Vi Hong is one of the writers of prose typical of the ethnic minorities in Vietnam in generally
and the North Vietnamese ethnic minorities in particularly. By using some typical types of
sentences in his novels such as sentences repeating structures of components, compound
sentences showing conditions and results, or compound sentences showing concession, Vi Hong
not only impressed readers with the soft, flexible, smooth and bright writing but also highlighted
his messages in each novel.
8 trang |
Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 371 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số đặc điểm nồi bật của lời văn nghệ thuật trong tiểu thuyết Vi Hồng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguyễn Thị Thu Hương Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 7 - 14
7
MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM NỒI BẬT CỦA LỜI VĂN NGHỆ THUẬT
TRONG TIỂU THUYẾT VI HỒNG
Nguyễn Thị Thu Hương*
Trường Đại học Khoa học – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Vi Hồng là một trong những cây bút tiêu biểu của nền văn xuôi các dân tộc thiểu số Việt Nam nói
chung và các dân tộc thiểu số Việt Bắc nói riêng. Bằng việc sử dụng một số dạng lời văn tiêu biểu
trong lối viết tiểu thuyết như câu trần thuật lặp cấu trúc thành phần, câu ghép chỉ điều kiện (giả
thiết) – kết luận và câu ghép chỉ sự nhượng bộ, Vi Hồng không chỉ làm cho người đọc ấn tượng
với lối diễn đạt mềm mại, uyển chuyển, mượt mà và trong sáng mà còn làm nổi bật lên nội dung
thông điệp trong từng tiểu thuyết.
Từ khóa: Vi Hồng, văn xuôi, dân tộc thiểu số, lời văn nghệ thuật, tiểu thuyết
TÁC GIẢ VI HỒNG VÀ VẤN ĐỀ LỜI
VĂN NGHỆ THUẬT TRONG TÁC PHẨM
VĂN HỌC*
Vi Hồng là một trong những cây bút tiêu biểu
của nền văn xuôi các dân tộc thiểu số Việt
Nam nói chung và các dân tộc thiểu số Việt
Bắc nói riêng. Sức sống các tác phẩm của
ông và tên tuổi của nhà văn đã được khẳng
định. Việc nghiên cứu các sáng tác của ông
những năm gần đây đã được mở rộng về
nhiều khía cạnh như: tính dân tộc, giọng
điệu, bản sắc văn hóa, cách viết, sự nghiệp
sáng tác Trong đó, cách tổ chức lời văn
nghệ thuật của Vi Hồng cũng rất riêng và là
một đối tượng nghiên cứu đáng được quan
tâm. Theo Từ điển Thuật ngữ văn học “Lời
văn nghệ thuật là dạng phát ngôn được tổ
chức một cách nghệ thuật, là hình thức ngôn
từ nghệ thuật của tác phẩm văn học”
[7;288]. Trong bài viết này, chúng tôi tiến
hành nghiên cứu lời văn nghệ thuật trong
tiểu thuyết Vi Hồng (cụ thể là một số dạng
câu điển hình mà nhà văn ưa dùng) dựa trên
lí luận về thi pháp lời văn trên các cấp độ
ngôn ngữ của GS Trần Đình Sử. Theo nhà lí
luận thì cú pháp cũng là phạm vi thể hiện thi
pháp; trong các quy tắc kết hợp của ngôn từ,
thi pháp cũng thể hiện đa dạng. Cụ thể, thơ
có các phép đảo trang, đối, lặp, tỉ, hứng, còn
cú pháp văn xuôi có những quy tắc khác
nhau tạo nên màu sắc riêng trong lối viết.
Nhà văn Lâm Tiến đã khẳng định Vi Hồng có
cách viết riêng: “vừa hiện thực, vừa lãng
* Tel: 0985610650
mạn, vừa dân gian, vừa bác học, vừa truyền
thống, vừa hiện đại” [5]. Nhưng dường như
cái lãng mạn, cái dân gian lấn lướt cái hiện
thực, cái bác học nên tác phẩm của Vi Hồng,
có thể nói, chúng được sáng tạo theo kiểu tư
duy dân gian – truyền thống. Chính cách tư
duy nghệ thuật như vậy chi phối mạnh mẽ
đến đặc điểm ngôn ngữ trong tác phẩm. Như
PosPelov từng viết: “Cái có ý nghĩa lớn nhất
là nguyên tắc phản ánh đời sống trong một
tác phẩm nào đó thuộc lối hiện thực hoặc
thuộc lối không hiện thực. Nhà văn càng xa
chủ nghĩa hiện thực thì khi đó ở các hành
động, suy nghĩ, tình cảm của nhân vật với
mức độ càng lớn, không bộc lộ cái bản chất
của tính cách mà thưởng chỉ bộc lộ tính
khuynh hướng tư tưởng cảm xúc, xu hướng
của tác phẩm khi đó các đặc điểm lời nói của
nhân vật càng gần với lời văn của tác giả”
[6;149 ]. Ở tiểu thuyết của Vi Hồng, hiện
tượng này khá nổi bật. Với quan niệm nghệ
thuật không lấy yêu cầu tái hiện hiện thực
nghiêm ngặt làm nguyên tắc sáng tác, Vi
Hồng chuộng miêu tả khả năng, dụng công
nhiều ở việc miêu tả cái có thể có (tức là khả
năng tưởng tượng, hư cấu, sáng tạo tạo nên
những hình tượng nghệ thuật thường mang
tính ước lệ, tượng trưng, lý tưởng hóa).
Khoảng cách rất gần giữa lời nói của nhân vật
và lối trần thuật của tác giả phục vụ cho đích
quan trọng nhất là bộc lộ thành công tư tưởng,
cảm xúc của tác phẩm.
Trong bài viết này, chúng tôi đi sâu phân tích
kiểu lời văn giàu tính ước lệ và tính cụ thể
hóa trong tiểu thuyết Vi Hồng dưới dạng tồn
Nguyễn Thị Thu Hương Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 7 - 14
8
tại trong hình thức một số cấu trúc câu. Với
lối tư duy nghệ thuật dân gian – truyền thống,
dường như những tác phẩm của Vi Hồng chỉ
mượn những chất liệu từ cuộc sống để tạo nên
tác phẩm của mình. Vì thế hình tượng trong
tác phẩm của Vi Hồng thường mang tính ước
lệ, tượng trưng, lý tưởng hóa. Chính điều này
đã quy định tính ước lệ trong ngôn ngữ và lời
văn của Vi Hồng. Nhà nghiên cứu Lâm Tiến
cũng đã chỉ ra: “Những từ như trai tơ, gái nụ,
trai nụ, gái hoa, trai thanh, gái nụ, những
chi tiết như: quý hơn cả ông trời, sung sướng
như ông trời, to bằng ông trời, quý hơn cả
ngọc ngà, đẹp như một nàng tiên, rực rỡ
như đóa hoa tiên, hóa thành nơi vách núi, chữ
viết như rồng bay, phượng múa, như hoa nở
trong vườnthường có trong tác phẩm của
Vi Hồng ” [5]. Câu hỏi đặt ra là tại sao “ước
lệ” lại song hành với “cụ thể hóa”? Chính
việc lặp những cấu trúc ước lệ trong lời văn
theo lối diễn đạt trùng điệp (thậm chí tạo
thành nhịp, thành vần) đã cụ thể hóa tính chất
của đối tượng mà nhà văn đang nói đến, cụ
thể hóa tâm trạng của nhân vật, hay tâm tình
kín đáo mà nhà văn muốn giãi bày, trao gửi.
Trường hợp này ước lệ ở mặt hình thức, cụ
thế hóa trong ý nghĩa. Cũng có những cấu
trúc lặp trong câu mà bản thân nó đã mang
tính cụ thể. Nó dân dã, gần gũi, dễ hiểu như
những lời nói đời thường nhất. Ngoài ra cũng
có một số mô típ câu trong lời văn cũng tạo
nên nét đặc trưng của lời văn Vi Hồng. Người
đọc được thả mình trong thế giới liên tưởng,
tưởng tượng vô cùng phong phú nhưng đồng
thời vẫn khám phá, thấu hiểu một cách cụ thể
điều mà lời văn đề cập.
MỘT SỐ DẠNG CÂU TIÊU BIỂU TRONG
TIỂU THUYẾT CỦA VI HỒNG
Câu trần thuật lặp cấu trúc các thành phần
Trong lời trần thuật, nhà văn miêu tả, đánh
giá tính chất của hiện tượng, vẻ đẹp của
thiên nhiên và những biểu hiện ở bên ngoài
của nhân vật. Phép lặp trong cấu trúc câu,
trong đoạn “là nguyên tắc kết hợp tạo nhịp
điệu, thống nhất và mở rộng nghĩa”. Chẳng
hạn, khi đánh giá toàn diện về gia đình Châu
Đoàn Pàng, Vi Hồng dùng hàng loạt các cụm
từ (tính từ/danh từ + “nhất”) để diễn tả:
“Châu Đoàn Pàng giàu nhất, giỏi nhất, khôn
ngoan nhất, thế lực nhất, vợ con nó cũng nhất
mọi nhẽ”. Không ai là địch thủ của hắn trong
cái bản Chín Thoong ấy – chúng ta hiểu được
điều đó một cách dễ dàng. Chính vì thế mà
Châu Đoàn Pàng tự tin vào sức mạnh, vào
khả năng xoay chuyển, tác động, chi phối mọi
thứ của mình.
Bức tranh thiên nhiên của núi rừng trong tác
phẩm cũng được đặc tả và hiện lên với nhiều
sắc thái khác nhau qua phép lặp cấu trúc lời
văn. Cái nắng trên dòng thác Chín Thoong
được tác giả miêu tả: “Nắng nằm sõng soài
trên các sườn núi quang cây. Nắng vắt vẻo
trên từng ngọn cây của mọi cánh rừng. Nắng
nằm ườn trên mắt vực Chín Thoong”. Những
câu văn miêu tả liên hoàn mang đầy hình ảnh,
đầy sự vận động của ánh nắng. Nơi nơi bản
mường Chín Thoong đã được nắng bao trùm,
tuôn chảy. Nắng có khi ru mình êm đềm, có
khi nhảy nhót, có khi lại lười biếng thật đáng
yêu. Hình ảnh “con nước” mà bố Phàn và
Hoàng đã kì công nghiên cứu để đem về cho
dân bản cũng được đặc tả đầy ấn tượng: “Đất
chảy ào ào theo con nước. Con nước đục
ngàu chảy băng băng về đồng. Con nước to
gấp mấy chục lần con nước do chiếc cọn bao
đời múc nước lên ruộngNước chảy cả vào
con mương nước cọn, nước tràn trề lênh
láng. Nước làm trôi cả những đàn vịt về cuối
mương”. Sức mạnh của con nước chính là
sức mạnh của sự văn minh, tiến bộ. Vi Hồng
có thói quen đặc tả khi viết về thiên nhiên.
Ông tả bằng tâm hồn nhạy cảm, bằng con
mắt đầy chất thơ. Làm sao tả thật cụ thể, chi
tiết; tả làm bật lên vẻ đẹp nguyên hình,
nguyên hương, nguyên sắc của thiên nhiên
mà vẫn đi vào lòng người. Kiểu câu văn dài,
lặp nhịp, vần, hoặc lặp liên tiếp cấu trúc giữa
các câu dường như đã chắp cánh cho ngòi
bút của nhà văn.
Khi Vi Hồng nói về mảnh hồn dân tộc Tày –
là những bài lượn, khúc lượn đã bắt đầu bắt
nhịp vào tâm hồn Hoàng lúc Hoàng đến cái
tuổi của những chàng thanh niên đang độ
xuân nồng, nhà văn cũng diễn tả cái mượt mà,
bay bổng, lãng mạn, cái thăng hoa của tuổi trẻ
trong Hoàng: “những khúc lượn gửi cho
mây, cho gió, cho mình nuôi giọng, câu đau –
đau như dứt từ da mà ra, câu buồn – buồn
như tình yêu xa tình yêu; câu mừng – mừng
như đàn chim bay qua biển lớn bỗng gặp
Nguyễn Thị Thu Hương Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 7 - 14
9
rừng cây”. Lượn là niềm say mê, là nơi
Hoàng trao gửi những tâm tình riêng tư của cả
cõi lòng khốn khổ đến đắng cay. Cũng miêu
tả tiếng lượn trong Mùa hoa Bjoóc loỏng, tác
giả làm nổi bật cái dặt dìu, ngất ngây của âm
thanh đối lượn giữa đất trời, giữa ngày hội
tưng bừng: “Tiếng lượn của người con trai,
con gái vang lên từ hai buồng thổ cẩm rực rỡ
làm lay động mọi lá cây ngọn cỏ, làm phập
phồng cả không gian buổi sáng xuân trong
sáng”. Đối với người dân mường Khoang
Đông, họ nói đó là “hai con rồng lượn, hai
con chim phượng hoàng gặp nhau”.
Trùng điệp về hình thức cấu trúc song lại
phong phú về hình ảnh nên cái được nói đến
“đẹp” trong ngôn từ ước lệ, cụ thể và sâu sắc
trong các tầng nghĩa. Ông Phàn (Tháng năm
biết nói) cảm ơn Châu Đoàn Pàng đã có tấm
lòng mời mình ăn bữa cơm “miếng chín,
miếng mười, miếng tái, món cạn, món
nước”. Ngọc đau đớn vì gia đình mình đã
mang ơn Châu Đoàn Pàng lúc nghèo khổ để
giờ “nợ miệng, nợ túi tiền, nợ cả gánh cả
khênh”. Món nợ ấy ép bố mẹ Ngọc phải gả
Ngọc cho Bùng.
Kiểu lời văn mang cấu trúc lặp như trên cũng
rất phổ biến khi Vi Hồng miêu tả, khắc họa
con người từ ngoại hình đến tâm hồn. Cái
cười của người đàn bà đần độn xấu xí sinh
thằng Thìm được miêu tả: “cô ta chỉ nhếch
mép cười như trâu cười nước đái của nó.
Nghĩa là cười bằng cách nhắm tít mắt, cặp
môi vênh váo, cười im lặng, cười câm”. Nụ
cười vừa có phần ngu ngơ, lại vừa có phần ẩn
bí. Thằng Thìm sau này cũng mang cái cười
như thế của dòng máu nhà nó: “Nó cười câm,
cười trâu, cười đái suốt ngày”, “cười nhoẳn
cả mũi, cười vặn cả cặp môi”. Còn nụ cười
của bố Phàn thì chất chứa đầy tâm trạng dằn
vặt của con người mang nặng tình đời. Trước
khao khát học hành của cậu bé Hoàng dù phải
lấy vợ và trước sự hồn nhiên đến đáng thương
của tâm hồn trẻ thơ – vì Hoàng chưa hiểu vợ
là gì, “bố Phàn cười chảy cả nước mắt, cười
lớn, cười to”, để ngay lập tức ông ta im bặt và
lau nước mắt đầy chua xót. Vẫn con người ấy,
nhưng “ông lại cười méo mó,cười như lẫn
với cay đắng tan biến vào máu thịt trên khuôn
mặt đầy phúc hậu của ông” khi ông nghe
Hoàng giải thích tại sao gọi vợ mình bằng chị
và kể tính xấu của vợ. Còn cái cười của Băng
khi Hoàng chẳng hiểu gì về chuyện chăn gối
vợ chồng được mô tả phù hợp với tính cách
vô tư của những đứa trẻ mới lớn: “Băng cười
ré lên. Cái cười rủ lá che thân, mượn ống
giấu mật”.
Không chỉ có tiếng cười mà những trạng thái
khác của con người cũng được nhà văn cụ thể
hóa bằng sự sắp xếp liên tiếp những hình ảnh
cụ thể xen ước lệ hoặc toàn ước lệ. Đặc tả nỗi
buồn của nàng Thu Lạ (Mùa hoa Bjoóc
loỏng) thì được đặc tả: “Chị buồn như lá
dong héo phơi nắng, như lá khô rơi trong
đêm sương muối”. Đặt liên tiếp cấu trúc và
hình ảnh như thế cho ta cảm thấy nỗi buồn ấy
không chỉ làm héo hắt trái tim nàng mà còn
như kim châm làm âm ỉ và buốt giá tâm hồn
nàng. Khi bị người khác sỉ nhục là đồ “ma
gà”, Thu Lạ thấy mình “như chân tay rã rời,
như mục, như ải”. Nỗi cay đắng như ăn vào
da thịt nàng, nàng khóc rung cả sàn nhà. Vi
Hồng đặc tả nỗi đau ấy qua những giọt nước
mắt của nàng: “nước mắt ướt đẫm hai má của
nàng. Nước mắt se lông mi thành những sợi
to, nhọn hoắt”. Nàng đã khóc quá nhiều, đó
là những giọt nước mắt đau đớn cho thân
phận và căm phẫn, nguyền rủa những kẻ độc
ác đã vu vạ điều xấu xa cho nàng.
Khảo sát những lời thoại của nhân vật trong
tác phẩm của Vi Hồng, chúng tôi thấy kiểu
câu lặp cấu trúc thành phần được sử dụng với
ưu thế tối đa. Nhân vật có thể giãi bày lòng
mình, trao đổi tâm tình, khơi gợi kỉ niệm với
người khác hoặc những lời đối đáp giao tiếp,
hỏi thăm trong cuộc sống đời thường. Cũng
có khi những câu văn ấy là dòng chảy tâm
hồn của nhân vật.
Quan sát cách sắp xếp, tổ chức các cụm từ
trong câu văn của Vi Hồng, chúng ta thấy các
cụm từ, các câu văn trong đoạn, các câu trong
hệ thống lặp cấu trúc thường đẳng lập với nhau
về hình thức (thường là lặp cấu trúc cụm động
từ, cụm danh từ hoặc cụm tính từ) và tương
đương về ý nghĩa; hoặc cụm từ, câu đứng sau
bổ sung, làm rõ nghĩa cho cụm từ, câu trước
đó. Điều này tạo nên tính liên kết chặt chẽ
trong lời văn (cả về hình thức và ý nghĩa) và
tính tập trung trong khi diễn tả, tạo hiệu quả
nghệ thuật trong “một cách viết riêng”.
Nguyễn Thị Thu Hương Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 7 - 14
10
Nỗi buồn riêng trải dài trong suy nghĩ của
Hoàng cũng hiện lên qua lời văn có kết cấu
chuỗi như thế: “Hoàng thấy nỗi buồn làm
mềm lòng, mềm loãng cả dòng suy nghĩ”.
Những tháng ngày xa quê, mang nặng tình
riêng trong lặng câm mà sống, làm và học.
Những cứ nghĩ về Chín Thoong là Hoàng
“háo hức, nở hoa, nở nụ trong lòng”. Nỗi nhớ
quê đầy vơi như con sóng dâng dạt dào trong
trái tim Hoàng: “Hoàng nhớ quê với nỗi nhớ
nhức nhối. Yêu quê lắm, nhớ quê lắm
Hoàng nhớ tất cả những nét uốn cong của
mọi dãy núi, nhớ từng bóng chim bay trên
trời quê, nhớ từng đàn cá bơi lội giữa dòng
Chín Thoong”. Nỗi nhớ của Hoàng đã ôm
trọn núi rừng, bản mường Chín Thoong, nó
bừng lên, đốt cháy lòng anh, thôi thúc bước
chân anh về, nhưng cứ nghĩ đến hình ảnh
người đàn bà có hàm răng ba ba thì Hoàng lại
ngạt thở trong nhớ thương, cách trở.
Nếu Tháng năm biết nói là cuốn tự truyện
thấm thía nỗi buồn thương, cái lãng mạn
trong tâm hồn Vi Hồng như chưa tìm thấy
mảnh đất riêng của nó mà cất cánh; thì ở Mùa
hoa Bjoóc loỏng, cái bay bổng, mượt mà,
bóng bẩy trong lời văn lại vút bay. Bởi nó
được thoát ra từ những tâm hồn tuổi thơ đang
căng tràn sức xuân và tình yêu. Nhà văn cũng
đồng điệu với dòng suối ngọt ngào những tâm
tình của những trai nụ, gái hoa, trai tơ, gái
nụ Khi Xinh Xông cứ van nỉ Mạnh Kha
cho biết chàng trai nào đối lượn cùng nàng thì
Mạnh Kha mượn lời rất khéo để tránh câu trả
lời: “Anh chỉ sợ khi mà gặp được chàng trai
mà em thường đối lượn cùng thì tiếng lượn
của em cụt mất cánh, nhạt mất màu, mất
phấn hương”. Anh chàng Cặm Cang nói
chuyện với những nàng tiên xinh đẹp “lúc
nào cũng ngọt tiếng, ngọt lời”, tâm hồn thì
dạt dào sli lượn; nhưng mỗi lần ngước mắt
nhìn lên thấy chàng xấu quá thì Xinh Xông
đóng chặt tâm hồn mình theo bản năng
người con gái. Vi Hồng đã diễn tả điều đó
vừa rất hình ảnh, vừa bay bướm mà rất cụ
thể hóa: “lập tức những nụ, những cánh
hoa nhạy cảm, những hương thầm, những
phấn thơm đều như khép kín lại ”. Bao nhiêu
nguồn mạch của sự tươi non mơn mởn. của
những tình tứ trong cõi lòng Xinh Xông
không còn mở lối cho Cặm Cang.
Phép lặp cấu trúc liên câu trong tiểu thuyết Vi
Hồng thường bắt gặp ở những đoạn miêu tả
nội tâm. Dòng chảy tâm trạng của nhân vật
như một bản nhạc thấm buồn qua nhịp điệu
các câu. Mi Tráng yêu Xinh Xông tha thiết
nhưng lại không dám đón nhận tình yêu của
nàng dù trong lòng chàng đang thả hồn về
những giấc mơ hạnh phúc tuyệt vời. Chàng đã
thấy rõ được sự chênh vênh của mối tình và
luôn mặc cảm về thân phận “ma gà”: “Ta như
đóa hoa đang nở căng, nhưng có thể thoắt bị
mụ phù thủy phù phép héo úa. Ta như cái quả
lê chín mọng treo rủ ở đầu cành, trước toán
bàn dân thiên hạ nhưng con dơi hoang, dơi
mèo, dơi cú gì đó lại có thể gặm nhấm”. Sự
mâu thuẫn, nỗi lo lắng về số phận, về tương
lai đang dằn vặt những suy nghĩ của chàng
trai. Tâm trạng ngổn ngang, đa chiều như vậy,
ta bắt gặp ở Người trong ống, khi Tú thực
hiện xong lễ “xăm ràng” với Ai Hoa, “chiến
thắng” trở về: “Hoa ngàn đang khao khát,
ong bướm vẫn dập dìu, nhưng sao anh thấy
núi rừng cô quạnh quá. Những đàn chim đẹp
vẫn giăng mắc giữa hai sườn núi, nhưng sao
chúng bay những đường rối mù vậy. Tiếng cu
gườm gáy ngon ngọt như thả từng chuỗi vàng
ngọc dài theo thung lũng, nhưng anh nghe
như tiếng khóc than ai oán”. Đáng lẽ Tú
phải mừng khi anh đã vượt qua được một cửa
ải đầy sóng gió của đời anh để tiếp tục thực
hiện chí lớn song Tú lại mang một nỗi buồn
da diết. Tú buồn cho chính bản thân và buồn
cho cả Ai Hoa nữa. Bởi trong cuộc đời gặp
được người mình yêu và yêu mình không phải
dễ dàng gì. Tú buồn vì phải từ bỏ tình yêu
này, buồn hơn vì làm khổ một người con gái
nặng tình nặng nghĩa lại vô cùng xinh đẹp
như Ai Hoa. Vì thế lúc này đi giữa thiên
nhiên núi rừng có tươi non, tràn ngập hương
sắc và âm thanh thì đối với Tú cũng đâu có ý
nghĩa gì. Nó chỉ càng làm cho lòng anh quặn
thắt một nỗi đau, nỗi cô đơn mà thôi. Lặp cấu
trúc câu đối lập hai vế “A nhưng B” đem lại
sắc thái tâm trạng phức tạp đầy mâu thuẫn
đang diễn ra trong nội tâm nhân vật.
Đi vào những lời đối thoại, chúng ta khám
phá ra những sắc màu mới của kiểu câu lặp
cấu trúc các thành phần. Ngôn ngữ, lời văn
trở nên sống động và có sự biến hóa lạ kì khi
nó là lời nói của nhân vật, là những lời hỏi
Nguyễn Thị Thu Hương Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 7 - 14
11
thăm, trao gửi tâm tình Thu Lạ mới Mạnh
Kha ở lại khi bố vắng nhà, Mạnh Kha thực
thà nói: “em không sợ tiếng khóc, tiếng chì,
tiếng bướm, tiếng ruồi xanh hay sao”. Chim
Ca lên rừng tìm gặp Thu Lạ, nàng ngạc nhiên
phải thốt lên: “Em cảm thấy việc dữ đang đến
đầu bàn chân em. Việc xấu xa như con nước
máng sắp đổ xuống đầu em”. Bất ngờ về cuộc
viếng thăm này nên Thu Lạ vẫn nói những lời
giữ khoảng cách và đầy ý tình: “Anh đừng
khen em, đừng nói lời ngọt lại hóa chua loét,
nói lời đường mía mật ong lại hóa ra dấm”.
Chim Ca đến thăm nhà Thu Lạ sau khi nàng
bị nhục mạ, Thu Lạ cũng nói những lời mời
chào rất khách sáo xong lại rất quen thuộc với
thói quen giao tiếp của người Tày: “Không
biết nhờ cơn gió mát đưa cái quả đào tiên đến
nhà em hay lại do cơn nắng dồn, nắng khô
xua con sóc hoang vào nhà? Chỗ đứng không
yên, chỗ ngồi không ấm, mời anh ngồi tạm”.
Câu nói của Thu Lạ làm cho Chim Ca được
sống trong mảnh hồn riêng của dân tộc mình,
trong cái “lối nói theo đường hoa, đường quả,
ruỗi theo đường bướm ong bay, giữa ngan
ngát hương vị hoa quả”. Những câu nói có
vần nhịp phần lớn trong các đối thoại của
nhân vật là do Vi Hồng đã sử dụng một thể
loại văn học dân gian đặc sắc của người Tày
là “puối pác” (lời nói bằng câu có vần), “puối
rọi” (câu nói một chuỗi vần như hát). Phân
tích những dẫn chứng trên đây phần nào
chúng ta đã thấy được sự ảnh hưởng rõ nét
của “puối pác”, “puối rọi” trong lời văn của
Vi Hồng. Như lời của Chim Ca lúc hỏi Cặm
Cang có rất nhiều hình ảnh ước lệ được đặt
liên tiếp nhau, ăn vần, đối xứng nhau: “Có
việc gì to từ trên trời rơi xuống, việc gì nhọn
từ dưới đất mọc lên”; “có việc gì to bằng
nửa ông trời, hay nặng như dãy núi đá”. Có
lẽ, khi viết về tình yêu, với những lời yêu
thương, hờn giận thì những câu nói của chàng
trai, cô gái Tày trở nên nhịp nhàng trong vần
điệu hơn hết thảy và ở đó chứa đựng nhiều
rung cảm nhất. Mi Tráng bày tỏ tình yêu với
Thu Lạ bằng những lời: “Anh yêu em như
ngọn lửa bén bãi cỏ gianh khô, như ong yêu
mật”. Còn Chim Ca nhiệt thành, nồng hậu
trong yêu thương dành cho Thu Lạ: “Anh yêu
em, yêu thật lòng mình. Yêu hết hơi thở, yêu
trọn vẹn bằng một niềm tin, yêu suốt dọc thời
gian và không gian”. Với chàng trai xấu xí
Cặm Cang, thì cái khát khao yêu đương càng
dào dạt, càng mãnh liệt – đó là tấm lòng tha
thiết cuồng nhiệt hướng tới cái đẹp. Cặm
Cang yêu Thu Lạ với tình yêu nồng cháy như
thế: “Anh yêu em, yêu nặng như từng dãy núi
đá, yêu rộng như bầu trời trên đầu, yêu không
bao giờ dứt, không bao giờ ngừng như con
sông quê ta bốn mùa dạt dào con nước”.
Người đọc không khỏi xao xuyến khi ru mình
trong những lời tỏ tình ngọt ngào như thế. Kể
cả những lời giãi bày tình yêu của những
người con gái cũng rất mặn nồng, đắm say. Ai
Hoa yêu Tú bằng tình yêu đầu tiên và duy
nhất của cuộc đời thiếu nữ. Nàng khát khao
yêu đương và dâng hiến. Những lời nói ngọt
ngào của nàng luôn làm Tú quặn đau: “Anh là
mười hai con hồn của em, anh là hơi thở của
em, anh là tất cả cuộc đời em”. Nàng còn thề
thốt: “em hứa em sẽ là người sẵn sàng dắt
ngựa cho anh mỗi khi anh say rượu. Em sẽ
tắm rửa cho anh mỗi khi thấy anh nhặm
người”. Ai Hoa yêu mãnh liệt bởi vì nàng
thấu hiểu được vẻ đẹp tâm hồn và trí tuệ của
Tú. Nàng muốn “trao gửi ngọn lửa trong mắt
và giọt máu trong tim” mình chỉ riêng cho Tú.
Cuối cùng, cái chết đã chứng minh tình yêu
chung thủy và sôi nổi của nàng. Sử dụng cách
nói có vần nhịp như puối pác, puối rọi trong
lời nói của các nhân vật đã giúp cho lời văn
của Vi Hồng có tiết tấu nhịp nhàng, âm điệu
hòa quyện và hiệu quả thẩm mĩ cao nên tác
phẩm của Vi Hồng có thêm nhiều lời nói hay,
đẹp từ truyền thống văn hóa dân gian – đó là
cách nói ngọt tiếng, ngọt lời đến ngọt lịm.
Số lượng câu có kiểu kết cấu lặp trong tiểu
thuyết Vi Hồng không phải là nhỏ. Trên đây,
chúng tôi chỉ xem xét những dẫn chứng tiêu
biểu. Lặp tạo nhịp điệu lời văn giống như thơ.
Viết lên những câu văn đầy chất thơ như vậy
bởi tâm hồn Vi Hồng là tâm hồn của dòng
chảy trữ tình dân gian. Mười ba, mười bốn
tuổi Vi Hồng đã làm hộ các anh, các chị
những bào phong slư (thơ tình yêu bảy chữ
của người Tày) và làm giỏi có tiếng. “Đêm
nằm, anh nghĩ ra những câu thơ hay, ý hay rồi
vùng dậy thắp đèn ghi lại”. Thêm nữa, thuở
nhỏ, Vi Hồng đã đọc và học rất nhiều dân ca,
truyện thơ Tày, Nùng Tất cả đã trở thành
nguồn cội nuôi dưỡng không bao giờ cạn
Nguyễn Thị Thu Hương Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 7 - 14
12
trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn. Các
nhân vật của ông đều nói năng bóng bẩy, giàu
hình ảnh như lối nói dân ca. Kiểu câu đặc
trưng mà Vi Hồng viết đã tạo hiệu quả nghệ
thuật riêng trong tác phẩm.
Câu ghép điều kiện/giả thiết – kết luận và
câu ghép chỉ quan hệ nhượng bộ
Trong tiểu thuyết Vi Hồng, dạng câu ghéo chỉ
điều kiện/giả thiết – kết luận và câu ghép chỉ
quan hệ nhượng bộ là dạng câu được sử dụng
phổ biến thứ hai. Đặc biệt, chúng thường xuất
hiện trong các lời thoại của nhân vật: độc
thoại nội tâm, lời đối thoại trong tình yêu.
Điều đó làm nên nét đặc sắc trong cách viết
của Vi Hồng.
Hai kiểu câu trên mang tính ước lệ về hình
thức câu (sử dụng các cặp kết từ mang tính
giả định), ước lệ trong những giả định được
đưa ra nhưng chúng lại mang tính cụ thể hóa
trong nội dung tâm tình mà nhân vật muốn
trao gửi cho đối tượng mình hướng tới.
Ở mô típ câu điều kiện/giả thiết – kết luận, tác
giả sử dụng cặp kết từ “nếu thì” xuất hiện
với tần số cao, mang lại sắc thái phong phú.
Trong lời nói, việc đưa ra điều kiện – giả thiết
bao giờ cũng là điều con người hướng tới mà
chưa thực hiện được hoặc đang mong muốn
làm được ở trong tương lai. Trong tiểu thuyết
Vi Hồng cũng vậy, các nhân vật cũng luôn
dùng những giả định để bày tỏ nỗi lòng, bày
tỏ mong ước của trái tim mình. Đàng đau đớn
vì bị vu tiếng “ma gà”, càng đau buồn hơn khi
sắp phải xa Hinh – người bạn “toong mản”;
nhưng nàng vẫn dũng cảm giãi bày, tỏ tâm
tình của chính mình để ướm hỏi lòng Hinh:
“Nếu không có chuyện trên trời rơi xuống,
dưới đất mọc lên thì em xin làm người trải
chăn cho anh, căng màn cho anh, anh bằng
lòng không?”. Ước mơ ấy, hiện tại đã không
thể thực hiện được vì Đàng bắt buộc phải rời
xa quê hương mới có thể sống nổi. Dạm hỏi
lòng người tình, xem ân tình của Hinh dành
cho mình đến nhường nào, để Đàng hướng tới
một ước vọng xa xôi hơn: “Nếu anh cũng có
lòng yêu thương em như anh nói thì dù đi đến
đâu em cũng sẽ tìm cách tin tức cho anh
biết Nếu ông trời mẹ đất còn mở mắt cho ta
nhìn, mở lòng cho ta sống thì rồi ta tìm đến
nhau”. Trải qua những sóng gió, thác ghềnh
của cuộc đời, cuối cùng số phận cũng đưa họ
trở về bên nhau. Đàng đau xót trong niềm vui
đang tràn ngập cõi lòng: “Em gặp lại anh thì
bát cơm đánh đổi bát ớt, nước chàm đã hết
rồi, nhuộm làm sao ăn được vải”. Còn Hinh
thì vẫn ôm trọn giấc mơ với người bạn gái
“toong mản” năm nao: “Nếu lòng em vẫn
thương anh thì từ nay em sẽ là người đồng
chí, người vợ của anh”. Niềm tin một hạnh
phúc đang gần kề với họ. Trong Tháng năm
biết nói, nỗi buồn của Hoàng cũng lồng vào
trong những câu nói như thế. Có khi là ước
muốn đồng cảm: “Nếu lòng mình như cái
bánh mật, như quả chuối tiêu chín cây thì
Hoàng đã bóc cho Băng xem rồi”; khi đó là
một sự tủi cực và ước muốn thay đổi: “Nếu
đời cháu phải gắn bó với người đàn bà có hai
hàm răng ba ba ấy thì chẳng khác gì đem đời
cháu buộc vào gốc cây bồ kết gai đống, buộc
cháu vào gốc cây bồ quân đầy gai chùm”.
Cặp kết từ “nếu thì” còn tạo nên những lời
khéo léo khi Ngọc mở đầu câu chuyện với
Phàn: “Nếu chuyện em nhờ anh có làm lệch
lòng anh, có làm chua bụng người già, người
trẻ nhà anh thì xin anh tha thứ”.
Trước cuộc đời nghiệt ngã con người vẫn
đứng vững bởi tình yêu thương lẫn nhau, bởi
những khao khát, ước mơ trong tâm hồn
không bao giờ ngưng nghỉ. Nó làm cân lại
một nửa “người trong ống” vẫn còn mãi tồn
tại trong xã hội. Bố Tú đau đến thắt lại trước
sự quằn quại của mẹ Tú, ông cũng bất lực,
căm phẫn và chỉ có thể khóc. Ông thương vợ,
ước có thể mang thay cái đau đớn kia của vợ:
“nếu là cái gánh, cái khênh nặng thì tôi đã
cất lấy trên vai cho bà đi không”. Hay giữa xã
hội có vô số kẻ gian trá, xảo quyệt, lợi dụng
tình ái để thỏa mãn như Ba thì vẫn có một
tình yêu bất diệt như Ai Hoa dành cho Tú:
“Anh ơi, có tình yêu của anh thì em có tất cả,
nếu không thì em chẳng có gì cả, chẳng có gì,
cả hồn xác cũng không. Nếu anh không yêu
em thì em sẽ chết trên Ngai Vua cho ngọn gió
bốn chiều vùi dập”. Ai Hoa chọn cái chết
để mãi mãi giữ một tình yêu duy nhất. Nàng
đem theo một nguyện ước cuối cùng trước khi
lìa cõi trần gian: “Nếu anh làm em mất đi đời
con gái thì khi em chết, em chỉ xin anh một
giọt máu chích ở đầu ngón tay thôi. Nếu anh
không làm được cái việc đó để em trở về với
Nguyễn Thị Thu Hương Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 7 - 14
13
mẹ Hoa mà còn trinh bạch thì em phảo xin
anh một đốt ngón tay – ngón tay đeo nhẫn
của anh ấy”
Kết cấu câu theo cặp kết từ “nếu thì” còn rất
nhiều trong tác phẩm. Ngoài ra còn có kết cấu
theo kiểu “nếu không thì” mang sắc thái ý
nghĩa chỉ sự may mắn: may mắn có giả thiết
này mà kéo theo hoặc tránh được kết quả này,
đó có thể là cách cảm ơn giữa con người với
con người hoặc diễn tả sự vui sướng Song
giá trị của sắc thái ý nghĩa này không mang lại
tính thẩm mĩ cao cho lời văn nghệ thuật.
Ở mô típ câu ghép chỉ quan hệ nhượng bộ với
các cặp kết từ đặc trưng (dù nhưng; dù
thì; dẫu nhưng/ thì), khi đi vào khám phá,
chúng tôi tìm thấy nhiều điều lí thú. Tính chất
mâu thuẫn thể hiện ngay ở hình thức các kết
từ cặp đôi. Ở kiểu câu này về đầu bao giờ
cũng chỉ một sự đổi thay, một điều có thể xảy
ra, còn vế sau thường chỉ cái ổn định, như
nhất. Đi vào lời nói của nhân vật, dạng câu
này giống như lời thề nguyền hoặc một lời
nói có tính chất kiên định cao. Chính vì thế ở
đầu vế bao giờ những điều được nói ra cũng
rất to tát đi kèm với những hình ảnh mang
tính ước lệ, tượng trưng để diễn tả cho ý tình
cụ thể nằm ở vế sau. Dạng lời văn này trong
tiểu thuyết Vi Hồng chúng tôi cũng xếp vào
dạng lời văn mang tính ước lệ, cụ thể hóa.
Tác phẩm Vãi Đàng xây dựng hình ảnh một
cô gái Tày có một cuộc đời đầy bi kịch,
nhưng đó cũng là con người có tinh thần phản
kháng cao. Ngay từ ban đầu, Đàng đã kiên
quyết không đồng ý cuộc hôn nhân với Tổng
Vọi. Nàng nói: “Dù chim có bay giật lùi, lợn
mọc hai đầu, con nước mọc chân bò lên dốc,
tôi cũng không bao giờ nghĩ đến điều ấy”.
Trong mọi hoàn cảnh, Đàng luôn tỏ ra là cô
gái mạnh mẽ, là chỗ dựa vững chắc cho bố
mẹ. Khi bị vu tiếng ma gà, bố mẹ nàng định
tự tử bằng lá ngón, nàng kéo cha mẹ về nhà,
cho ăn uống rồi động viên tinh thần: “Dù bố
mẹ và con có chết đi đâu thì cũng cứ ăn bát
cháo và mặc cho gọn gàng”; “Dù trời đổ, núi
đá tan thành bụi, ta hãy bình tĩnh, có như thế
mới nhìn thấy con đường nào là con đường
sống, con đường nào là con đường chết”. Cả
lão Tổng Nhự ngay khi muốn lấy lòng Đàng
cũng nói lời thề thốt: “Dù ngay đêm nay,
Đàng có cầm đòn gánh phang tôi, tôi cũng
chỉ chạy như một đứa trẻ nhỏ”. Trong tình
yêu chân chính thì những lời thề nguyền ấy
lại trở thành một điều cần yếu, một sức mạnh
chắp cánh cho tình yêu vượt lên tất cả những
sóng gió, bão táp của cuộc đời. Băng trong
Tháng năm biết nói đã đi qua bao nhiêu thử
thách để đến với Hoàng và nàng lúc nào cũng
một lòng một dạ: “Dẫu nỗi đắng cay của đời
anh ngày càng tăng vị, dẫu chuỗi bất hạnh có
bám lấy trọn đời anh thì em vẫn là người giúp
anh làm vơi vợi mọi sự nồng nã của cuộc đời,
của một con người tài năng”. Hay Hạ Chi
trong Mùa hoa Bjoóc loỏng cũng sống chết
với tình yêu dành cho Mi Tráng: “Em chỉ yêu
mình anh. Mặc cho ông trời mang trăm dãy
núi đá xuống ngăn cách, mặc cho vị thần tối
cao Pựt Luông mang gai móng cú, gai hổ
vuốt, gai răng nanh chó sói xuống rào ở cửa
ngõ tình yêu giữa anh và em. Dù có vậy em
cũng chân trần lội qua như không có gì. Em
sẽ đến với anh bằng cả da thịt nõn nà của em,
bằng trái tim cháy bỏng của em”. Tình yêu là
sự dâng hiến chân thành, vươn cao hơn tất cả.
Mô típ “dùthì” còn dùng để diễn tả mong
đợi của người nói với người nghe như mong
ước thuở nhỏ của Băng với Hoàng là “dù cho
thế nào, dù cho hoa không nở, ong không
còn cánh bay thì Hoàng cũng đừng quên
mình”. Thu Lạ cũng mang tâm tư như vậy khi
chờ đợi tình yêu ở Chim Ca: “Dù chỉ là tình
yêu lời nói, dù chỉ là trong chốc lát anh ban
tuổi trẻ cho em, em vẫn hạnh phúc”.
Trong đội ngũ các nhà văn hiện đại, người
ta nhận thấy Nam Cao hay viết những câu
văn ngắn, nhịp gấp gáp; Nguyên Hồng hay
viết những câu văn dài, chồng chất điệp từ;
Thạch Lam hay viết những câu vừa phải,
âm điệu trầm buồn, man mác. Vi Hồng là
một nhà văn dân tộc thiểu số với tư chất
riêng cũng tạo được những câu văn đặc sắc
về hình thức và cách biểu đạt ý tình như
chúng ta vừa phân tích.
Nguyễn Thị Thu Hương Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 7 - 14
14
Ngoài ra, lời văn của Vi Hồng còn giàu tính
biểu cảm thể hiện qua các câu văn được mở
đầu bằng thán từ “ôi, ôi thôi”. Tuy nhiên,
trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi không
đề cập đến.
Vi Hồng đã tạo nên một cách viết riêng trong
cốt cách Tày. Đó là lối diễn đạt vừa ước lệ,
vừa cụ thể hóa, giàu nhịp điệu, cảm xúc được
thể hiện rõ nét qua các dạng câu điển hình
như câu trần thuật lặp cấu trúc thành phần,
câu ghép chỉ điều kiện/giả thiết - kết luận, và
câu ghép chỉ quan hệ nhượng bộ. Qua đó, các
nhân vật trong tác phẩm được làm nổi bật hơn
ở các lời đối thoại, độc thoại, đồng thời màu
sắc dân gian trong lời văn nghệ thuật của nhà
văn Vi Hồng cũng rất đậm nét.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vi Hồng (2007), Người trong ống, Nxb Hội
Nhà văn, H.
2. Vi Hồng (1993), Tháng năm biết nói, Nxb Văn
hóa dân tộc, H.
3. Vi Hồng (2005), Mùa hoa Bjoóc loỏng, Nxb lao
động, H.
4. Vi Hồng (2005), Tuyển tập Văn, Nxb Văn hóa
dân tộc, H.
5. Lâm Tiến (2007), Cách viết tiểu thuyết của
nhà văn Vi Hồng, Báo Văn nghệ Thái Nguyên,
số 13
6. G.N.PosPelop (1985), Dẫn luận nghiên cứu văn
học, Nxb Giáo dục, H, tr.149.
7. Nhiều tác giả (2004), Từ điển thuật ngữ văn
học, Nxb Giáo dục, H.
8. Trần Đình Sử (1993), Một số vấn đề thi pháp
học hiện đại, Nxb Giaos dục, H.
SUMMARY
SOME PROMINENT FEATURES OF THE ART OF WORDING
IN VI HONG’S NOVELS
Nguyen Thi Thu Huong*
College of Sciences - TNU
Vi Hong is one of the writers of prose typical of the ethnic minorities in Vietnam in generally
and the North Vietnamese ethnic minorities in particularly. By using some typical types of
sentences in his novels such as sentences repeating structures of components, compound
sentences showing conditions and results, or compound sentences showing concession, Vi Hong
not only impressed readers with the soft, flexible, smooth and bright writing but also highlighted
his messages in each novel.
Key words: Vi Hong, prose, ethnic minorities, the art of wording, novels.
Ngày nhận bài:18/6/2014; ngày phản biện:03/7/2014; ngày duyệt đăng: 26/9/2014
Phản biện khoa học: PGS.TS. Đào Thủy Nguyên – Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên
* Tel: 0985610650
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- brief_48533_52446_16920158722_032_2046616.pdf