Môi trường thương mại - Kinh doanh quốc tế
I. CÁC LÝ THUYẾT VỀ MẬU DỊCH QUỐC TẾ 2
I.1 Chủ nghĩa trọng thương: 2
I.2 Lý thuyết về lợi thế tuyệt đối (Adam Smith) 2
I.3 Lý thuyết về lợi thế tương đối (David Ricardo) 2
I.4 Lý thuyết về sự dồi dào của các nhân tố sản xuất (Lý thuyết Heckscher-Ohlin-Samuelson) 3
I.5 Lý thuyết về đời sống sản phẩm quốc tế 4
I.5.1 Giai đoạn sản phẩm mới 4
I.5.2 Giai đoạn sản phẩm đã bão hoà 4
I.5.3 Giai đoạn sản phẩm đã được tiêu chuẩn hoá 4
I.6 Những yếu tố khác cần xem xét trong mậu dịch quốc tế 5
II. Các rào cản đối với mậu dịch 5
II.1 Lý do thiết lập rào cản đối với mậu dịch 5
II.2 Các rào cản mậu dịch thông thường 6
II.2.1 Rào cản thuế quan 6
II.2.2 Rào cản phi thuế quan 7
III. Môi trường kinh tế - chính trị 8
III.1 Sự thay đổi trong hệ thống chính trị ngày nay: 8
III.1.1 Hệ tư tưởng chính trị và hệ thống kinh tế ngày nay 8
III.1.2 Sự kiểm soát về tài sản của Nhà Nước. 9
III.1.3 Sự hợp tác của Nhà nước và giới kinh doanh 10
III.2 Sự hợp nhất kinh tế 10
III.2.1 Vấn đề tạo lập mậu dịch và chệch hướng mậu dịch 10
III.2.2 Các mức độ của sự hội nhập kinh tế 11
III.2.3 Sự hợp nhất kinh tế: Một triển vọng trong tương lai 12
IV. Hợp nhất kinh tế và chiến lược hoạt động của MNCs 13
IV.1 Liên doanh và mua lại công ty 13
IV.2 Địa phương hoá hoạt động kinh doanh 14
IV.2.1 Địa phương hoá sản phẩm 14
IV.2.2 Địa phương hoá lợi nhuận. 14
IV.2.3 Địa phương hoá sản xuất 15
IV.2.4 Địa phương hoá quản trị. 15
15 trang |
Chia sẻ: tlsuongmuoi | Lượt xem: 2805 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Môi trường thương mại - Kinh doanh quốc tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG 2: MÔI TRƯỜNG THƯƠNG MẠI - KINH TẾ QUỐC TẾ
I. CÁC LÝ THUYẾT VỀ MẬU DỊCH QUỐC TẾ
I.1 Chủ nghĩa trọng thương:
Phổ biến vào thế kỷ 18, các nhà lý luận theo lý thuyết nầy chủ trương khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu; họ cho rằng bằng cách đó họ có thể gia tăng của cải cho quốc gia (chú ý: trong giai đoạn nầy vàng được xem là một phương tiện thanh toán quốc tế và sự giàu có của quốc gia được đo lường bằng số lượng vàng mà quốc gia đó chi phối)
I.2 Lý thuyết về lợi thế tuyệt đối (Adam Smith)
Theo lý thuyết nầy thì các quốc gia nên chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng nào mà nó có lợi thế tuyệt đối; nhờ vào sự xuất khẩu nầy. nó sẽ nhập khẩu những mặt hàng mà nó không có lợi thế tuyệt đối.
Lợi thế tuyệt đối của một quốc gia về một mặt hàng nào đó được đo lường bằng năng suất lao động để sản xuất ra mặt hàng đó so với quốc gia còn lại. Một mặt hàng của một quốc gia nào đó được coi là có lợi thế tuyệt đối nếu như năng suất lao động để sản xuất ra mặt hàng đó là cao hơn so vơí quốc gia còn lại (hay nói cách khác thời gian lao động hao phí để sản xuất ra mặt hàng đó là nhỏ nhất). Lý thuyết về lợi thế tuyệt đối được đề ra theo giả định chỉ có một yếu tố sản xuất duy nhất đó là lao động.
Mặc dù lý thuyết lợi thế tuyệt đối có nhiều hạn chế - ví dụ như nó không giải thích được cơ sở của mậu dịch quốc tế giữa những nước đã phát triển và đang phát triển - (vì năng suất lao động của các nước đã phát triển thường cao hơn các nước đang phát triển cho nên không có cơ sở cho mậu dịch giữa các quốc gia nầy) nhưng nó vẫn có một ý nghĩa trong thực tiễn. Cụ thể: (i) Nếu một quốc gia có lợi thế tuyệt đối trong việc sản xuất một mặt hàng nào đó thì nó sẽ có một tiềm năng chuyên môn hoá và xuất khẩu mặt hàng đó; (ii) Nếu một quốc gia có lợi thế tuiyệt đối cho nhiều mặt hàng thì nó càng có nhiều tiềm năng trong việc đẩy mạnh xuất khẩu; (iii) Trong phạm vi một quốc gia lợi ích từ mậu dịch không phải lúc nào cũng phân phối công bằng cho mọi thành viên ở những ngành nghề và lĩnh vực khác nhau (xuất khẩu – thay thế nhập khẩu) do đó Nhà nước chỉ có thể bù đắp cho bộ phận thiệt thòi thông qua chính sách thuế.
I.3 Lý thuyết về lợi thế tương đối (David Ricardo)
Theo Ricardo, một quốc gia nào đó dù không có lợi thế tuyệt đối về cả hai mặt hàng so với quốc gia còn lại thì vẫn tồn tại cơ sở cho mậu dịch quốc tế, tức là cả hai quốc gia nầy vẫn có lợi từ mậu dịch. Cơ sở cho mậu dịch trong trường hợp nấy xuất phát từ lợi thế tương đối.
Lợi thế tương đối của một quốc gia về một mặt hàng nào đó được lý giải một cách rõ rệt nhất nếu chúng ta dùng khái niệm về chi phí cơ hội để sản xuất ra mặt hàng đó. Chi phí cơ hội để sản xuất ra một đơn vị hàng hoá nào đó được đo lường bằng số lượng đơn vị hàng hoá còn lại mà chúng ta phải hy sinh khi sử dụng nguồn lực (ở đây là lao động) để sản xuất mặt hàng mà chúng ta đang xem xét. Như vậy một quốc gia sẽ có lợi thế tương đối về một mặt hàng nào đó nếu như chi phí cơ hội để sản xuất ra mặt hàng đó thì thấp hơn so với quốc gia còn lại; lúc đó quốc gia nầy sẽ chuyên môn hoá mặt hàng mà nó có lợi thế tương đối.
