Ngày xưa, do chịu ảnh hưởng nền giáo dục của Nho giáo nên người Việt Nam ta rất coi trọng tư tưởng tôn Sư trọng đạo, cho dù vị Thầy ấy là thầy dạy nghề hay là thầy dạy chữ thì vị trí của người Thầy cũng rất được tôn kính chỉ đứng thứ hai sau nhà Vua, trên cả Cha Mẹ theo tinh thần Quân-Sư-Phụ. Vào các dịp lễ tết trong năm học trò luôn đến nhà thăm viếng kính lễ thầy để bày tỏ một chút lòng biết ơn đối với người đã giúp cho mình những hành trang cần thiết để bước vào đời một cách vững chải và tự tin.
38 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2210 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Mối quan hệ thầy và trò trong Phật Giáo, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a Thầy và trò có sự sai biệt theo từng hệ phái, nhưng mục đích thì đều giống nhau. Vị thầy luôn mong muốn đệ tử mình lãnh ngộ được chân lý tối thượng.Ở phong cách truyền đạo của thiền tông có thể nói là rất mạnh bạo, la hét, đánh mắng, xua đuổi.v.v. khiến cho người hỏi đạo buông xả tất cả không bị câu thúc bởi cái ác hoặc cái thiện, nhận cho ra cái thực thể không bị vướng mắc vào bất kỳ đâu, xa lìa được tất cả các phạm trù đối đãi, hoàn toàn thong dong tự tại. Ở Tông phái tịnh độ thì dễ hiểu, có phần nhẹ nhàng hơn và phổ cập các căn cơ, nương vào câu niệm Phật lấy đó làm đề mục để chú tâm, thanh lọc tạp niệm đưa đến sự tỉnh tâm, vắng bặt trần duyên cho đến nhất tâm bất loạn thì “hoa khai kiến phật ngộ vô sanh” tức là cũng đưa đến chỗ chấm dứt luân hồi. Ở Mật tông thì có sự mật hộ của thần chú, thế nhưng người tu pháp môn này thì đòi hỏi sự định tâm cao độ thì mới có kết quả phát huy được năng lực huyền bí của những câu thần chú. Tựu trung lại ta thấy dù ở khía cạnh nào thì mục đích cuối cùng là nhận ra được bản lai diện mục của chính mình và như thế chúng ta thấy rõ được người thầy phải có trách nhiệm với học trò không đơn giản chút nào, có câu: “giáo bất nghiêm sư chi đọa”ỉ là vậy!
Cha mẹ sanh cho ta tấm thân tứ đại có sanh có diệt, công ơn ấy đã được từ bậc Thánh cho đến phàm phu đều rất coi trọng và tôn thờ. Còn Thầy trao cho ta giới thân tuệ mạng, dìu dắt ta từng bước một, vui mừng khi thấy đệ tử mình siêng năng tinh tấn, lo lắng mỗi khi học trò mình mỏi gối chồn chân, nuôi làm sao, dạy thế nào để chúng đi đúng đường mà không bị hoa thơm cỏ lạ làm vướng chân. Có rất nhiều câu chuyện viết về sự việc thầy dạy trò cũng giống như đức Phật vậy, bằng cách này hoặc cách khác tuỳ theo căn cơ của từng người mà dạy, dụng nhơn như dụng mộc, không khuôn sáo, không gò ép miễn làm sao đạt được mục đích thì thôi. Như vậy mối quan hệ thầy trò trong thiền môn là một mối quan hệ đặc biệt, trong đó thầy chịu trách nhiệm hoàn toàn về sự nghiệp tu đạo của học trò, còn học trò hoàn toàn tin tưởng vào thầy. Nhờ mối quan hệ như thế người thầy theo dõi rất sát, nắm vững trình độ của học trò mình, những gì còn vướng mắc trong quá trình tu tập của họ, những câu chuyện trao đổi giữa thầy và trò, những câu chuyện thiền được ghi lại trong các sách ngữ lục của các thiền sư và thường được gọi là công án hay thoại đầu đã phản ảnh mối quan hệ đó.
2.3.1 Hình ảnh thầy trò qua các câu chuyện Thiền
Lối công án hay thoại đầu của các vị Tổ không những đặt ra những câu hỏi lạ khó hiểu, mà những câu trả lời cũng rất khó nghe, mục đích của các vị này là muốn học trò không nên biểu hiện suy tư mà hãy nhìn thẳng vào thực tại và tự mình nhìn lấy, chứ không ai có thể làm thay cho mình được cả, kể cả thầy mình. Điển hình như ngài Huệ Khả xin tổ Đạt Ma an tâm cho mình, Tổ nói: “Hãy đem tâm nhà ngươi đến đây ta an cho” nhưng Huệ khả không tìm thấy tâm đâu, thưa lại với Tổ sư - Tổ nói: “như vậy là ta đã an tâm cho nhà ngươi rồi đó”. Chính ngay lúc đó ngài Huệ Khả đại ngộ. Về sau tiếp nối mạng mạch Phật pháp làm vị tổ thứ hai của Thiền tông Trung Hoa.
Cũng như thế với phong cách của nhà thiền, các thiền sư luôn luôn đánh mạnh vào tâm thức của người cầu pháp, mới đầu nghe qua tưởng chừng như điều không thể có trong thiền môn nhưng thực ra cách giáo dục của quý Ngài rất mạnh mẽ và cũng thực tế, làm cho học trò hồi tỉnh chuyển đổi từ mê đến ngộ. Câu chuyện giữa ngài Lâm Tế Nghĩa Huyền đến hỏi đạo ngài Hoàng Bá như sau:
- Bạch Hoà thượng thế nào lại đại ý Phật pháp?
Ngài Hoàng Bá liền đập cho một gậy mà không trả lời. Ba lần hỏi đạo ngài Lâm tế cả ba lần bị ăn đòn đau đớn. Buồn tủi ngài ra đi, tổ Hoàng Bá bảo ngài Lâm Tế nên đến chỗ thiền sư Đại Ngu mà hỏi đạo. Khi đến nơi Thiền sư Đại Ngu hỏi:
- Ông ở đâu đến?
Lâm Tế thưa
- Dạ, con ở Hoàng Bá đến
- Hoàng Bá dạy ông cái gì?
- Con ba lần hỏi đại ý Phật pháp ba lần đều bị ăn đòn, không biết con có lỗi hay không lỗi?
Vừa nghe như vậy ngài Đại Ngu nói:
- Hoàng Bá thật là tâm lão bà (tâm như mẹ thương con) dạy người rất thống thiết, ngươi lại đến trong ấy hỏi có lỗi không lỗi
Ngài Lâm Tế ngay câu đó đại ngộ thưa:
- Vậy thì phương pháp của Hoàng Bá rất ít
Ngài Đại Ngu liền bảo
- Con quỷ đái dưới sàng, vừa rồi nói có lỗi không lỗi, bây giờ lại nói phương pháp của Hoàng Bá ít, ngươi thấy đạo lý gì, nói mau! nói mau!
Ngài Lâm Tế liền thoi vào hông ngài Đại Ngu ba cái. Ngài Đại Ngu xô ra và nói:
- Thầy của ngươi là Hoàng Bá chẳng can hệ gì đến ta! [26-431]
Qua mẫu đối thoại này, có lẽ đã làm người khác ngạc nhiên và không hiểu ngài Lâm Tế ngộ chỗ nào và vì sao khi ngài Lâm Tế cầu pháp lại bị thầy của mình đánh? Vì vị thầy của Ngài, Hoà thượng Hoàng Bá biết rõ căn cơ của học trò mình có đủ khả năng dồn ép đến chỗ tột cùng không, sau đó nhờ người bạn khai thông để dẫn đến ngộ đạo. Điều này có thể nhờ vào sự tinh tế của vị Thầy hướng dẫn nên ngài Lâm Tế đại ngộ về sau làm Tổ khai sơn dòng Lâm Tế.
Tương tự như vậy khi một học trò tham vấn Phật pháp với những câu hỏi không thực tế, dính mắc vào chữ nghĩa chấp vào cái có, không ngay lúc ấy các vị thầy tìm cách để đưa người đó về với nghĩa trung đạo.
Có một học trò hỏi thầy mình rằng:
- Bạch thầy sống theo đạo một cách siêng năng là như thế nào?
Thầy đáp,
- Khi đói thì ăn mệt thì ngủ
Học trò thưa:-
Đó là những điều mọi người thường làm mà?
Đáp,
- Không, Không! Hầu hết mọi người đều không làm như vậy. Hầu hết mọi người khi ăn đều đầy những suy tư, ao ước và khi ngủ lại đầy những lo toan. [12-108]
Như vậy, trên bước đường tu học điều đầu tiên cần phải có thầy hướng dẫn, nhờ đó mà sẽ không đi lệch hướng, đưa đến sự giải thoát. Vì thế người học trò phải một lòng tôn kính quý trọng thầy, người đã thức tỉnh và khai sáng tâm hồn, đã mở đường dìu dắt cho ta từng bước. Thâm ân ấy thật khó đáp đền. Giống như vua Trần Nhân Tông, một bậc chí tôn trong thiên hạ nhưng khi được ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ khai đạo nhờ vậy ngộ được đạo lý uyên thâm bèn xốc áo lạy ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ và tôn làm thầy. Ngài kể: “Một hôm ta hỏi về tôn chỉ công việc mình, Thượng Sĩ ứng khẩu đáp: hãy quay nhìn lại công việc của chính bản thân mình chứ không tìm đâu khác được. Ta bỗng bừng tỉnh con đường phải đi, bèn xốc áo thờ thầy” [20-464]
Về sau, khi xuất gia trở thành vị tổ của Thiền phái Trúc Lâm Yên tử. Thượng hoàng Trần Nhân Tông lúc đăng đàn thuyết pháp thường nghĩ ân nặng khó đền đáp của Thầy mình nên sai người vẽ chân dung của ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ để thờ cúng và tự làm bài tụng tán thán công đức, kệ rằng:
“Đây bậc cổ chuỳ
Ngươi đâu dễ vẽ
Thước góc Lương Hoàn
Mõ chuông Thái Đế
Hay tròn hay vuông
Mỏng dày đầy đủ
Biển pháp một người
Rừng thiền ba phía”
Tấm lòng tri ân báo ân của Thượng hoàng Trần Nhân Tông, không chỉ là vị vua anh minh có nhiều đóng góp cho dân tộc , mà còn là một vị Tổ sư khai mở dòng thiền Trúc lâm được lưu truyền cho đến tận ngày nay, là một tấm gương sáng cho cho người đời sau noi theo. Tấm lòng tôn sư trọng đạo của bậc chí tôn đã nói lên được mối quan hệ thắm thiết giữa thầy và trò cao đẹp biết dường nào!
Mặt khác, ngoài sự khai đạo, người thầy còn có trách nhiệm tìm một vị đệ tử xuất sắc nhất, có căn cơ lanh lợi để kế thừa. Để tìm cho được một người học trò có khả năng nối tiếp và gìn giữ được giềng mối Phật pháp là điều không dễ chút nào nó rất quan trọng vì người đó phải bảo tồn và phát triển Phật pháp trong mai sau. Khi xưa, đức Phật thuyết pháp ở Linh Sơn Pháp hội, Ngài đưa cành hoa sen lên, cả đại chúng đều ngơ ngác duy chỉ có Ngài Ca Diếp mĩm cười (niêm hoa vi tiếu) đức Phật biết ngài Ca Diếp đã liễu ngộ và sau khi Phật nhập Niết Bàn ngài Ca Diếp là vị Tổ được chân truyền, gìn giữ chánh pháp nhãn tạng của đức Phật để lưu truyền hậu thế. Cũng như Ngũ tổ Hoằng Nhẫn khảo thí đại chúng để tìm người đắc pháp, lúc ấy ngài Huệ Năng nhân thấy bài kệ của ngài Thần Tú, cũng làm một bài kệ và nhờ người viết lên vách, nhân đó mà Ngũ tổ đã gọi Huệ Năng đến để ấn chứng chỗ sở đắc và truyền trao y bát làm vị Tổ thứ 6 của Thiền tông Trung Hoa.
Qua hình ảnh thầy trò của các câu chuyện thiền đã khẳng định được mối quan hệ này rất đặc biệt, người thầy có trách nhiệm đánh thức học trò khi mê lầm và kiến giải những mê lầm hoá thành điều tự chứng, cũng cần biết rõ căn cơ trình độ của họ mà kịp thời kịp lúc làm cho họ tự mình trở về tự tánh, tìm lại chính mình, người học trò nhờ nương nơi thầy mà khai mở tâm trí, hoằng dương chánh pháp để báo ơn Thầy, và cũng không phụ chí nguyện xuất gia cầu đạo buổi ban đầu.
2.3.2 Trách nhiệm liên quan giữa thầy và trò qua Kinh Luật.
Trong Phật giáo nói đến người xuất gia đến người có tâm bồ đề dõng mãnh, có ý niệm về sự giải thoát, đạt được tuệ giác vô thượng và đem tuệ giác ấy dẫn dắt chúng sanh ra khỏi bể khổ nguồn mê. Trong Sa di luật giải nói; “Xuất gia có nghĩa:1) từ nghĩa song thân, dứt tình ân ái, bỏ tục vào đạo, cạo tóc nhuộm áo gọi là ra nhà thế tục; 2) dứt trừ tâm vọng hoặc, chứng quả vô sanh gọi là ra khỏi nhà tam giới, ấy mới thiệt là xuất gia”. Vì vậy sơ tâm của người xuất gia là hảo tâm cùng với lý tưởng cao đẹp, ý chí mạnh mẽ, bước vào thiền môn, thay đổi hình thức sống cho phù hợp với môi trường mới. Khi cạo bỏ mái tóc xanh, khoác lên mình màu áo hoại sắc là cảm nhận được một sự thiêng liêng, một hoài bão lớn, vì vậy, hình ảnh người xuất gia là hình ảnh cao đẹp nhất.
Huỷ hình thủ chí tiết
Cắt ái từ sở thân
Xuất gia hoằng thánh đạo
Thệ độ nhất thiết nhân
“Hoằng thánh đạo” và “thệ độ nhất thiết nhân” chính là hoài bão lớn của tâm bồ đề. Tâm bồ đề là nguồn năng lực rất mạnh chính nó đã thôi thúc chúng ta đi xuất gia, và năng lực ấy tiếp tục phát triển trong suốt thời gian chúng ta sống trong thiền môn, giúp chúng ta có thêm sự tinh tấn, dũng mãnh, đủ nghị lực để vượt qua mọi khó khăn trở ngại và giúp chúng ta có hạnh phúc.
Mãnh đất nuôi dưỡng tâm bồ đề này xanh tốt nhất là khi bước lên nấc thang Tỳ kheo, nấc thang đứng đầu trong hàng tứ chúng xuất gia tức là đã thật sự được dự vào hàng Tăng bảo cũng là môi trường thích hơp nhất để tâm bồ đề phát huy hết năng lực đã phôi thai và được nuôi dưỡng từ lúc còn hành điệu.
Trong Qui Sơn Cảnh sách, Tổ Qui Sơn có dạy: “Nhược xuất gia giả, phát túc siêu phương, tâm hình dị tục, thiệu long phật Pháp, chấn nhiếp ma quân, dụng báo tứ ân, bạt tế tam hữu, nhược bất như thử, lam xí tăng luân, ngôn hạnh hoang sơ, hư triêm tín thí, tích niên hành xứ, thốn bộ bất di, hoảng hốt nhất sanh, tương hà bằng thị. Huống nãi đường tăng tướng, dung mạo khả quan, giai thị túc thị thiện căn, cảm tư dị báo” [24-25]
Nghĩa là: đã là người xuất gia, là phải cất bước đến phương trời cao rộng, tâm hình khác tục, nối thạnh dòng thánh, hàng phục ma quân, để đền trả bốn ân cứu giúp ba cõi. Nếu không như thế, xen lẫn trong chúng Tăng, lời nói hạnh kiểm vẫn còn hoang sơ, luống hao của tín thí. Chỗ đi năm trước tất bước không rời, lếu láo một đời, lấy chi nương tựa, huống nữa, đường đường tăng tướng, dung mạo dễ xem. Sở dĩ được như thế là do đời trước đã gieo trồng căn lành nên đời này mới cảm quả báo như thế ấy…
Thế nên người xuất gia không phải vì cơm áo cũng chẳng phải vì hoàn cảnh mà một lòng tha thiết muốn nhập vào hàng Tăng chúng, được tu tập cùng đại chúng, tìm thấy sự an lạc trong Tăng già, giải thoát cho mình và tha nhân, thì đối với việc được dự vào hàng Tăng bảo quả là niềm khát khao vô cùng to lớn, với một niệm như thế, cùng với tâm bồ đề mãnh liệt chắc chắn sẽ hội nhập vào hàng trưởng tử của Như Lai.
Trưởng tử của Như Lai được gọi ngay sau khi đăng đàn thọ giới cụ túc. Một trưởng tử của Như Lai nhất định phải thành tựu được bản thể Tỳ kheo tức là phải đắc được Vô tác giới thể, có vô tác giới thể thì mới chứng minh được giới tử đó thành tâm tha thiết cầu giới, khát khao muốn bước lên địa vị hàng đầu trong bảy chúng, gánh vác trọng trách lèo lái con thuyền Phật pháp cho được trường tồn, mới xứng đáng hoài niệm của một Tỳ kheo.
Chúng Tỳ kheo thời đức Phật trong những năm đầu từ khi giáo đoàn được thành lập, giới luật chưa được đức Phật ban hành, việc gia nhập tăng đoàn tương đối đơn giản, Chính do những vị Tỳ kheo ấy căn tánh lanh lẹ, nên khi nghe đức Phật khai thị vài lần là đại ngộ hoặc có vị chứng thánh quả ngay trong kiếp hiện tại, như nhóm năm anh em Ông Kiều Trần Như; nhóm Da-xá; nhóm anh em Ông Ưu-lâu-tần-loa-ca-diếp; xá Lợi Phất; Mục Kiền Liên.v.v. đúng là những vị “Thiện lai Tỳ kheo!”. Ngoài ra còn có rất nhiều vị có duyên cũng được gia nhập Tăng đoàn cũng với hình thức này, trong kinh thường nói có một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ kheo đệ tử thường đi theo đức Phật.
Về sau đức Phật cho phép các Tỳ kheo thâu nhận đệ tử, số lượng Tăng già trở nên đông hơn, do đó việc thâu nạp đệ tử mới của các Tỳ kheo có phần dễ dãi hơn, không có sự chọn lọc, dẫn đến có những trường hợp bất hoà xảy ra trong Tăng chúng, thiếu sự hoà hợp, buông lung, làm cho hàng cư sĩ chê cười, do nguyên nhân đó nên mỗi khi các Tỳ kheo xảy ra chuyện đem bạch Phật, Phật kết giới, từ đó dùng giới để câu thúc ba nghiệp, làm cho Tăng chúng được thanh tịnh hoà hợp. Thế nên, về sau này khi thâu nhận đệ tử, lúc đăng đàn cho thọ Tỳ kheo giới, trên thì phải có đủ thập Sư, dưới đệ tử thì phải trải qua các giá nạn của thập Sư truyền giới thì mới đắc giới trở thành một vị Tỳ kheo, viên mãn vô tác giới thể, chính thức gia nhập Tăng đoàn.
Trong thập Sư truyền giới thì hai thầy Hoà thượng và A Xà lê là người hướng dẫn và giảng đạo. Sa Di luật giải nói: “Hoà thượng tiếng phạn là Upàdhyàya, Trung Hoa dịch là “Lực sanh” hay còn gọi là “Thân giáo sư”. Nhờ sức thầy dạy dỗ sanh giới thân tuệ mạng cho ta nên gọi là “Lực sanh”, đệ tử gần gũi bên thầy lãnh lấy lời giáo huấn gọi là “Thân giáo sư”. Trong Tứ Phần luật quyển ba có nói: “Hoà thượng là vị Thầy mà từ nơi Ngài chúng ta nhận được giới” hay trong luật Thiện Kiến nói: danh từ Hoà thượng đời nhà Hán dịch là: “Biết có tội, biết không có tội thì gọi là Hoà thượng”.
Thứ đến là thầy A-xà-lê: tiếng phạn dịch là Acàrya; tiếng Trung Hoa dịch là “Quỹ phạm sư” là thầy dạy pháp tắc cho các đệ tử. Có năm bậc A-xà-lê: “1) xuất gia A-xà-lê là vị thầy mà chúng ta nương vào để được xuất gia; 2) thọ giới A-xà-lê, là vị thầy tác pháp yết ma khi thọ giới; 3) Giáo thọ A-xà-lê là vị thầy dạy dỗ oai nghi giới hạnh); 4) Thọ Kinh A-xà-lê là vị thầy từ ngài ta học kinh thuyết pháp; 5) Y chỉ A-xà-lê, là vị thầy từ nơi ngài chúng ta nương vào để sống đời đạo hạnh, cho đến một đêm” [13-117] Trong Bộ Hành Hộ nói: “Năm hạ sắp lên, tức vị A-xà-lê, mười hạ sắp lên tức vị Hoà thượng”
Một vị Hoà thượng muốn thâu nhận đệ tử phải là người có đủ mười tuổi hạ trở lên, thông suốt kinh luật, có trí tuệ, có thể cung cấp vật chất cho đệ tử, được Tăng già công nhận cho phép mỗi năm chỉ được nhận một người đệ tử mà thôi. Đây chính là ý muốn nói đến trách nhiệm dạy dỗ học trò của môt vị thầy. Câu chuyện của Tôn giả Hoà Tiên vừa hai tuổi hạ, dẫn một người đệ tử một tuổi hạ đến chỗ đức thế tôn. Đức Thế tôn tuy biết mà vẫn chỉ người đệ tử hỏi:
- “Đây là Tỳ kheo nào?
Tôn giả Hoà Tiên thưa:
- Đệ tử của con
Đức Phật hỏi Tôn giả Hoà Tiên
- Hiện ông bao nhiêu tuổi? (tuổi hạ)
Tôn giả Hoà Tiên thưa: dạ con hai tuổi
Đức Phật lại hỏi
- Đệ tử ông bao nhiêu tuổi?
Tôn giả Hoà Tiên thưa: dạ, một tuổi
Lúc bấy giờ đức Thế tôn bằng mọi cách quở trách
- Việc làm của ông là quấy không đúng oai nghi, không phải pháp của Sa Môn, không phải tịnh hạnh, không phải hạnh tuỳ thuận, ông làm việc không nên làm. Này ông Hoà Tiên! ông chưa hết bú sữa, ông đã nhận sự dạy dỗ của người khác, làm sao ông dạy được”.
Từ nay cho phép Tỳ kheo nào đủ mười tuổi hạ, có trí tuệ mới trao truyền giới cụ túc cho người, cho người y chỉ [13-107]
Trong Ma Ha Tăng Kỳ nói: “Khi đức Phật ở thành Xá Vệ. Bấy giờ có một Tỳ kheo một tuổi hạ dẫn một đệ tử chưa có tuổi hạ đến chỗ đức Thế tôn. Đức Thế tôn liền quở trách: “ông mới một tuổi hạ mà nuôi đệ tử chưa có tuổi hạ thì giống như người yếu đuối mà lại cứu người yếu đuối”. Sau đó ngài nói với đại chúng rằng: “Này các Tỳ kheo! Tự hàng phục được mình rồi mới hàng phục người khác, điều đó có thể. Tự chế ngự được mình rồi mới có thể chế ngự người khác, điều đó có thể. Tự độ được mình rồi mới độ người khác, điều đó có thể. Này các Tỳ kheo! Từ nay về sau ta không cho phép Tỳ kheo dưới mười tuổi hạ độ người xuất gia thọ giới cụ túc” [19-1655]
Một Tỳ kheo thâu nhận một đệ tử là tự đặt trên vai mình một trách nhiệm rất lớn đối với Phật pháp, với cuộc đời. Luật Tăng Kỳ nói: “một vị thầy phải thành tựu mười pháp sau đây mới cho độ người xuất gia thọ giới Cụ túc: 1) giữ giới; 2) học nhiều luận; 3) học nhiều luật; 4) Học giới điều; 5) học thiền định; 6) học trí tuệ; 7) có thể xuất tội; 8) có khả năng chăm sóc bệnh, có khả năng dạy người chăm sóc bệnh; 9) đệ tử gặp khó khăn có khả năng giải quyết vấn đề khó khăn đó mau chóng; 10) đủ mười hạ. Vừa đủ mười hạ mà biết hai bộ luật cũng được độ [19-1657]
Khi có đủ tư cách để độ người, thâu nhận đệ tử cho xuất gia, sống hoà cùng Tăng chúng. Vị thầy phải quan tâm đến cuộc sống của người đệ tử, họ sống ra sao? Có thiếu thốn gì không? Trong sinh hoạt hằng ngày có gì trở ngại, trong pháp chỗ nào không hiểu. Như vậy trách nhiệm của một vị thầy đối với đệ tử thật là lớn lao. Bởi vì người đệ tử khi rời xa gia đình, tự nguyện sống đời phạm hạnh không còn chịu sự chăm sóc dạy dỗ của cha mẹ nữa thì Thầy chính là người chịu trách nhiệm thay cha mẹ nuôi dạy cho đệ tử nên người không phải chỉ thành một người bình thường mà dạy để trở thành một Thiên nhơn chi đạo sư, một bậc xuất trần thượng sĩ, thay Phật tiếp Tổ kế vãng khai lai. Nên trách nhiệm của người Thầy không thể tính bằng một thời gian nào mà là sự thành tựu trong suốt quá trình tu tập của đệ tử. Thế nên, vị thầy cần lấy năm điều mà đối xử với đệ tử: “1) tuỳ thuận theo phép điều ngự; 2) dạy những điều mà trò chưa biết; 3) tuỳ theo sự nghe biết của học trò mà khiến cho hiểu thấu căn lành; 4) chỉ kẻ hiền lành cho đệ tử kết bạn; 5) đem hết chỗ hiểu biết của mình mà dạy trao cho trò không lẫn tiếc” [3-570] Ngoài cách đối xử ra vị thầy phải có các phương pháp để dạy đệ tử. Trong Ma ha tăng Kỳ quyển 28 có viết: “Hoà thượng và A-xà-lê nên dạy bảo đệ tử đồng hành và đệ tử y chỉ bằng các phương pháp dạy dỗ là: 1) họ không thanh tịnh nên ngăn cản; 2) khuyên đừng đến những nơi không nên đến; 3) họ bị yết ma phải giúp đỡ; 4) họ sanh tà kiến mình phải giải toả; 5) tự mình xuất tội hay nhờ người xuất tội; 6) khi họ bệnh tự mình chăm sóc hoặc nhờ người chăm sóc; 7) khi họ gặp nạn, tự mình hoặc nhờ người giải cứu; 8) khi họ gặp nạn vua, giặc, mình phải hoá giải” [19-1662] những phương pháp này nhằm mục đích hàng phục chế ngự tâm tánh của các đệ tử, cụ thể như đệ tử kiến chấp như huỷ báng kinh điển, hoặc ác tà kiến, hoặc biên kiến thì Hoà thượng, A-xà-lê nên dạy: “ông đừng sanh khởi kiến giải như thế, đó là việc ác, đoạ xuống địa ngục chịu khổ lâu dài. Nếu dạy bảo y các điều như vậy mà y bỏ thì tốt, nếu không bỏ thì nên nhờ người quen biết với y, nói như sau: “Xin trưởng lão hạy khuyên người ấy từ bỏ ác kiến” [19-1664]
Ngược lại, nếu vị thầy thâu nhận đệ tử độ cho xuất gia, cho hội nhập vào Tăng chúng tu tập, cho thọ giới tỳ kheo trong suốt thời gian sống với nhau mà vị thầy không dạy dỗ đệ tử, không hướng dẫn các phương pháp tu tập, không bắt sám hối khi phạm tội, không chỉ dẫn con đường đi khi đệ tử bị sai đường.v.v. nói chung là vị thầy không quan tâm, không có trách nhiệm với đệ tử mình thì chính người thầy là người thiếu trách nhiệm có lỗi với Phật, với pháp, với chúng tăng và là một trong những nguyên nhân để thế gian chê cười. Trong kinh Bồ tát Thiện giới nói: “Từ những kẻ Chiên đà la cho đến hạng đồ tể, tuy làm nghiệp ác nhưng không phá hoại chánh pháp Như Lai, thì không hẳn sẽ đoạ vào trong đường ác. Nhưng làm thầy mà không thể dạy bảo la rầy đệ tử, thì đó là phá pháp của Phật, chắc chắn đoạ vào địa ngục” Hoặc như trong kinh Ưu Bà Tắc giới nói rằng: “Thà thọ ác giới, trong một ngày mà đọan vô lượng mạng căn, chứ nhất quyết không nuôi dưỡng đệ tử tệ ác, không thể điều phục. Vì sao vậy? Bởi ác luật nghi chỉ đem lại tai hại cho thân mình thôi, còn nuôi đệ tử tệ ác, không thể dạy dỗ thì làm cho vô lượng chúng sanh tạo ác, chúng có khả năng huỷ báng vô lượng pháp tốt đẹp huyền diệu và hoà hợp Tăng, khiến cho nhiều chúng sanh tạo ngũ vô gián tội. Cho nên nói tai hại hơn ác luật nghi là vậy” [13-116]
Từ những điều đã đề cập ở trên đã cho thấy trách nhiệm của một vị thầy đối với đệ tử mình vô cùng quan trọng. Người đệ tử có được sự thành tựu trong quá trình tu tập, đạt được lý tưởng ban đầu xuất gia hay không phần lớn đều nhờ nơi vị thầy của mình. Ngược lại người đệ tử cũng phải biết bổn phận của mình đối với thầy dạy đạo, người đã trao cho mình giới thân tuệ mạng làm tăng trưởng tâm bồ đề, từng bước từng bước đưa mình ra khỏi con đường sanh tử hiểm nạn, cho nên đệ tử phải trọn đời kính thờ thầy, phải giúp đỡ thầy những việc cần thiết. Vì vậy trong kinh Thiện Sanh dạy đệ tử kính phụng Sư trưởng có năm điều: 1) phải hầu hạ; 2) lễ kính cúng dường; 3) tôn trọng trên đầu cổ; 4) những lời thầy dạy bảo phải cung kính tuỳ thuận, chớ không được chống trái; 5) khi đi theo thầy nghe được điều gì hay, khéo nhớ giữ gìn chớ để lãng quên” [3-570]
Ngoài viêc kính thờ thầy, đệ tử cần phải biết hầu thầy, chăm sóc sức khoẻ cho thầy, làm thay những công việc để thầy có thời gian làm việc khác. Trong Ma Ha Tăng Kỳ quyển 34 có dạy cách: “đệ tử phụng sự vị thầy Hoà thượng như sau: Buổi sáng phải dậy sớm, trước hết bước chân phải vào phòng Hoà thượng, khi vào xong cúi đầu đảnh lễ dưới chân hỏi xem Hoà thượng ngủ có ngon giấc không? Rồi nhận kinh, hỏi han công việc, đem đổ bô tiểu tiện, ống nhổ, xong rồi để lại chỗ cũ. Tiếp đến lấy nước đổ lên nền nhà, rồi quét lau nền nhà. Đoạn rửa tay sạch, rồi trao nước, bàn chãi đánh răng, cầm bát đi lấy cháo cho thầy. Khi thầy ăn xong rửa bát cất lại chỗ cũ. Nếu có nhà nào mời thầy thọ trai, thì đến đó lấy thức ăn. Khi thầy muốn vào thôn xóm, thì trao y thường mặc vào thôn xóm, rồi xếp y thầy mặc trong viện lại, treo chỗ cũ. Lúc vào thôn xóm nên đi theo sau thầy. Nếu muốn khất thực nên bạch với Hoà thượng. Nếu mình về trước nên trải giường ngồi cho Hoà thượng, rồi lấy nước sạch, rải cỏ lá đợi Hoà thượng về. Khi Hoà thượng về nên đưa y mặc trong Thiền viện cho Hoà thượng, rồi lấy chiếc y mặc vào thôn xóm đập giũ, xếp lại, treo vào chỗ cũ. Nếu trời nóng thì nên đưa nước tắm cho thầy. Nếu trời lạnh thì nên đốt lò lửa. Nếu được thức ăn ngon thì nên dâng cho Hoà thượng. Khi Hoà thượng ăn nên đưa nước rửa tay rồi đưa thức ăn. Nếu thời tiết nóng nên đưa nước lạnh, rồi cầm quạt, quạt cho thầy. Khi Hoà thượng ăn xong, dọn bát, nhặt cỏ lá, rửa bát rồi cất lại chỗ cũ. Nếu Hoà thượng muốn vào rừng ngồi thiền thì nên lấy toạ cụ vắt lên vai, mang bình nước đi theo Hoà thượng. Đến nơi rồi hoặc học kinh hoặc hỏi nghĩa, khi được chỉ dạy nên tìm một chỗ ngồi tu tập…” [ 19-2028] đối với Hoà thượng, đệ tử phải thực hiện những việc kể trên, nếu không làm thì vượt pháp oai nghi. Nếu Hoà thượng có nhiều đệ tử, thì mỗi người tối thiểu cũng phải lau giường Hoà thượng một lần. Đó là phận sự của đệ tử.
Ngoài việc thờ kính, hầu hạ bậc thầy, đệ tử còn phải đem lòng nhớ nghĩ đến ơn đức của sư trưởng đã vun vén, dạy dỗ hướng dẫn cho mình đi trên con đường chánh pháp, cũng nhờ nơi thầy mà mình có chánh kiến, nhờ chánh kiến nên không đi vào con đường ác, đươc an lạc hạnh phúc trong đời sống hiện tại. Vì thế một người đệ tử muốn vuông tròn đạo hạnh của mình thì phải biết nghĩ nhớ đến các ân đức mà thầy đã vun vén, nguyện trọn đời không quên như thế thì mới xứng đáng là một đệ tử có đạo hạnh.
Trong bộ Căn Bản Tạp sự nói: “có người nương tựa nơi thầy, xuất gia trong giáo pháp của Phật, cạo bỏ râu tóc, mặc áo pháp của Phật, tâm hồn trong trắng đầy đủ lòng tin, gọi là xuất gia như pháp. Người ấy đối với thầy cho đến trọn đời tứ sự cúng dường cũng chưa có thể trả ơn hết được” Ngoài ra trong kinh đức Phật dạy: “nếu có chúng sanh nào biết trả ơn, người ấy đáng kính, ơn nhỏ còn chẳng quên huống chi ơn lớn. Lúc ấy dầu cách đây trăm ngàn do tuần cũng chẳng khác gì gần bên ta. Ta thường khen ngợi. Trái lại có chúng sanh chẳng biết trả ơn, ơn lớn còn chẳng nhớ huống chi ơn nhỏ, dầu có gần ta, ta cũng chẳng gần, dầu cho mặc áo Tăng ở hai bên tả hữu gần ta đi nữa, người ấy vẫn như xa ta.” [18-104]
Lại nữa, là đệ tử phải biết hiếu kính thầy, phải nghĩ rằng hình ảnh của vị thầy là sự kết hợp song song giữa cha và mẹ, thế nên có khi thầy nghiêm khắc như người cha, cũng có khi nhẹ nhàng như người mẹ, vậy nên bổn phận người học trò phải làm những việc để thầy hài lòng. Khi bị thầy quở trách thì phải tuỳ thời mà xin sám hối. Khi thầy khuyên nhủ động viên phải biết cầu tiến được như vậy mới là đệ tử hiếu thuận. Ngược lại gặp khi thầy la rầy mà sanh ác tâm, khinh rẻ, oán giận chắc chắn người ấy sẽ nhận lấy hậu quả không tốt. Điều nầy được kinh Lương Hoàng Sám mô tả rất rõ ràng như sau: “Người ngu si tự thị không tin tội phước, huỷ báng Sư trưởng, ghen ghét tật đố. Những người như vậy là Ma vương trong Phật pháp, là dòng giống địa ngục, tự kết oán thù, chịu quả đau khổ vô cùng”. Như ngài Hoa Quang Tỳ kheo khéo thuyết pháp bí yếu, có một đệ tử thường ôm lòng kiêu mạn, Hoà thượng dạy bảo không tin, không nghe lại còn nói:- Đại Hoà thượng của tôi không có trí tuệ, thường hay tán thán những việc trống rỗng như hư không. Tôi nguyện đời sau không thấy thầy nữa.
Người đệ tử đó, từ ngày ấy pháp nói phi pháp, phi pháp nói pháp. Tuy trì giới cấm không huỷ phạm nhưng vì khinh chê thầy mình, nên sau khi chết, trong một nháy mắt liền đoạ địa ngục A Tỳ, tám mươi ức kiếp thường chịu mọi thắng khổ. [23-239]
Chúng ta nên nhớ rằng, thân người khó được, Phật pháp khó nghe. Một lần mất thân người thì muôn kiếp khó tìm lại được. Vì thế nên biết đối với Sư trưởng phải có niềm tin, lòng không nên nghi ngờ, sanh ác tâm mà chịu quả khổ.
Tam tạng kinh điển của Phật giáo vô lượng vô biên nhưng trong đó mối quan hệ giữa thầy và trò cũng được ghi lại khá đầy đủ qua các kinh luật. Điều này minh chứng rằng tình thầy trò trong Phật giáo vô cùng quan trọng. Bởi vì mối quan hệ thầy trò chính là sự truyền thừa mạng mạch của Phật pháp. Vì vậy, hình ảnh của vị thầy qua các kinh luật có thể nói là một khuôn mẫu, sáng suốt, nhiệt tình có trí tuệ đạo lực để che chở cho đệ tử nên được đức Phật đề cao, trọn một đời xuất gia hành đạo người học trò gởi trọn cho thầy. Chính vì thế mà sự tiến bộ hay sa đoạ của bất cứ người xuất gia nào không phải chỉ mang lại hậu quả cho người đó, mà có liên hệ đến sự hưng thịnh hay suy vong của Phật pháp. Đức Phật đã từng nói: “Thà làm một tên đồ tể gây nghiệp sát hại chứ không thâu nhận đệ tử xuất gia mà không biết giáo dục, khiến cho Phật pháp vì thế mà sớm bị diệt vong”. Đồng thời người đệ tử cũng phải biết bổn phận gần gũi hầu thầy đúng như phép tắc và luôn luôn hoài niệm thâm ân về thầy. Trong kinh Lương Hoàng sám đức Phật dạy: “Các ngươi phải nên tưởng nhớ ơn Sư trưởng, cha mẹ từng sanh thân này dạy bảo nhưng không thể làm cho ta ra khỏi ba đường ác. Lòng từ của Sư trưởng rất lớn khuyến dụ dắt dẫn lúc sơ cơ, cho được xuất gia rồi truyền trao cho giới cụ túc. Đó tức là kẻ hoài thai La hán, sẽ sanh quả La hán, xa lìa sanh tử và được yên vui Niết Bàn. Sư trưởng có ơn đức xuất thế ấy ai hay báo đáp? Nếu người nào chung thân hành đạo, đó chỉ mới là tự lợi, chứ chưa phải báo đáp ơn thầy” [23-237]
CHƯƠNG 3: TÌNH THẦY TRÒ TRONG XÃ HỘI NGÀY NAY
3.1 Vai trò của vị thầy và nền giáo dục xã hội hiện nay
Tình thầy trò là một tình cảm thiêng liêng và tự nhiên, vì thế dù ở bất cứ quốc độ nào, bối cảnh xã hội nào, thì tình cảm thiêng liêng ấy chính là nền tảng đạo đức cơ bản của con người. Để có được tình cảm tốt đẹp này thì người làm thầy phải xứng đáng một bậc thầy, đệ tử cũng phải tròn bổn phận của đệ tử thì mới hình thành được sự thanh tịnh và hoà hợp trong Tăng già. Trong bối cảnh xã hội hiện nay đòi hỏi sự quan tâm cao độ đến vấn đề này để đạo pháp cũng như dân tộc ngày càng phát triển rực rỡ hơn.
Thầy giáo đạo ảnh hưởng không nhỏ đến nền giáo dục trong xã hội hiện đại. Thầy giáo đạo còn gọi là bậc thầy tâm linh, được hiểu là một người tỉnh thức mà không phải là một thầy giáo sư phạm hay một nhà triết học đơn thuần, bởi vì một người tỉnh thức thì không những có thể trao truyền kiến thức mà còn chuyển hoá được cuộc đời cho đệ tử bằng con đường tu tập đưa đến sự thăng hoa trong cuộc sống. Thái độ của vị thầy dạy đạo là phải sống trong thực tại để nhận ra sự thật của cuộc đời, mục đích chủ yếu của vị ấy là truyền đạt kinh nghiệm sống cho đệ tử bằng những yếu tố thực nghiệm của bản thân và cách thực hành chứ không phải bằng lý thuyết suông. Các vị ý thức được rằng công việc hoằng hoá chúng sanh là vì lợi ích an lạc lâu dài. Vì thế một mặt đem tâm nguyện ấy phụng sự chúng sanh, một mặt là để cúng dường và báo ân Phật.
Để báo ân Phật thì khi muốn độ người xuất gia phải có trách nhiệm đưa họ vào cuộc sống với đạo, dạy họ cách hoàn thành bổn phận của người học trò, chỉ cho họ con đường phải đi, phải luôn luôn nghĩ rằng mình độ họ để họ nhờ đó mà tu tập các thiện pháp đắc thành đạo quả chứ không phải là để phục vụ cho riêng mình. Đến lúc thấy họ đầy đủ đạo hạnh thì trao cho giới cụ túc để có thể gánh vác sứ mạng của Như Lai. Sự hiện hữu của Tăng đoàn chính là hình ảnh của của đức Phật, mang trọng trách rất lớn, là những con người nắm giữ vận mệnh của Phật pháp. Vì vậy khi tuyển chọn người để cho thọ giới cụ túc phải chú trọng đến sự đoan nghiêm và phẩm chất ưu việt, điều này tránh được chê cười của thế gian và khiến cho người đời sanh tâm tin tưởng và tôn kính. Nếu vị thầy bất cẩn cho những người thiếu phẩm chất đạo đức và thân thể khiếm khuyết thọ đại giới thì trước hết là vi phạm vào giới điều sau đó làm cho thanh danh của giáo hội bị hoen ố, uy tín của Tăng đoàn bị tổn thương và khó tránh sự huỷ báng của người đời.
Ngoài việc tuyển chọn người xuất gia, vị thầy cần phải biết nhìn người. Trong số đệ tử người có ưu điểm này kẻ có khuyết điểm kia cũng khó có người hoàn hảo nhưng ít ra thì người đó cũng có được bản chất thiện, biết phục thiện và có chí cầu tiến, cũng không nên thiên vị, nếu có sư thiên vị chắc chắn sẽ có xung đột, có đổ vỡ, có oán giận những điều này sẽ dẫn đến mất hoà hợp và thanh tịnh trong chúng, hoặc có thể có người mang lòng phiền giận rời bỏ thầy mà ra đi, hoặc có người vì đi muốn tìm công bằng cho mình, chứng minh cho thầy biết mình không phải là kẻ vô dụng. Cái vô tình của các vị thầy đã là nguyên nhân cho sự ra đi ấy. Từ đó sẽ phát sanh nhiều yếu tố phức tạp. Điều tệ hại có thể xảy ra như họ bỏ đạo không tu, vì trong họ lý tưởng xuất gia đã bị đánh mất, thế nên làm thầy phải có tâm lý và có phương pháp giáo dục để đem lại niềm tin cho đệ tử của mình.
Lại nữa, trong điều kiện xã hội mà nền văn minh khoa học phát triển như hiện nay, mọi người cũng bắt nhịp với cuộc sống xã hội. Giáo hội cũng từ đó mà phát triển ngành giáo dục để nhằm đào tạo Tăng Ni trẻ có tài năng, nhiều triển vọng. Vì vậy việc học rất là cần thiết cho lớp người xuất gia. Bổn phận làm thầy phải động viên đệ tử cầu học Phật pháp, không nên nghĩ rằng “tu mà cần gì phải học, ở chùa tụng kinh và làm việc là giỏi rồi, khi xưa thầy đâu có được đi học mà vẫn làm đạo được”. Từ những bất đồng ý kiến đó là những nguyên nhân khiến người học trò có khi phải trốn đi tìm nơi để được đi học, vì không được Bổn sư gởi gắm khó có thể tìm được trú xứ để sinh hoạt, do vậy dẫn đến tình trạng Tăng Ni đi thuê nhà ở, hoặc ở nhờ nhà Phật tử. Vấn đề này cũng từng là đề tài nóng bỏng của Giáo hội nhưng vẫn chưa khắc phục được.
Nói chung, còn có rất nhiều vấn đề nan giải xảy ra giữa thầy và trò. Cũng có thể hiểu rằng các bậc làm thầy tổ vẫn thường hay lo lắng sợ đệ tử mình đạo hạnh còn non kém dễ bị đồng hoá với trào lưu xã hội theo khuynh hướng xấu làm suy thoái đạo đức, phẩm hạnh nên ngăn cấm không cho đi ra ngoài học thêm những kiến thức ngoại điển. Người học trò với bầu nhiệt huyết của tuổi trẻ muốn chứng minh mình, muốn vùng vẫy cho thoả chí, muốn có một cuộc sống hiện đại mà đôi lúc quên mất mình là ai! Giữa thầy và trò là thế hệ tuổi tác khác nhau cho nên có sự chông chênh về cách nhìn nhận cuộc sống. Phải nhìn nhận rằng cuộc sống hiện nay thì vấn đề học vấn không chỉ trong phạm vi gia giáo mà là sự mở rộng tầm nhìn thoáng hơn, dù là tiếp thu kiến thức nội điển hay ngoại điển, ở nhà học hay đến trường học thì ở đâu cũng có khuôn khổ và giới hạn nhất định của nó. Ngày xưa, các bậc thầy được trưởng thành trong môi trường mang nặng tư tưởng Nho giáo, Ngày nay, thì bị tây phương hoá rất nhiều, thì Đông và Tây khó có thể gặp nhau là điều cũng dễ hiểu, các vị trưởng bối nhìn thấy Tăng Ni trẻ sống hơi phá cách một chút thì nhìn không quen mắt nên cảm thấy khó chịu và lo lắng, lo rằng phẩm hạnh của một tu sĩ sẽ mai một đi mất. Vậy nên người học trò phải tự biết bổn phận của mình nên làm gì, làm thế nào để thầy được yên tâm không lo lắng về mình.
3.2 Bổn phận của người đệ tử đối với thầy và xã hội.
Là người xuất gia phát nguyện sống đời phạm hạnh, từ bỏ thế gian để được sống bên thầy, bên bạn. Khi đã hoà nhập vào trong đại chúng, thì thầy tổ chính là cha mẹ, bạn bè như anh chị em của mình, hết lòng kính trọng, thương yêu và quan tâm giúp đỡ lẫn nhau. Hãy vì mục đích và lý tưởng cao cả mà quên đi những cái nhỏ nhen thường tình. Cho dù mỗi người từ nỗi phương xa đến nhưng khi đã gặp nhau sống chung dưới một mái chùa thì đều là huynh đệ. Nên hiểu rằng giới thân này là thầy trao cho, pháp phục này do thầy mang đến, lý tưởng cao đẹp nhờ thầy vun vén, đạo hạnh trọn vẹn nhờ thầy trau dồi, vì vậy, phải tự biết bổn phận của người học trò, kính thờ và hầu hạ thầy như trong luật đã dạy. Hầu thầy không phải như nô lệ hầu chủ mà hiểu rằng một là, để tỏ lòng tôn kính biết ơn, hai là, để được thân gần bên thầy để học hỏi những điều chưa biết, cũng không nên rời thầy quá sớm. Như trong luật dạy: “Phật chế xuất gia giả, ngũ hạ dĩ tiền, tinh chuyên giới luật, ngũ hạ dĩ hậu, phương nãi thỉnh giáo tham thiền” nghĩa là: “Phật dạy người xuất gia, 5 hạ về trước ròng chuyên giới luật, 5 hạ về sau mới cho nghe kinh giáo và học phép tham thiền” [24-25].Tinh chuyên giới luật là trau dồi cho mình đạo đức tư cách, oai nghi tế hạnh của một vị xuất gia. Nhờ có giới luật mà một vị tu sĩ nhiếp phục được tham, sân, si. Nhờ có giới mà người tu sĩ trang điểm thêm cho mình tư cách tác phong. Nhờụ trì giới luật mà người ấy vượt ra khỏi nhà lửa tam giới. Tiếp đến mới học tập kinh điển là để mở mang kiến thức hiểu biết, nhờ đó trí tuệ được khai thông. Kết hợp giữa trí tuệ và giới hạnh đầy đủ người ấy mới có thể rời xa thầy.
Ngày xưa, mỗi vị thầy có một cách dạy đệ tử khác nhau, nhất là những vị Thiền sư xuất cách. Nhưng dù thầy có nghiêm khắc quở phạt các đệ tử cũng phải một lòng thờ kính thầy không dám khởi niệm oán thán, nhờ đó mà các vị ngộ đạo nhanh chóng. Ngày nay, do khế thời, khế cơ không thể giáo dục đệ tử bằng những phương pháp như thế, nhưng nhiều khi muốn đệ tử tiến bộ cũng nên la rầy, quở phạt. Nếu đệ tử biết khiêm cung quy thuận sẽ mau tăng tiến trên đường đạo và dẹp bỏ ngã chấp. Ngược lại, nếu đệ tử còn thấy tự ái bị tổn thương, còn khởi niệm trách hờn, bội bạc, ấy là gieo nhân xấu. Chưa nói đến những người vì giận thầy, bỏ chúng đi nơi khác, lại còn đặt chuyện bôi nhọ thanh danh và chống đối thầy. Người đệ tử này, dù có tài giỏi đến đâu cũng vì nghiệp bất thiện mà đóng bít cánh cửa giải thoát. “Trọng thầy mới được làm thầy”, đã muốn làm thầy nhưng đối với Bổn sư không trọn tình trọn nghĩa, làm sao có thể nhận được kết quả tốt về sau!?
Ngày nay, khoa học tiến bộ vượt bậc, con người cần có kiến thức và tri thức để hoà nhập với xã hội, với cộng đồng, người xuất gia cũng cần có số vốn thế học và đạo học mới khả dĩ có thể hướng dẫn phật tử. Vì nhu cầu cần thiết mà người xuất gia được đi ra ngoài để học tập, tiếp xúc với thời đại vốn muôn màu muôn vẻ, từ đó phát sanh ra những vấn đề phức tạp và những nhu cầu đáp ứng cho vật chất đời sống làm ảnh hưởng đến thanh danh thầy tổ và uy tín của giáo hội. Quay trở lại, so với thời đức Phật, các Tỳ kheo sống rất đơn giản, hạnh nguyện của các vị ấy là:
“Nhất bát thiên gia phạn
Cô thân vạn lý du
Chỉ vị sanh tử sự
Nhất thiết độ thiên thu”
Cuộc sống vừa đơn giản lại vừa thánh thiện, nhưng các vị ấy lại độ vô số quần sanh. Còn ngày nay đời sống tu sĩ khá ổn định, không phải đi ngàn nhà mà ngàn nhà đem đến cùng dường, không còn cô thân nữa mà có phương tiện đi lại đầy đủ. Ấy vậy, mà đạo hạnh lại bị tổn giảm, tư cách bị khiếm khuyết, thật là đáng tiếc!
Lại nữa, vì được ra ngoài học, tiếp xúc với nhiều điều tiến bộ, cập nhật kịp với nền khoa học văn minh, được như vậy không biết đem sự hiểu biết ấy tu tập để có thể quảng độ chúng sanh, mà ngược lại, quay trở lại chê thầy mình là cổ hủ, lạc hậu. Từ những yếu tố đó tạo nên khoảng cách thế hệ (Generation gap), vô tình chà đạp lên bóng của thầy. Trong cách hầu thầy, “… khi đi theo sau thầy thì không được đạp lên bóng thầy” đó là nghĩa đen. Nhưng xét về mặt đạo lý thì đạp lên bóng thầy có nghĩa là phá huỷ những gì mà thầy đã gầy dựng, từ những oai nghi tế hạnh cho đến tư cách của một vị tỳ kheo mà trước đây thầy đã dày công vun vén. Người đệ tử ấy đã quên rằng hình dáng này có được nhờ ai!? Giới thể thành tựu được do đâu!?. Họ thật sự tài giỏi quá, tân tiến quá, nên cho thầy mình là cổ hủ, là nông dân. Họ đâu biết rằng con diều bay được lên không gian bao la rộng lớn là nhờ có sức gió và sợi dây. Sợi dây tuy nhỏ và có vẻ mong manh nhưng công dụng của nó thì rất lớn. Nhờ nó nắm giữ mà cánh diều kia không bị lạc hướng.
Nói tóm lại, là một người đệ tử phải làm tròn bổn phận của mình. Phải biết hiếu thuận, kính trên nhường dưới, đối với bậc thầy tổ phải hết lòng tin tưởng, thờ kính, hầu hạ sớm trưa, giúp đỡ thầy những việc cần thiết. Phải biết hy sinh và thay thầy dạy dỗ, chỉ vẻ cho những huynh đệ còn sơ cơ, cho dù sự hiểu biết của mình có rộng lớn cũng phải biết khiêm cung, nhỏ nhẹ để tránh sự tự cao tự đại, ngã mạn có lỗi với kẻ trên người dưới. Được như vậy mới có thể là một vị Tỳ kheo có đạo đức, có nhân cách.
3.3 Mối liên hệ giữa thầy xuất gia và đệ tử tại gia.
Người xuất gia và Cư sĩ tại gia đều là một trong bảy chúng của đức Phật, đệ tử tại gia vì chưa đủ nhân duyên nên không gia nhập vào tăng đoàn. Nhưng đối với Tam bảo, họ là những người hộ pháp mạnh nhất và góp phần cùng với chúng Tăng hoằng dương chánh pháp.
Dưới thời đức Phật, thành phần đệ tử tại gia quy y Tam bảo, hết lòng phụng sự Phật pháp rất nhiều. Nổi bật nhất như Trưởng giả Cấp Cô Độc (Anàthapindaha); Vua Tần-bà-sa-la (Binbisara); Vua A-xà-thế (Ajatasattu), Kỳ-bạt (Jivaka); Ma-ha-nam (Mahanama); Tỳ-xá-khư Lộc mẫu (Visàkhà Migàramàta); Cô gái vườn xoài (Ambapàli) và v.v. Họ đến với đức Phật bằng lòng tin và sự ngưỡng mộ, ngược lại đức Phật cũng dạy cho họ gieo hạt giống Bồ đề, trồng ruộng phước bày sự bố thí cúng dường. Ngài đã dạy cho họ quy y Tam bảo, vâng giữ 10 giới nương tựa vào Phật Pháp Tăng để có đời sống tốt đẹp trọn vẹn cả hai mặt, gia đình và xã hội.
Phật dạy: “nếu một đệ tử Cư sĩ cao thượng, loại trừ được một ác hại trong hành động, nếu người ấy không phạm vào động cơ bốn hành động xấu, nếu người ấy không dùng sáu cách làm tiêu hao tài sản. Nếu người ấy không mắc vào mười điều tệ hại ấy, thì khi lễ bái sáu phương, người ấy đã sẵn sàng chinh phục cả hai cuộc đời, sẽ thắng trong đời này và đời sau; và sau khi thân xác tan rã người ấy sẽ tái sanh vào cõi trời hạnh phúc”.[21-312]
Như vậy, giữa người xuất gia và Cư sĩ tại gia có một mối liên hệ tương quan với nhau khá đặc biệt. Họ đến với Tam Bảo vì sự kính ngưỡng Phật pháp, muốn tìm một lối sống thánh thiện hơn, vượt qua sự đau khổ của thế gian những vẫn sống ở thế gian để tu tập. Ngược lại các tăng sĩ vì lòng từ bi dạy cho họ biết những điều căn bản của Phật pháp mà một cư sĩ tại gia có thể tu tập và vẫn được giải thoát. Vì muốn cho người tại gia tăng trưởng tâm bồ đề và phước điền mà chúng Tăng thọ nhận sự cúng dường. Cho nên trong kinh Thiện Sanh đức Phật dạy rõ về mối liên hệ này như sau:
“Này Gia chủ tử, có năm cách vị thiện nam tử đối xử với các vị Sa-môn, Bà-la-môn như phương trên: có lòng từ trong hành động về thân; có lòng từ trong hành động về khẩu; có lòng từ trong hành động về ý; mở rộng cửa để đón các vị ấy; cúng dường các vị ấy các vật dụng cần thiết. Này Gia chủ tử, các vị Sa-môn, Bà-la-môn được vị thiện nam tử đối xử như phương trên theo năm cách như vậy, có lòng thương vị thiện nam tử ấy theo năm cách sau đây: Ngăn họ không làm điều ác; khuyến khích họ làm điều thiện; thương xót họ với tâm từ bi; dạy họ những điều chưa nghe; làm cho thanh tịnh điều đã được nghe; chỉ bày cho con đường đưa đến cõi trời. Này Gia chủ tử các vị Sa-môn, Bà-la-môn được vị thiện nam tử đối xử như phương trên có năm cách, có lòng thương thiện nam tử theo năm cách. Như vậy phương trên được che chở, được trở thành an ổn và thoát khỏi các sự sợ hãi.” [7-529]
Đối với xã hội ngày nay, nhiều vị cư sĩ tại gia có trình độ kiến thức thế gian, có địa vị cao trong xã hội, lại nghiên cứu về Phật pháp và phát tâm hộ trì Tam Bảo. Đây cũng là điều rất đáùng quý, nhưng trong phạm vi giao tiếp thì đòi hỏi đệ tử tại gia phải có lòng kính trọng và đặt niền tin nơi thầy hướng đạo. “Im lặng như chánh pháp, nói năng như chánh pháp” Không nên phê phán hàng ngũ xuất gia, vô tình tạo cho mình khẩu nghiệp, dẫn đến giảm phước đức mà mình đã gieo trồng từ trước.
Một vị Tỳ kheo là Thầy của Trời và Người, nên vì hạnh nguyện cao cả đi vào đời sống của quần chúng để đem lại sự lợi lạc cho quần sanh. Trách nhiệm của các vị ấy chính là gây dựng niềm tin và tâm từ ái đối với mọi người bình đẳng như nhau, không phân biệt giàu nghèo, không phân biệt kẻ trí người ngu mà phải bình đẳng, dạy cho họ biết làm từ thiện xã hội để giúp đỡ những hoàn cảnh khó khăn hơn, cũng không vì thế mà xao lãng bổn phận làm cha làm mẹ, vợ, chồng của gia đình. Có những trường hợp các vị Phật tử vì tôn sùng quý kính thầy quá đặc biệt, dần đến quên trách nhiệm với gia đình tạo nên nguyên nhân đổ vỡ hạnh phúc tạo nên sự chê cười trong thế gian, tổn giảm uy tín của các vị tu sĩ. Lại có những trường hợp gây tai hại hơn xảy ra, vì sự ngưỡng mộ của họ quá lớn nên họ đã đem vật chất đến cung phụng thầy mình, rồi muốn quản lý sự sinh hoạt của thầy và tình thầy trò bị trói buộc nhau bằng sợi dây vật chất, vô tình làm cho mình bị vật chất sai sử, mất đi lý tưởng và sự ngưỡng mộ ban đầu, giống người tự cỡi rồi lại buộc điều này được ví như:
“Người lìa dục xuất gia
Sống vui trong rừng thẳm
Nay chạy ngược về nhà
Nên xem người như vậy
Được thoát rồi lại ràng” [8-344]
Mặt khác, là bậc thầy của Trời Người đều tôn kính, khi ra làm Phật sự chung với những vị cư sĩ, họ là những thành phần trí thức trong xã hội, những học giả uyên thâm về Phật Pháp, có lòng tin Tam Bảo, kính trọng thầy dạy đạo của mình mà họ đem nhiêt huyết của mình phụng sự đạo pháp. Khi cộng sự với họ thì các thầy phải phải hết lòng ủng hộ và khuyến khích, chứ đừng vì chút danh lơi hảo huyền mà cố tình loại trừ hoặc không đồng tình với nhau dẫn đến mất tình đạo vị, phải nghĩ rằng dù họ mang hình thức cư sĩ nhưng đạo tâm thuần khiết thì còn hơn những vị tu sĩ bị vật chất cám dỗ, mang trách nhiệm phụng sự chúng sanh nhưng tâm lại rất nhỏ hẹp, vị kỷ.
Nói chung quan hệ giữa thầy xuất gia và hàng đệ tử tại gia phải có tinh thần đoàn kết, lợi tha, cùng nhau xây dựng nếp sống đạo và đời ngày càng phát triển lành mạnh hơn. Đó chính là mẫu người Phật tử chân chánh.
THAY LỜI KẾT
Bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới cũng đều có những nét truyền thống đặc trưng rất riêng biệt. Theo quan điểm sống của người phương Tây thì chú trọng đến cuộc sống hiện thực, mọi cái đều phải chứng minh được, sờ nắm được, họ ít khi đồng tình với những vấn đề mang tính trừu tượng. Với người phương Đông thì lại khác. Họ rất chú trọng đến đời sống tâm linh, đó là một cõi thiêng liêng làm chỗ dựa tinh thần và mang lại hạnh phúc vĩnh hằng. Bởi vậy, với người phương Đông thì niềm tin bao giờ cũng là tài sản vô giá, không phải là họ tin vào những đấng thần thánh xa xôi nào mà chính ngay trong đời sống thực tại này. Họ coi trọng những mối quan hệ chung quanh mình, những ân tình mà nhân loại mãi mãi tôn thờ đó là thâm tình của cha mẹ dành cho con cái, Thầy dành cho trò, tình bằng hữu đối với nhau…giữa cha mẹ và con cái có mối quan hệ huyết thống cho nên những tình cảm xuất phát một cách tự nhiên, còn giữa thầy và trò thì sự hàm ơn lại bày tỏ một cách sâu lắng hơn và khó lột tả hơn nhưng nó lại làm rung động lòng người.
Trong mỗi chúng ta ai cũng đều ý thức được rằng, cha mẹ sanh thân ta, nuôi dưỡng ta trưởng thành nhưng người mà truyền trao cho ta những kiến thức thì chính là công lao của những bậc Thầy. Thầy dạy đạo, thầy dạy chữ, thầy dạy nghề.v.v. Cho dù ngày nay ta có trở thành bậc vĩ nhân trong thiên hạ đi nữa thì cũng nhờ công ơn vun vén của thầy từ lúc ban đầu. Người thầy có trách nhiệm hoàn thành nhân cách, mở mang trí tuệ cho ta đưa ta đến một tương lai rạng rỡ. Đó là nói đến thầy thế học, còn tấm lòng vị tha của những bậc thầy dạy đạo cũng cao quý biết chừng nào. Không cứ gì phải người xuất gia mới có thầy dạy đạo mà ngay cả những người ở thế gian cũng có những người thầy là tấm gương sáng để họ noi theo, để học cách đối nhân xử thế. Ở trong đạo thì tình cảm mà người thầy dành cho học trò của mình là một tình cảm vô điều kiện không vụ lợi. Bởi vì khi người xuất gia, cát ái từ thân thì chùa là nhà, thầy tổ chính là cha mẹ, nhưng người thầy nuôi đệ tử không chỉ là cơm ăn áo mặc mà là hoàn thiện nhân cách của một con người, dần dần đưa chúng ta bước lên nấc thang hiền thánh thoát khỏi sự trói trăn trong vòng sanh tử, khó nhọc biết bao! Thâm tình biết mấy! Dạy dỗ một người học trò từ phàm phu tục tử, gạn đục khơi trong để trở thành bậc thánh. Không chỉ riêng chúng con thôi mà còn làm lợi ích cho thế gian rất nhiều. Giáo lý của nhà Phật có tam tạng giáo điển Kinh, Luật, Luận. Tam tạng giáo điển ấy mà tồn tại lâu dài đều nhờ sự truyền thừa từ đời này sang đời khác của các bậc Tổ sư. Trong tam tạng ấy luật tạng là nền móng của đạo đức không chỉ riêng cho Tăng đoàn mà cho cả xã hội. Chúng ta thử làm một bài toán, nếu người tại gia theo thầy học đạo chỉ thọ giữ năm giới: không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu. Chúng ta hình dung xem, nếu một nước mà tất cả mọi người đều chỉ giữ năm giới ấy thôi thì thiên hạ đã thái bình. Như vậy, cho thấy công lao của vị thầy quá to lớn, chúng ta phải làm thế nào, không dám nói là đền ơn chỉ mong là biểu lộ được chút lòng chí thành, chí kính đối với thầy, chúng con thật sự không dám lấy gì để so sánh với công ơn thầy tổ vì rõ ràng trên thế gian này không có gì xứng đáng để ví von cho được.
Chúng con là hàng xuất gia, được sống trong môi trường xã hội hiện nay, khá đầy đủ tiện nghi về vật chất, có điều kiện để học hành, trong những năm qua may mắn được trau dồi dưới mái trường Học viện nơi mà chúng con được mở mang về trí tuệ, vừa được trau dồi về phong cách đạo đức. Chúng con cảm nhận được ân sâu mà Giáo hội Phật giáo cũng như các bậc tôn túc đã tận tuỵ lo cho đàn hậu học chúng con.
Từ lúc mới bước chân vào đạo chúng con đã cảm nhận được công ơn của các bậc làm thầy dành cho học trò rất bao la rộng lớn, tình cảm không bị hạn cuộc bởi thời gian, không gian cũng không hạn chế ở phạm vi thầy và đệ tử trong chùa mà hầu như tất cả các bậc tôn túc đều xem tất cả các Tăng Ni trẻ như con cái của mình, luôn quan tâm chăm sóc, che chở, sách tấn chúng con trên bước đường tu học. Vài dòng ngắn ngủi trong luận văn này là dịp để chúng con bày tỏ tấm lòng tri ân, muốn báo ân của chúng con đối với thầy tổ mà chúng con hằng thao thức và cũng tự biết bổn phận của người học trò cần phải làm gì để không cô phụ chí nguyện của người xuất gia, hơn thế nữa phải làm thế nào để ngọn đèn Phật pháp được lưu truyền mãi mãi, để ghi ơn các vị đàn na tín thí đã phát tâm hộ trì Tam Bảo mà không quản nhọc nhằn, sau nữa làm chỗ nương về cho những tâm hồn đang mỏi mòn vì cuộc mưu sinh tìm về chốn yên bình sau thời gian lao nhọc. Và một lạy này để một lần nữa thay lời tri ân chúng con dâng lên những bậc Thầy cao quý mà chúng con mãi tôn thờ.
Kính lạy Tăng người thừa chí cả
Thay Thế tôn truyền bá đạo mầu
Từ bi hoá độ vô cầu
Làm thầy mô phạm dẫn đầu chúng sanh./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Tạ Thanh Bạch - Trung Dung – nhà sách Khai trí – 1960.
[2] HT. Minh Châu – Tăng Nhất A Hàm phần 1 – VNCPHVN ấn hành – 1997.
[3] HT. Minh Châu - Trường A Hàm I - VNCPHVN ấn hành – 1991.
[4] HT. Minh Châu - Trung Bộ kinh I - VNCPHVN ấn hành – 1992.
[5] HT. Minh Châu - Tăng Chi bộ kinh I – II- III - VNCPHVN ấn hành 1996
[6] HT. Minh Châu - Tương Ưng bộ kinh I-II-III - VNCPHVN ấn hành – 1993.
[7] HT. Minh Châu - Trường Bộ kinh I-II-III - VNCPHVN ấn hành – 1991.
[8] HT. Minh Châu - Kinh Pháp Cú - Trường Cao cấp Phật học Việt Nam-1990.
[9] Hạnh Cơ – Tịnh Kiên – Pháp tạng Phật giáo Việt Nam – Lưu hành nội bộ-2004.
[10] Thích nữ Trí Hải - Con đường thoát khổ – Sài Gòn – 1966.
[11] Thích nữ Trí Hải - Thanh Tịnh Đạo luận - Lưu hành nội bộ – 1993.
[12] Phạm Cao Hoàn - Góp nhặt cát đá – NXB Thanh niên – 1999.
[13] Sa môn Trí Húc – Trùng Trị Tỳ Ni sự nghĩa tập yếu – Lưu hành nội bộ 1997.
[14] Chu Hy tập Chú – Mạnh Tử II – Bộ Văn hoá Giáo dục – Trung tâm học liệu xuất bản – 1968.
[15] Nguyễn Khuê – Người lái đò (trích Báo Giác Ngộ số 104 – 2004.
[16] Trần Phương Lan – Đức Phật Lịch sử – VNCPHVN – 1997.
[17] Nguyễn Hiến lê – Lịch Sử Văn minh Ấn Độ – NXB Văn hoá.
[18] HT Thích Trí Nghiêm – Kinh Lời Vàng – NXB Tôn giáo – 2002.
[19] