tố độ quay cao), ở đó đảm
bảo động cơ vẫn làm việc ở chế độ công suất
và tốc độ quay định mức nhờ sử dụng hộp số
với những cấp số truyền thích hợp (xem hình
2 [3]).
Trong khai thác máy móc thiết bị, việc thực
hiện đúng chế độ bảo dưỡng, sửa chữa định
kỳ rất quan trọng nhằm đảm bảo chúng hoạt
động an toàn trong suốt thời gian vận hành.
Đối với hệ động lực tàu thủy nói chung và tàu
cá nói riêng việc này có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng không chỉ liên quan đến mặt kinh tế mà
cả xã hội. Một khi máy chính hư hỏng, tàu
không hoạt động được, không những bị thiệt
hại về sản xuất mà phải chi phí cho sửa chữa,
và nguy hiểm hơn là tàu bị chìm gây thiệt hại
về nhân mạng, tài sản.
Khi nghiên cứu các đặc tính động cơ người
ta thấy rằng động cơ đạt chi phí nhiên liệu
riêng thấp nhất ở tốc độ quay nhỏ hơn định
mức (xem hình 3). Điều này người vận hành
cần phải biết.
Do đó, ngoài việc tránh quá tải cho động
cơ, đảm bảo khả năng hoạt động an toàn,
trong vận hành cũng cần chú ý đến chế độ làm
việc kinh tế (với chi phí nhiên liệu thấp nhất)
khi cần.
2. Giải quyết vấn đề
Về nguyên tắc, việc khai thác có hiệu quả
và an toàn hệ động lực tàu thủy nói chung
và tàu cá nói riêng phụ thuộc vào cả 3 mặt:
trang bị thiết bị, quản lý & khai thác thiết bị và
kiểm tra giám sát kỹ thuật. Trước tiên đòi hỏi
trang thiết bị phải có chất lượng tốt (con tàu
được đóng ra cần phải đảm bảo sự phù hợp
giữa Động cơ chính – Thân tàu – Chân vịt, có
đầy đủ tài liệu vận hành thiết yếu). Tiếp đến là
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2016
146 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Hình 3. Đặc tính động cơ 6CX-GTYE
2.1. Về mặt trang bị thiết bị
Tàu đóng mới phải phải đáp ứng các yêu
cầu về mặt kỹ thuật (có đủ tài liệu để phục vụ
việc khai thác - đối với hệ động lực phải có đặc
tính vận hành tàu)
+ Với những tàu đóng theo thiết kế thì đủ
khả năng đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật.
+ Với những tàu được đóng không theo
thiết kế thì cần phải lập hồ sơ kỹ thuật.
- Trường hợp tàu được đóng mới không
theo thiết kế, cần tiến hành tính toán chọn động
cơ chính và chân vịt phù hợp cho tàu trên cơ
sở kết quả lập hồ sơ hoàn công kịp thời phần
thân tàu để tính sức cản và thực hiện các tính
toán cần thiết theo kiểu “vừa thiết kế, vừa thi
công” phần động lực.
- Trong trường hợp chọn máy chính và
chân vịt theo kinh nghiệm kiểu “áng chừng”
thì không đảm bảo sự phù hợp giữa Động
cơ chính – Thân tàu – Chân vịt là điều không
thể tránh khỏi. Và việc lập hồ sơ vận hành trở
thành vấn đề bức thiết.
Hình 2. Đồ thị phối hợp làm việc giữa động cơ chính và chân vịt định bước
khi truyền động cơ khí gián tiếp
a) Xây dựng theo mômen
b) Xây dựng theo công suất
1. Đặc tính chân vịt theo chế độ tính toán, tương ứng với cấp số tiến 1 của hộp số; 2. Đặc tính chân vịt ở chế độ kéo I,
tương ứng với cấp số tiến 2 của hộp số; 3. Đặc tính chân vịt ở chế độ kéo II, tương ứng với cấp số tiến 3 của hộp số;
4. Đặc tính công suất giới hạn theo mômen xoắn, tính theo tốc độ quay chân vịt, tương ứng với cấp số tiến 1 của hộp số;
5. Đặc tính công suất giới hạn theo mômen xoắn, tính theo tốc độ quay chân vịt, tương ứng với cấp số tiến 2 của hộp số;
6. Đặc tính công suất giới hạn theo mômen xoắn, tính theo tốc độ quay chân vịt, tương ứng với cấp số tiến 3 của hộp số;
7. Đặc tính điều tốc theo chế độ tính toán, tương ứng với cấp số tiến 1 của hộp số; 8. Đặc tính điều tốc theo chế độ kéo I,
tương ứng với cấp số tiến 2 của hộp số; 9. Đặc tính điều tốc theo chế độ kéo II, tương ứng với cấp số tiến 3 của hộp số;
10. Đặc tính mômen theo công suất định mức
việc tổ chức quản lý, khai thác thiết bị (người
vận hành phải có trình độ nhất định, tuân thủ
nguyên tắc vận hành, các chế độ chăm sóc,
bảo dưỡng, sửa chữa định kỳ). Và khâu đặc
thù không thể thiếu là sự kiểm tra & giám sát
của cơ quan chức năng đảm bảo an toàn
kỹ thuật.
Do đó, cần tập trung giải quyết đồng bộ
ở cả 3 mặt: trang bị thiết bị, quản lý & khai
thác thiết bị và kiểm tra giám sát kỹ thuật.
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2016
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 147
Cần trang bị thiết bị cảnh báo quá tải máy
chính và sự cố hệ động lực.
Đặc biệt, với các động cơ đã qua sử dụng,
cần tiến hành đánh giá tình trạng kỹ thuật theo
kết quả khảo nghiệm động cơ trên bệ thử hoặc
kết hợp khảo nghiệm động cơ tại hiện trường
khi thử tàu.
Theo quy định, sau khi đóng mới, con tàu
phải được thử đường dài để kiểm nghiệm lại
các tính năng (xây dựng đặc tính vận hành tàu
sát thực tế).
Trên cơ sở kết quả thử tàu (theo chương
trình đã thiết lập với việc đo công suất Ne, tốc
độ quay n, chi phí nhiên liệu giờ Gh cùng các
thông số khác của động cơ và tốc độ tàu V),
tiến hành xây dựng đặc tính vận hành tàu
mang tính tổng hợp theo [2] với các thông số:
công suất, tốc độ quay, chi phí nhiên liệu của
động cơ và tốc độ tàu cùng các thông số khác
để phục vụ công tác vận hành.
Đặc tính vận hành có thể xây dựng ở dạng
như hình 4.
Hình 4. Đặc tính vận hành
Với đặc tính vận hành này, tiến hành xây
dựng phương pháp và hướng dẫn sử dụng để
nhận biết chế độ làm việc của động cơ và lựa
chọn chế độ làm việc hợp lý trong quá trình
khai thác nhằm đảm bảo an toàn, tin cậy và
kinh tế.
2.2. Về mặt quản lý & khai thác thiết bị
Người vận hành quyết định hiệu quả khai
thác. Thật vậy, một khi đã làm chủ được máy
móc thì việc khai thác đảm bảo an toàn và có
hiệu quả nằm trong tầm tay. Và đây là vấn đề
khó nhất.
Trước mắt cần tiếp tục hoạt động bồi
dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ một cách
nghiêm túc cho đội ngũ máy trưởng và đặc biệt
là đưa nội dung kiến thức về máy vào chương
trình bồi dưỡng cho thuyền trưởng theo tinh
thần đảm bảo chất lượng, hiệu quả.
Về lâu dài cần nâng cao dân trí trong ngư
dân đồng thời với việc đào tạo nhân lực (giáo
dục phổ thông và đào tạo nghề cho lớp trẻ)
nhằm mục tiêu “chuyển giao thế hệ”. Đó là giải
pháp căn cơ.
- Trong công tác nâng cao trình độ dân trí
trong ngư dân, đi đôi với việc tuyên truyền, vận
động, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ thích
hợp nhằm thúc đẩy phong trào học tập trong
con em ngư dân, góp phần nâng cao dân trí,
tạo nguồn để đào tạo nhân lực nghề cá. Đặc
biệt, cần đưa nội dung kiến thức về nghề cá
vào chương trình môn Công nghệ ở bậc Trung
học cơ sở (tương tự như trồng trọt, chăn nuôi,
khai thác và bảo vệ rừng, ) để con em ngư
dân có thể tiếp cận một cách khái quát về nghề
cá. Từ đó, các em thêm yêu biển hơn và có
động lực phấn đấu học tập để tham gia khai
thác hiệu quả và hợp lý hơn nguồn tài nguyên
sinh vật phong phú cũng như tiềm năng to lớn
của biển.
- Bồi dưỡng kiến thức, đào tạo nghiệp
vụ chuyên môn: Người vận hành cần được
đào tạo nghiệp vụ chuyên môn có hệ thống,
bồi dưỡng kiến thức để làm chủ thiết bị,
công nghệ.
Ở khâu này cần tập trung xây dựng chương
trình, biên soạn giáo trình, và tổ chức giảng
dạy nghiêm túc, phù hợp từng cấp độ theo
đúng phương châm “chất lượng, hiệu quả”.
Rõ ràng ngư dân cần sự hỗ trợ nhiều
hơn từ Nhà nước và cộng đồng xã hội. Cùng
với việc tạo điều kiện hiện đại hóa tàu cá, về
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2016
148 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
mặt nhân lực, Nhà nước cần có chính sách
miễn học phí bậc phổ thông cho con ngư dân,
hỗ trợ kinh phí đào tạo chuyên môn nghiệp vụ
nghề cá. Đồng thời khuyến khích các tổ chức,
cá nhân tham gia “nâng bước em đến trường”
cho con em ngư dân bằng những chiếc xe đạp
nghĩa tình, các suất học bổng khuyến học
2.3. Kiểm tra, giám sát an toàn kỹ thuật
Cơ quan/tổ chức Đăng kiểm tàu cá thực
hiện đúng chức năng của mình (kiểm tra, giám
sát an toàn kỹ thuật từ khâu thẩm định thiết kế,
giám sát đóng mới và kiểm tra kỹ thuật an toàn
trong quá trình khai thác) một cách đầy đủ và
nghiêm túc. Tất nhiên, Đăng kiểm tàu cá phải
được đầu tư phát triển để lớn mạnh, đáp ứng
yêu cầu thực tế. Cần hình thành các trung tâm
đăng kiểm khu vực, xây dựng hệ thống tiêu
chuẩn và trang thiết bị kiểm định tình trạng, an
toàn kỹ thuật tàu cá.
3. Kiến nghị
Nhà nước quan tâm nhiều hơn nữa đối
với hoạt động khai thác thủy sản với những
chủ trương, chính sách sát thực về kỹ thuật
và nhân lực theo hướng an toàn và hiệu quả,
cũng như khâu kiểm tra giám sát kỹ thuật.
Cụ thể:
- Tiến hành kiểm tra, giám sát an toàn kỹ
thuật tàu và hệ động lực đảm bảo chất lượng
tốt ngay từ khâu thiết kế, đóng mới và trong
khai thác theo quy chuẩn thật đầy đủ và
nghiêm túc (Đăng kiểm tàu cá) trên cơ sở có
đủ hồ sơ máy, tàu và thiết bị cảnh báo sự cố
cho hệ động lực.
- Có chính sách đặc biệt về nâng cao dân
trí cho ngư dân và đào tạo nhân lực nghề
cá. Vận động ngư dân tham gia các lớp đào
tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ kỹ thuật,
chuyên môn.
- Xã hội hóa công tác hỗ trợ ngư dân trong
việc bồi dưỡng nguồn nhân lực (vận động các
nhà tài trợ hỗ trợ ngư dân).
- Giám sát việc tuân thủ đúng quy chế và
chú ý đến chất lượng trong đào tạo, bồi dưỡng
nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho
thuyền trưởng, máy trưởng trên cơ sở nội
dung, chương trình đào tạo được chuẩn hóa
(đưa kiến thức phần máy và chương trình đào
tạo thuyền trưởng tàu cá).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2. Lương Công Nhớ, Đặng Văn Tuấn, 1995. Khai thác hệ động lực tàu thủy. Trường Đại học Hàng hải, Hải Phòng
3. Nguyễn Đình Long, 1994. Trang bị động lực. Trường Đại học Thủy sản, Nha Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_giai_phap_gop_phan_khai_thac_an_toan_va_hieu_qua_he_d.pdf