Ta xem xét một mô hình mậu dịch quốc tế giản đơn trong đó chỉ có hai quốc gia A vàB; có hai hàng hoá X và Y. Năng suất lao động năm tại từng quốc gia trong việc sản xuất hai mặt hàng nầy được cho bởi biểu sau:
Hàng X
Hàng Y
Quốc gia A
50
100
Quốc gia B
200
250
Nếu theo lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith thì sẽ không có cơ sở cho mậu dịch vì quốc gia B có lợi thế tuyệt đối trong việc sản xuất cả hai mặt hàng. Nhưng theo lý thuyết lợi thế tương đối ta thấy chi phí cơ hội để sản xuất ra mặt hàng X tại quốc gia A sẽ là 100 / 50 = 2 (Điều nầy có nghĩa la để sản xuất thêm một đơn vị hàng X, quốc gia A phải hy sinh hai đơn vị hàng Y). Trong khi đó chi phí cơ hội để sản xuất một đơn vị hàng X tại quốc gia B chỉ là: 250 / 200 = 1.25 ( Điều nầy có nghĩa là để sản xuất ra một đơn vị hàng X quốc gia B chỉ hy sinh 1.25 đơn vị hàng Y). Do chi phí cơ hội để sản xuất ra một đơn vị hàng X tại quốc gia B nhõ hơn quốc gia A cho nên quốc gia B có lợi thế tương đối trong việc sản xuất ra mặt hàng X.
Bằng lập luận tương tự như trên ta thấy chi phí cơ hội để sản xuất ra một đơn vị hàng Y tại quốc gia A nhỏ hơn quốc gia B ( 0.5 so với 0.8) cho nên quốc gia A sẽ có lợi thế tương đối trong việc sản xuất ra hàng Y.
Với kết quả nêu trên ta có thể kết luận quốc gia A có thể chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu mặt hàng Y, trong khi đó quốc gia B có thể chyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu hàng X. Cả hai quốc gia nầy đếu có lợi từ mậu dịch quốc tế nếu như tỷ giá trao đổi quốc tế nằm trong khoảng 1.25 – 2.00 ( tỷ giá nầy nói lên một đơn vị hàng Y có thể đổi được bao nhiêu đơn vị hàng X) hoặc nằm trong khoảng 0.5 – 0.8 ( nếu tỷ giá nầy nói lên một đơn vị hàng X có thể đổi được bao nhiêu đơn vị hàng Y )
I.4 Lý thuyết về sự dồi dào của các nhân tố sản xuất (Lý thuyết Heckscher-Ohlin-Samuelson)
Theo lý thuyết nầy các sản phẩm sản xuất ra trong nền kinh tế thế giới được phân ra thành hai loại: sản phẩm thâm dụng về lao động và sản phẩm thâm dụng về vốn; đồng thời các quốc gia cũng được chia thành hai nhóm: các quốc gia dồi dào về vốn và quốc gia dồi dào về lao động. Ở các quốc gia dồi dào về lao động thì chi phí về nhân công sẽ thấp cho nên những sản phẩm thâm dụng về lao động sẽ có giá phí thấp và như vậy quốc gia đó sẽ có lợi thế cạnh tranh về mặt hàng nầy. Tương tự như vậy các quốc gia dồi dào về vốn sẽ có lợi thế cạnh tranh trong việc sản xuất những mặt hàng thâm dụng về vốn.
Tuy nhiên lý thuyết nầy cũng có những hạn chế nhất định. Một trong những điểm hạn chế đó là tại một số quốc gia áp dụng một mức tiền lương tối thiểu cao sẽ dẫn đến giá phí nhân công cao. Do đó quốc gia nầy cảm thấy rằng việc nhập khẩu những hàng hoá thâm dụng về nhân công đôi khi ít tốn kém hơn so với việc sản xuất tại chỗ.
I.5 Lý thuyết về đời sống sản phẩm quốc tế
Lý thuyết nầy được đề ra bởi Vernon và nó đề cập đến các giai đoạn phát triển cuả những sản phẩm mới. Những sản phẩm như vậy đầu tiên được sản xuất tại công ty mẹ, sau đó được sản xuất tại những chi nhánh ở nước ngoài, và cuối cùng được sản xuất tại những nơi mà giá phí rẻ nhất (thường tại các nước đang phát triển). Lý thuyết nầy đã giải thích được hiện tượng vì sau một quốc gia ban đầu là một nước sản xuất và xuất khẩu một sản phẩm nào đó nhưng sau nầy nó trở thành một nước nhập khẩu chính sản phẩm đó. Lý thuyết nầy tập trung vào vấn đề mở rộng thị trường và việc cải tiến kỹ thuật; hai vấn đề nầy thường không được nhấn mạnh trong lý thuyết lợi thế tương đối. Lý thuyết nầy đã nhấn mạnh vào hai vấn đề: (i) Kỹ thuật là một yếu tố quyết định trong việc hình thành và phát triển sản phẩm mới; (ii) Quy mô và cấu trúc của thị trường quyết định chiều hướng mậu dịch.
Các giai đoạn phát triển của đời sống sản phẩm quốc tế:
I.5.1 Giai đoạn sản phẩm mới
Trong giai đoạn nầy nhu cầu sẽ phát sinh tại quốc gia đề xuất ra sản phẩm mới, độ co dãn của nhu cầu theo giá cả thì rất thấp (hầu như không co dãn), lợi nhuận rất cao, và công ty sản xuất loại sản phẩm nầy đang trong quá trình tìm kiếm khách hàng mới. Khi sản xuất ngày càng gia tăng lên so với nhu cầu thì quá trình xuất khẩu sẽ bắt đầu.
I.5.2 Giai đoạn sản phẩm đã bão hoà
Sự gia tăng trong sản xuất được đảm bảo bằng việc gia tăng xuất khẩu. Đồng thời trong giai đoạn nầy các công ty cạnh tranh ở các quốc gia đã phát triển sẽ giới thiệu và phát triển những sản phẩm thay thế cho sản phẩm mới nầy. Điều nầy sẽ làm cho sự cạnh tranh trên thị trường ở các quốc gia đã phát triển ngày càng gay gắt và thị trường tại những nơi nầy có xu hướng bão hoà. Do đó chiến lược của những công ty sản xuất sản phẩm mới nầy sẽ chuyển hướng từ mở rộng thị trường tại các nước đã phát triển sang chiến lược bảo vệ thị phần. Ngoài ra chiến lược hướng về các thị trường mới tại các nước đang phát triển cũng được đẩy mạnh.
I.5.3 Giai đoạn sản phẩm đã được tiêu chuẩn hoá
Khi sản phẩm đã được tiêu chuẩn hoá, kỹ thuật sản xuất bắt đầu phổ biến rộng rãi và dễ sử dụng, việc sản xuất những sản phẩm nầy bắt đầu chuyển sang những nơi có thể sản xuất với giá phí thấp, và giá cả giờ đây đang là một nhân tố quan trọng quyết định lợi thế cạnh tranh.
Một ví dụ minh hoạ rõ nhất cho lý thuyết nầy đang diễn ra trong ngành sản xuất computer. Những phiên bản computer ban đầu giới thiệu trong giai đoạn 1984-1987 đã bước vào giai đoạn tiêu chuẩn hoá năm 1991 và sự cạnh tranh trong giai đoạn nầy chủ yếu là cạnh tranh về giá. Những phiên bản computer bước vào thị trường giai đoạn 1988-1989 đã bước vào giai đoạn bão hoà vào năm 1991. Những loại computer với dung lượng bộ nhớ cao hơn bước vào thị trường năm 1991 đã nhanh chóng bước vào giai đoạn bão hoà và vào năm 1993 chúng đã được thay đổi bởi những máy ngày càng tốt hơn. Trong giai đoạn 1994-1996 những loại computer để bàn giờ đã bị thay thế dần bởi máy tính laptop và notebook với các đặc trưng nhanh hơn, nhiếu tính năng hơn, nhẹ hơn. Và những dự báo đã cho thấy rằng vào giai đoạn 1997-1999 những máy nầy sẽ bị thay thế bởi những máy tính notebook hiện đại hơn với những chip pentium loại mới, pin sử dụng dài hạn hơn, và công suất đĩa có thể lưu giữ 1 triệu bites.
I.6 Những yếu tố khác cần xem xét trong mậu dịch quốc tế
Giá trị của tiền tệ: khi xem xét vì sao một quốc gia tiến hành mậu dịch với quốc gia khác chúng ta cần khảo sát tỷ giá hối đoái giữa hai quốc gia nầy. Ví dụ từ năm 1985 khi giá trị của đồng yen Nhật và Mark Đức gia tăng một cách đáng kể so với USD, nhiều công ty của Nhật và Đức thấy rằng sản phẩm của họ trở nên kém sức cạnh tranh trên thị trường Hoa Kỳ và lợi nhuận của họ bị giảm sút một cách đáng kể. Ngược lại sự giảm sút giá trị của USD đã làm cho hàng hoá nhập khẩu từ Hoa Kỳ trở nên hấp dẫn đối với các nước Châu Âu, kết quả là vào năm 1990, lần đầu tiên trong nhiều năm, Hoa Kỳ đã có sự thặng dư mậu dịch so với Châu Âu.
Thị hiếu của người tiêu dùng: Mậu dịch quốc tế không chỉ đơn thuần dựa trên giá cả, một số người tiêu dùng sẵn sàng trả giá cao cho một loại hàng hoá thậm chí trong trường hợp họ có thể mua một món hàng tương tự với giá thấp hơn. Việc sẵn sàng trả một giá cao hơn nầy dựa trên yếu tố tự khẳng định, sự cảm nhận về chất lượng, và những yếu tố về tâm sinh lý khác.
II. Các rào cản đối với mậu dịch
II.1 Lý do thiết lập rào cản đối với mậu dịch
Một trong những lý do phổ biến nhất cho việc thiết lập những rào cản mậu dịch chính là việc khuyến khích sản xuất nội địa, đây là chiến lược được nhiều nước Nam Mỹ thực hiện. Một lý do khác chính là khuyến khích xuất khẩu và giúp cho các nhà sản xuất trong nước chiếm lĩnh thị trường thế giới bằng cách áp dụng những hình thức như hoãn thuế, cung cấp những khoản tín dụng lãi suất thấp cho các công ty nội địa. Nhật Bản và một số nước Đông Nam Á thường áp dụng chiến lược nầy. Nhìn chung những mục tiêu phổ biến của việc thiết lập các rào cản mậu dịch thường là:
Bảo vệ công ăn việc làm cho lao động trong nước khỏi sự cạnh tranh của nước ngoài
Khuyến khích sản xuất trong nước để thay thế cho nhập khẩu
Bảo vệ những ngành công nghiệp non trẻ
Giảm bớt sự lệ thuộc vào những nhà cung ứng nước ngoài
Khuyến khích đầu tư của nhà đầu tư bản xứ và đầu tư trực tiếp của nước ngoài
Giảm bớt sự thâm hụt trong cán cân thanh toán
Khuyến khích hoạt động xuất khẩu
Ngăn chặn các công ty nước ngoài bán phá giá
Thực hiện các mục tiêu chính trị chẳng hạn từ chối mậu dịch với các quốc gia thi hành chủ nghĩa phân biệt chủng tộc
II.2 Các rào cản mậu dịch thông thường
II.2.1 Rào cản thuế quan
Nhằm hạn chế hàng hóa nước ngòai xâm nhập vào quốc gia của mình, chính phủ của nước đó thường dùng rào cản thuế quan để bảo hộ cho hàng hóa sản xuất trong nước. Thông thường các quốc gia thường áp dụng hai loại thuế quan: thuế quan tuyệt đối và thuế quan tương đối. Theo hình thức thuế quan tuyệt đối nhà nước sẽ xác định một mức thuế tuyệt đối cho mỗi đơn vị hàng hóa nhập khẩu; ngược lại với hình thức thuế quan tương đối, nhà nước sẽ xác định một thuế suất tính trên giá hàng hóa nhập khẩu.
Để đo lường mức độ bảo hộ bằng thuế quan, người ta thường dùng các chỉ tiêu sau đây:
Tỷ lệ thuế quan bình quân:
Các ký hiệu được giải thích như sau:
ti là thuế suất đánh vào mặt hàng i
Mi : giá trị hàng hóa i nhập khẩu trong năm
Tỷ lệ bảo hộ mậu dịch hiệu dụng
Các ký hiệu được giải thích như sau:
ERPi là tỷ lệ bảo hộ mậu dịch hiệu dụng cho ngành/sản phẩm i
ti là thuế suất đánh vào thành phẩm i, tỷ lệ nầy còn được gọi là tỷ lệ bảo hộ mậu dịch danh nghĩa.
aij : Tỷ trọng giá trị của chi tiết j tham gia cấu thành nên thành phẩm i.
tj : Thuế suất đánh vào chi tiết j khi nhập khẩu
Nếu ERPi > ti thì nhà nước đã thực hiện bảo hộ mậu dịch cho sản phẩm/ngành i.
Nghiên cứu tác động của việc bảo hộ mậu dịch bằng thuế quan, người ta thấy rằng nhờ vào việc đánh thuế giá cả hàng hóa nhập khẩu sẽ trở nên cao hơn, do đó các nhà sản xuất trong nước có thể gia tăng được sản lượng ở mức giá đó so với trường hợp tự do mậu dịch, nhà nước sẽ có một nguồn thu dưới hình thức doanh thu thuế nhập khẩu, tuy nhiên người tiêu dùng giờ đây bị mất mát phúc lợi vì họ phải trả một giá cao hơn cho hàng hóa tiêu dùng so với trường hợp tự do mậu dịch.
II.2.2 Rào cản phi thuế quan
II.2.2.1 Hạn ngạch nhập khẩu
Hạn ngạch nhập khẩu là một hình thức giới hạn về số lượng hàng hóa được nhập khẩu vào một quốc gia. Theo hình thức nầy Nhà nước sẽ định ra một sản lượng tối đa được phép nhập khẩu vào nước mình. Nếu hạn ngạch được ấn định bằng zero, như trường hợp của xì gà Cuba khi nhập vào Hoa Kỳ, thì người ta sẽ gọi trường hợp đó là cấm vận thương mại. Trong một số trường hợp quotas đượx thiết lập theo một tỷ lệ % so với thị phần. Ví dụ Nhà nước Canada cho phép các ngân hàng nước ngoài chiếm giữ không quá 16 % khoản ký gởi trong ngân hàng Canada; và Cộng đồng kinh tế Châu Âu giới hạn lượng nhập khẩu xe hơi từ Nhật Bản là 10% thị phần của EC.
Tác động của hạn ngạch có thể được xem như tương tự với trường hợp rào cản thuế quan: nó cũng đẩy giá cả hàng hóa lên cao do sự khống chế về mặt sản lượng nhằm hạn chế nguồn cung. Tuy nhiên nó phát huy tính chất rào cản mạnh hơn so với thuế quan. Thật vậy, nhà xuất khẩu nước ngoài có thể vượt qua rào cản thuế quan bằng giải pháp tín dụng thương mại, qua đó đẩy mạnh lượng hàng hóa nhập khẩu vào một quốc gia cao hơn so với mức khống chế của nhà nước bằng công cụ thuế quan; nhưng trong trường hợp hạn ngạch thì họ không thể làm được điều nầy, do đó công cụ hạn ngạch phát huy tác dụng rào cản hữu hiệu hơn thuế quan.
II.2.2.2 Tự nguyện hạn chế xuất khẩu
Theo hình thức nầy một quốc gia đang bị thâm hụt trong cán cân thương mại quốc tế sẽ đề nghị quốc gia đang có thặng dư trong cán cân thương mại song phương với nó chủ động cắt giảm lượng xuất khẩu. Bằng cách nầy quốc gia đó có thể khôi phục lại sự mất cân đối trong cán cân mậu dịch quốc tế. Lẽ đương nhiên để có thể thực hiện điều nầy, quốc gia bị thâm hụt trong cán cân thương mại quốc tế phải gây những áp lực lên quốc gia đang có thặng dư; các áp lực nầy có thể là sự đe dọa sẽ gia tăng rào cản thuế quan hay hạn ngạch lên hàng hoá xuất khẩu từ quốc gia đang có thặng dư. Hình thức nầy thường được Hoa Kỳ sử dụng trong mối quan hệ mậu dịch với Nhật Bản, cụ thể là việc thúc ép Nhật Bản phải cắt giảm lượng thép xuất khẩu sang Hoa Kỳ trong giai đoạn 1981-1985.
II.2.2.3 Các rào cản về hành chính
Các rào cản phi thuế quan dạng nầy thường là các quy định, luật lệ, các thủ tục hành chính được đề ra nhằm ngăn cản, hạn chế quá trình mua hàng của nước ngoài. Một số ví dụ của những rào cản nầy như: (i) Việc trì hoãn quá trình nhập khẩu bằng cách thiết lập một quy trình nhập khẩu khắt khe; (ii) Thiết lập những tiêu chuẩn chất lượng riêng nhằm loại trừ những nhà sản xuất nước ngoài bán hàng vào quốc gia đó; (iii) Thực hiện chính sách mua hàng nội địa. Thực chất của những rào cản nầy là việc hạn chế nhập khẩu và bảo vệ sản xuất nội địa.
II.2.2.4 Các giới hạn về tài chính
Có rất nhiều hình thức giới hạn về tài chính. Một trong những hình thức đó là việc kiểm soát ngoại hối nhằm giớí hạn sự dịch chuyển của dòng ngoại tệ. Ví dụ như nhiều nước Châu Mỹ La tinh cho phép các nhà xuất khẩu đổi USD lấy nội tệ và ngược lại nhưng họ lại giới hạn các nhà nhập khẩu mua USD để nhập khẩu hàng hoá. Một hình thức giới hạn tài chính khác đó là họ sẽ kiểm soát luợng ngoại tệ được mang ra khỏi quốc gia. Một hình thức nữa đó là họ sẽ thiết lập tỷ giá hối đoái cố định rất thuận lợi cho nội tệ. Ví dụ một USD có thể đổi lấy một lượng nội tệ theo tỷ lệ 1:1, trong khi đó nếu không có chính sách kiểm soát ngoại hối tỷ lệ trao đổi sẽ là 1:4. Tuy nhiên điều nầy sẽ dẫn đến việc hình thành thị trường chợ đen và loại rào cản nầy thường bị phê phán bởi Quỹ Tiền Tệ quốc tế.
II.2.2.5 Trợ cấp cho nhà sản xuất trong nước
Theo hình thức nầy, chính phủ sẽ tiến hành trợ cấp cho những nhà sản xuất các lọai hàng hóa thay thế nhập khẩu ở trong nước. Việc trợ cấp có thể là trợ cấp trực tiếp cho các nhà sản xuất ở những ngành nghề được bảo hộ hay thông qua việc cung cấp các dịch vụ công cộng thiết yếu cho các nhà sản xuất nầy với một giá rẽ. Một ví dụ tiêu biểu cho hình thức nầy đó là việc trợ cấp cho ngành nông nghiệp tại thị trường của Cộng đồng chung Châu Âu (EC), tuy nhiên việc trợ cấp nầy đã bị chính phủ Hoa Kỳ phản đối mạnh mẽ, và Hoa Kỳ đã gây áp lực để buộc EC phải xóa bỏ trợ cấp nầy trong thập niên 1990.
III. Môi trường kinh tế - chính trị
III.1 Sự thay đổi trong hệ thống chính trị ngày nay:
III.1.1 Hệ tư tưởng chính trị và hệ thống kinh tế ngày nay
Hệ tư tưởng chính trị: Hệ tư tưởng là tập hợp những giá trị như niềm tin, các lý thuyết, và chủ nghĩa được hình thành và phổ biến trong xã hội đó. Nó sẽ hướng dẫn trực tiếp các hành động trong xã hội. Thông thường hệ tư tưởng sẽ có quan hệ mật thiết với các triết lý kinh tế do đó việc nhận dạng các hệ tư tưởng trên thế giới sẽ giúp chúng ta giải thích được chính sách kinh tế của quốc gia.
Hệ tư tưởng chính trị có thể phân thành ba nhóm: Hệ tư tưởng dân chủ; hệ tư tưởng cực quyền hay chuyên chính. Trong những nước theo hệ tư tưởng dân chủ có những đặc điểm như sau: người dân có quyền phát biểu và bày tỏ ý kiến riêng của mình một cách tự do; họ có quyền bầu cử người đại diện cho mình vào các cơ quan lập pháp; Cơ quan tư pháp có quyền độc lập trong việc bảo vệ những quyền lợi của công dân. Đối với hệ tư tưởng cực quyền thì quyền kiểm soát Nhà nước và xã hội thường rơi vào tay của một tôn giáo nào đó (cực quyền tôn giáo) hoặc vào tay quân đội (cực quyền quân sự) và họ luôn làm mọi việc nhằm phục vụ cho quyền lợi của họ.
Hệ thống kinh tế: Bao gồm ba dạng: Thị trường tự do thuần tuý; kinh tế tập trung điều tiết từ nhà nước; và kinh tế hỗn hợp. Trong một thị trường tự do thuần tuý, hàng hoá và dịch vụ được phân bổ dựa trên nhu cầu. Nếu người tiêu dùng tỏ ra ưa thích loại hàng hoá nào đó thì nó sẽ được đáp ứng bởi sự gia tăng sản xuất của các nhà sản xuất và ngược lại trong trường hợp những hàng hoá không được ưa chuộng trên thị trường. Trong nền kinh tế tập trung, hàng hoá và dịch vụ được phân bổ dựa trên một kế hoạch được thiết lập bởi Nhà Nước. Trong những năm gần đây, nhiều quốc gia theo đuổi nền kinh tế hỗn hợp, nó được đặc trưng bởi sự kết hợp những đặc điểm giữa nền kinh tế tập trung và kinh tế thị trường thuần tuý
III.1.2 Sự kiểm soát về tài sản của Nhà Nước.
Trong thập niên 80 vừa qua, rất nhiều quốc gia đã tiến hành việc tư nhân hoá nền kinh tế, đó là một quá trình bán những tài sản của các doanh nghiệp Nhà Nước cho tư nhân. Để có thể hiểu được lý do và sự tác động của chính sách nầy chúng ta cần khảo sát những lợi ích của hình thức sở hữu Nhà nước và lý do tiến hành những chương trình tư nhân hoá.
Có khoảng 6 lý do để Nhà Nước tiến hành thiết lập hình thức công hữu. Chúng bao gồm: (i) Hỗ trợ quá trình phát triển kinh tế; (ii) tạo nguồn thu nhập cho Nhà Nước; (iii) bảo vệ một số công ty quan trọng khỏi sự phá sản; (iv) thực hiện được những chương trình vì lợi ích kinh tế quốc gia; (v) Tạo một sức mạnh kinh tế và chính trị cho những thành phần đang nắm quyền lực tại quốc gia; (vi) bảo đảm sự phân phối công bằng mọi hàng hoá và dịch vụ cho mọi công dân.
Ngược lại với quá trình công hữu hoá nêu trên là quá trình tư nhân hoá. Hình thức phổ biến nhất của quá trình tư nhân hoá là là hình thức bán tài sản. Một hình thức khác là hình thức hợp đồng quản trị; theo hình thức nầy Nhà nước sẽ trao quyền điều khiển kinh doanh cho tư nhân nhưng vẫn giữ quyền sở hữu. Một số lý do đưa ra để tiến hành quá trình tư nhân hoá bao gồm: (i) Thành phần kinh tế tư nhân có thể tiến hành sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn Nhà nước; (ii) Một sự thay đổi về chính trị có thể dẫn đến hành vi bán tài sản quốc doanh; (iii) Công ty Nhà nước mặc dù đang có khả năng sinh lợi nhưng Nhà nước tin rằng sẽ có thể thu được nhiều hơn nếu bán nó cho tư nhân; (iv) Sử dụng tài sản bán được để trả những khoản nợ nước ngoài; (v) bán những công ty quốc doanh đang trong tình trạng thua lỗ nhằm giảm bớt gánh nặng ngân sách; (vi) Công ty quốc doanh đang cần thiết một khoản ngân quỹ để tiến hành các hoạt động nghiên cứu và phát triển nhưng Nhà nước thì không sẵn sàng chi cho các hoạt động nầy; (vii) Các tổ chức tài chính quốc tế đòi hỏi việc tư nhân hoá như là một điều kiện để tài trợ cho quốc gia đó, hoặc giải ngân cho các nguồn tài trợ.
III.1.3 Sự hợp tác của Nhà nước và giới kinh doanh
Tuy rất nhiều quốc gia tiến hành quá trình tư nhân hóa nhưng điều đó không có nghĩa là các chính phủ nầy tách rời khỏi hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Cả Cộng đồng kinh tế Châu Âu và Nhật bản đều tiến hành các hoạt động hợp tác với các hoạt động kinh doanh của các công ty. Một ví dụ rõ nét nhất là việc tài trợ cho hoạt động nghiên cứu và phát triển máy bay Airbus của EC. Tại Nhật bản sau chiến tranh thế giới lần II Nhà nước đã nhận lấy trách nhiệm thực hiện các chính sách thương mại và công nghiệp bằng cách thiết lập Bộ Thương mại quốc tế và công nghiệp (MITI). Nỗ lực ban đầu của tổ chức nầy là tiến hành tìm thị trường và bảo vệ các công ty Nhật bản trong hoạt động sản xuất và mậu dịch quốc tế trong 4 lĩnh vực: năng lượng, thép, đóng tàu, và phân bón. Những ưu đãi trong bốn ngành nầy đã được đưa ra nhằm khuyến khích đầu tư và thúc đẩy xuất khẩu. Trong những năm gần đây MITI chú ý khuyến khích những ngành nghề tiêu dùng ít năng lượng như computer và công nghiệp hoá chất.
Tại Hoa kỳ, sự giúp đỡ của Nhà nước đối với giới kinh doanh cũng được thực hiện. Vào năm 1990, giới kinh doanh, các chuyên gia, và chính quyền đã họp với nhau đã xác định danh sách 22 ngành quan trọng với sự phát triển kinh tế và quân sự của Hoa kỳ nhằm giúp đỡ các ngành nầy tạo một lợi thế cạnh tranh quốc tế. Các ngành nầy bao gồm vật liệu composite, hệ thống computer, màn hình có độ phân giải cao.
III.2 Sự hợp nhất kinh tế
Sự hợp nhất kinh tế thể hiện việc thiết lập các quy luật, luật lệ mậu dịch quốc tế giữa các quốc gia nhằm thúc đẩy mậu dịch quốc tế và sự hợp tác giữa các quốc gia trên thế giới. Mặc dù sự hợp nhất đem lại những lợi thế do việc hình thành những khu vực mậu dịch tự do nhưng trong quá trình thực hiện nó vẫn tồn tại những trở ngại nhất định. Ví dụ để hình thành một liên hiệp kinh tế, nhiều nước thường chịu tác động bởi một nước có tiềm lực kinh tế mạnh nhất và nước nầy sẽ có thế mạnh trong đàm phán để thiết lập thuế quan và hạn ngạch đối với các nước ngoài khối. Việc thiết lập nầy có thể sẽ đem lại nhiều lợi thế cho nước đó. Trong trường hợp một sự hợp nhất kinh tế toàn diện, việc chọn một đồng tiền chung hay duy trì tỷ giá cố định giữa các nước là một vấn đề khó khăn trong việc thiết lập và duy trì. Trong suốt 25 năm vừa qua, đã có nhiều nỗ lực giữa các nước trong việc thiết lập những khu kinh tế hợp nhất nhưng chỉ có trường hợp của Cộng đồng kinh tế Châu Âu là tương đối thành công nhất.
III.2.1 Vấn đề tạo lập mậu dịch và chệch hướng mậu dịch
Sự hợp nhất kinh tế trong khu vực sẽ dẫn đến một bước chuyển biến trong các hoạt động kinh tế. Những sự chuyển biến nầy có thể hình thành nên sự tạo lập hay chệch hướng mậu dịch. Hai hiện tượng nầy xuất hiện lệ thuộc vào hiệu quả kinh tế giữa các nước thành viên trong mối quan hệ so sánh với các nước bên ngoài.
Tạo lập mậu dịch xảy ra khi các nước thành viên trong khu vực hợp nhất đó tập trung nỗ lực để chuyên môn hoá sản xuất những mặt hàng nào mà họ có lợi thế cạnh tranh nhất và họ sẽ tiến hành trao đổi với các nước thành viên khác. Tạo lập mậu dịch sẽ dẫn đến một hiệu quả kinh tế cho các nước trong quá trình sản xuất, những nhà sản xuất với chi phí thấp sẽ nắm được thị phấn tại những nước có chi phí sản xuất cao, cũng như họ sẽ gia tăng được khối lượng xuất khẩu. Điều nầy có thể diễn ra bởi vì các nhà sản xuất trong khu vực có thể chào mời hàng hoá với một mức chi phí thấp và chất lượng cao so với những đối thủ cạnh tranh bên trong và ngoài khối kinh tế hợp nhất. Ví dụ trong trường hợp của Mehico, một nhà sản xuất có chi phí thấp, giờ đây đang sản xuất xe hơi cho thị trường Hoa Kỳ và Châu Mỹ La tinh.
Chệch hướng mậu dịch xảy ra khi các thành viên trong một khối kinh tế hợp nhất phải giảm khối lượng mẫu dịch với các nước bên ngoài khối trong khi các nuớc nầy có thể sản xuất và cung ứng hàng với một mức phí tổn thấp. Một lý do làm xuất hiện hiện tượng nầy đó là việc áp đặt những hàng rào thuế quan và phi thuế quan mới đối với các nước ngoài khối đồng thời xoá bỏ những rào cản mậu dịch giữa các nước trong cùng một khối làm cho việc mua hàng hoá giữa các nước thành viên giờ đây trở nên rẻ hơn và các nước ngoài khối giờ đây không thể cạnh tranh với họ được. Hiện tượng nầy đã dẫn đến sự mất hiệu quả trong sản xuất và phân công lao động quốc tế.
III.2.2 Các mức độ của sự hội nhập kinh tế
Khu vực mậu dịch tự do
Khu vực mậu dịch tự do là một hình thức hợp nhất kinh tế mà trong đó rào cản mậu dịch giữa các nước thành viên đã được xoá bỏ. Theo hình thức nầy mỗi quốc gia sẽ tìm kiếm lợi ích từ mậu dịch quốc tế bằng cách chuyên môn hoá sản xuất những mặt hàng mà nó có lợi thế cạnh tranh tương đối và nhập khẩu những mặt hàng mà nó không có lợi thế cạnh tranh tương đối.
Một trong những khu vực mậu dịch tự do nổi tiếng nhất là khu vực mậu dịch tự do Châu Âu (EFTA), khu vực nầy bao gồm các nước: Austria, Finland, Iceland, Lichtenstein, Sweden, và Switzerland; trước đây nó còn bao gồm cả một thành viên cũ là Liên hiệp Anh (trước khi gia nhập vào cộng đồng kinh tế Châu Âu. Một ví dụ khác là khu vực mậu dịch tự do giữa Hoa Kỳ và Canada được thành lập vào năm 1989. Sau đó khu vực nầy đã kết nạp thêm một thành viên mới là Mehico. Trong khi tình trạng chệch hướng mậu dịch xảy ra tại nhiều khu vực tự do mậu dịch khác thì tại khối kinh tế nầy sự tạo lập mậu dịch rất lớn đã xuất hiện.
Liên hiệp thuế quan
Liên hiệp thuế quan là một hình thức hợp nhất kinh tế trong đó hàng rào mậu dịch giữa các nước trong cùng một khối được xoá bỏ và các nước trong khối đều áp dụng một chính sách thương mại giống cho các nước bên ngoài. Chính sàch nầy đã dẫn đến các nước nầy đều áp dụng một biểu thuế quan thống nhất do đó các nước bên ngoài phải chịu cùng một mức thuế khi xuất khẩu hàng hoá tới mọi nước thành viên.
Dưới hình thức liên hiệp thuế quan các nước thành viên bị mất sự độc lập trong việc kiểm soát và hình thành các chính sách kinh tế riêng của mình. Ngày nay hầu hết các khối kinh tế trên thế giới ít lựa chọn hình thức liên hiệp thuế quan mà họ thường tìm những hình thức hội nhập cao hơn ví dụ như: thị trường chung, hay Liên hiệp kinh tế.
Thị trường chung
Là một hình thức hội nhập kinh tế với các đặc điểm: (i) Không ồn tại các rào cản mậu dịch giữa các nước; (ii) áp dụng một chính sách mậu dịch chung với các nước ngoài khối; (iii) Sự dich chuyển tự do các yếu tố sản xuất giữa các nước thành viên. Hình thức hội nhập nầy cho phép tái phân bố lại các nguồn lực lao động, vốn, kỹ thuật một cách có hiệu quả dựa trên lý thuyết về lợi thế cạnh tranh tương đối
Liên hiệp kinh tế
Liên hiệp kinh tế là một hình thức hợp nhất kinh tế cao nhất, nó được đặc trưng bởi sự tự do dịch chuyển của hàng hoá, dịch vụ, các nhân tố của sản xuất giữa các quốc gia và việc thiết lập những chính sách kinh tế chung cho mọi quốc gia thành viên. Một liên hiệp kinh tế có các đặ trưng sau: (i) Một chính sách tiền tệ va tài chính đồng nhất cho mọi nước thành viên; (ii) một đồng tiền chung hoặc một tỷ giá cố định cho việc chuyển đổi giữa các đồng tiền; (iii) Thực hiện một cấu trúc và một tỷ lệ thuế như nhau cho mọi thành viên. Với hình thức hợp nhất kinh tế nầy sự tự chủ về việc ra các chính sách kinh tế phải dựa trên sự đồng thuận và không mâu thuẩn về lợi ích cho toàn khối nói chung. Đây chính là một khó khăn cho Công đồng kinh tế Châu âu trong việc thực hiện hình thức nầy.
III.2.3 Sự hợp nhất kinh tế: Một triển vọng trong tương lai
Sau khi khảo sát về các hình thức hợp nhập kinh tế, một số điểm cần được lưu ý:
Không cần thiết cho một quốc gia theo đuổi sự hội nhập kinh tế đi từ hình thức thấp cho đến hình thức cao
Sự hợp nhất kinh tế dẫn đến sự tự do mậu dịch luôn tạo ra một lợi thế và hiệu quả cho các nước thành viên khi họ chuyên môn hoá sản xuất những mặt hàng mà họ lợi thế cạnh tranh tương đối. Tuy nhiên khi một nhóm quốc gia thiết lập một hàng rào thuế quan lên các quốc gia bên ngoài, tình trạng được – mất trong mậu dịch quốc tế sẽ xảy ra. Những quốc gia bên ngoài khối do chịu áp lực về thuế quan sẽ mất lợi thê cạnh tranh so với những nước trong cùng một khối mậu dịch, thị phần và doanh số sẽ bị giảm sút.
Thực hiện sự hợp nhất kinh tế sẽ dẫn đến hiệu quả kinh tế theo quy mô bên trong. Việc xoá bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan sẽ dẫn đến sự mở rộng thị trường, các nhà sản xuất gia tăng được sản lượng. Mặt khác việc cho phép tự do dịch chuyển các yếu tố sản xuất sẽ dẫn đến hiệu quả kinh tế theo quy mô bên ngoài bởi vì các quốc gia có thể sử dụng các nguồn nhân lực có kỹ năng hơn, sử dụng các nguồn vốn rẻ tiền hơn, tiếp thu được những kỹ thuật sản xuất hiện đại. Nói cách khác, một số công ty có thể khai thác các nguồn lực có hiệu quả hơn từ các nước thành viên khác để gia tăng hiệu quả của sản xuất.
Cuối cùng, trong phạm vi ngắn hạn, một số quốc gia có thể bị những thiệt thòi bởi vì một số nước thành viên khác do có những hiệu quả và lợi thế trong một số ngành sẽ thống trị và chiếm lĩnh một số lĩnh vực sản xuất và ngành nghề.
IV. Hợp nhất kinh tế và chiến lược hoạt động của MNCs
Một MNC có thể sử dụng những hoạch định chiến lược như thế nào để có thể có lợi từ một môi trường kinh tế đã hợp nhất? Một số hướng đi sau đây đã được MNCs áp dụng.
IV.1 Liên doanh và mua lại công ty
Một trong những cách thức phổ biến nhất để có lợi ích từ sự hợp nhất kinh tế đối với MNCs đó la việc thiết lập một liên doanh với những công ty thuộc một quốc gia nằm trong khối kinh tế hợp nhất đó. Ví dụ Boeing và Airbus đang xem xét một dự án liên doanh để sản xuất một loại máy bay phản lực 800 chỗ ngồi; Spring và Alcatel đang tham gia phát triển một dự án liên doanh nhằm phát triển hệ thống truyền thông nhanh. Một ví dụ nữa là liên doanh giữa Whirlpool và N.V. Philips, hai công ty lớn trong việc sản xuất những thiết bị điện gia dụng.
Tình huống liên doanh giữa Whirlpool và N.V.Philips: Vào cuối thập niên 1980s Whirlpool đã thống trị thị trường Hoa Kỳ. Công ty nầy đã bán những sản phẩm riêng biệt cho từng phân khúc thị trường riêng tại Hoa Kỳ và họ cảm thấy chỉ có thể mở rộng thị trường bằng cách đa dạng hoá hoạt động trên các lĩnh vực khác ví dụ như đồ điện gia đình, các thiết bị điện sử dụng ngoài trời, các sản phẩm xây dựng, hoặc là mở rộng hoạt động trên thị trường quốc tế. Qua nghiên cứu, công ty chọn con đường mở rộng hoạt động ra thị trường quốc tế và cố gắng tìm kiếm một đối tác thích hợp. Đối tác mà công ty chọn đó chính là công ty N.V.Philips của Hà Lan. Sự lựa chọn đối tác nầy dựa trên niềm tin của các nhà chiến lược cho rằng thị trường đồ điện gia dụng cuối cùng sẽ bị chi phối và thống trị bởi những công ty lớn có hiệu quả nhất trên thị trường và đó việc tìm kiếm một đối tác thích hợp là một bước quan trọng đầu tiên. Philips có thể cung cấp cho Whirlpool một số lợi thế quan trọng; chúng bao gồm những kiến thức, kinh nghiệm kinh doanh về thị trường địa phương; một hệ thống phân phối trên toàn cõi Châu Âu; những trung tâm sản xuất mang tính chiến lược; và một năng lực nghiên cứu và kỹ thuật rất mạnh. Ngày nay đơn vị liên doanh Whirlpool Internaional B.V (WIBV) hoạt động như là một chi nhánh độc lập của Whirlpool tại Châu Âu và cả hai công ty cùng góp vốn liên doanh nầy đang chia sẻ những công nghệ hiện đại trong sản xuất ví dụ như loại kỹ thuật sản xuất hệ thống lạnh không đóng tuyết, các loại tủ lạnh cách ly chất lượng cao, hệ thống máy giặt. Điều nầy đã làm cho WIBV trở thành một nhà sản xuất thiết bị điện mạnh nhất Châu Âu.
Tình huống trong ngành sản xuất bia: Rất nhiều nhà sản xuất bia nhận thấy rằng rất khó mà thay đổi ngươi tiêu dùng thay đổi nhãn hiệu. Điều nầy là một sự thật hiển nhiên tại một số nước như: Germany, England, The Netherlands, ở đó bia là một thức uống giải khát phổ biến. Khách hàng tại những nước nầy thường rất trung thành với những nhãn hiệu bia tại địa phương; và như vậy, một cách tốt nhất để thâm nhập vào thị trường mới đó là việc mua lại các ãng bia địa phương. Cụ thể hãng bia Guinness của Anh đã mua lại hãng bia lớn nhất của Tây Ban Nha: La Cruz del Campo. Tuy nhiên hãng bia đi đầu trong việc nầy đó chính là Heinekein. Hãng bia nầy đã mua lại rất nhiều nhà máy bia nhỏ trên lục địa nầy. Kết quả của chiến lược nầy đã làm cho nhiều hãng bia lớn tại Châu Âu đã có tỷ lệ % doanh số tại hải ngoại khá lớn, điều nầy ngược lại với các công ty của Hoa Kỳ. Ví dụ về các tỷ lệ % doanh số tại hải ngoại của một số công ty bia trên thế giới như sau: Các công ty của Hoa Kỳ: Anheuser-Bush (3%); Miller (1%); Adolph Coors (1%); G.Heileman (1%). Các công ty của Canada: Molson (12%); Labatt (24%). Hà Lan: Heinekein (85%). Pháp: BSN (57%). Anh: Guinness (65%). Đan Mạch: United Breweries (75%). Belgium: Interbrew (55%) (các số liệu trên là số liệu năm 1990)
IV.2 Địa phương hoá hoạt động kinh doanh
Các công ty đa quốc gia không bao giờ tiến hành các hoạt động kinh doanh theo một cách tương tự như việc kinh doanh tại nội địa. Các công ty thành công và có chiến lược dài hạn bao giờ cũng tiến hành địa phương hoá hoạt động kinh doanh trên các lĩnh vực: sản phẩm, lợi nhuận, sản xuất, và quản trị.
IV.2.1 Địa phương hoá sản phẩm
Địa phương hoá sản phẩm đòi hỏi việc phát triển, sản xuất, và marketing sản phẩm phải thích ứng với nhu cầu đặc thù của người tiêu dùng tại địa phương, khu vực. Điều nầy đòi hỏi các công ty đa quốc gia phải hoàn thiện và cải tiến các sản phẩm dù đã bán thành công tại các khu vực khác. Ví dụ người tiêu dùng tại Bắc Mỹ thường sử dụng xe gắn máy như là một phương tiện thể thao và giải trí, do đó họ tìm kiếm những loại sản phẩm có công suất cao và tốc độ nhanh. Ngược lại, ở những nước Châu Á xe gắn máy được xem như một phương tiện vận chuyển do đó họ yêu cầu giá phí phải rẻ và dễ dàng sửa chữa, bảo trì. Tại Châu Úc thì những người chăn cừu thường dùng môtô cho việc theo dõi, chăm sóc đàn cừu cho nên họ thường yêu cầu các loại xe có vòng xoắn tốc độ chậm.
Các công ty đa quốc gia thường địa phương hoá sản xuất bằng cách đầu tư vào lĩnh vực nghiên cứu và phát triển, từ đó họ có thể sản xuất những sản phẩm phù hợp với yêu cầu tiêu dùng tại nơi đó. Tuy nhiên điều nầy cũng là một khó khăn cho những công ty đa quốc gia thành công với những sản phẩm tại quê nhà và họ không sẵn lòng thay đổi sản phẩm của họ. Trường hợp của các ngân hàng Nhật Bản là một ví dụ rõ nhất. Tại Nhật bản, các ngân hàng chỉ có một số ít khách hàng có những tài khoản được kiểm soát kỹ lưỡng thường xuyên cho nên họ không quen tìm kiếm những khách hàng mua hàng theo tín dụng. Khi những ngân hàng nầy mở rộng hoạt động tại Hoa Kỳ họ gặp nhiều trở ngại bởi vì chỉ có một số ít người hài lòng với các dịch vu hạn chế của ngân hàng Nhật.
IV.2.2 Địa phương hoá lợi nhuận.
Địa phương hoá lợi nhuận thể hiện việc tái đầu tư lợi nhuận vào thị trường địa phương. MNCs thực hiện hoạt động nầy bằng cách dùng lợi nhuận của họ mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh tại địa phương, thiết lập những nhà máy mới, thuê thêm lao động. Tại Hoa Kỳ, hãng Honda đã khởi sự hoạt động kinh doanh của mình với một khoản đầu tư là $ 250.000 và đã liên tục đầu tư mở rộng liên tục trong nhiều năm. Đến ngày nay Honda đã có một nhà máy tại Ohio với trị giá khoảng 2 tỷ USD chuyên sản xuất môtô, ôtô, và các động cơ dùng trong sản xuất.
IV.2.3 Địa phương hoá sản xuất
Địa phương hoá sản xuất bao hàm việc sản xuất hàng hoá tại chỗ nơi MNC đang đầu tư. Rấ nhiều MNCs bước vào thị trường quốc tế bằng cách xuất khẩu hàng sang nước nó kinh doanh. Tuy nhiên đây chỉ là một chiến lược ngắn hạn, về phương diện dài hạn họ sẽ tiến hành đầu tư và sản xuất ngày càng nhiều chi tiết tại nơi họ kinh doanh và cuối cùng họ sẽ nội địa hoá hoàn toàn sản phẩm đó.
IV.2.4 Địa phương hoá quản trị.
Có nhiều cách để một MNC địa phương hoá hoạt động quản trị bằng cách thực hiện một chiến lược đa cực trong kinh doanh. Họ sẽ khuyến khích các viên chức quản trị đến từ nước chủ nhà học tập văn hoá địa phương và hội nhập vào văn hoá của cộng đồng. Những cuộc nghiên cứu gần đây cho thấy những MNC với đội ngũ viên chức nhiều tuổi sẽ nắm bắt được ngôn ngữ địa phương thì dễ dàng hội nhập văn hoá hơn những công ty sử dụng các viên chức trẻ tuổi. Một cách khác để địa phương hoá quản trị đó là nên phân quyền cho các viên chức quản trị bản xứ và hỗ trợ họ thực hiện nhiệm vụ của họ, điều nầy sẽ tạo một mối liên kết tốt giữa quốc gia bản xứ và nước chủ nhà./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Môi trường thương mại - kinh doanh quốc tế.doc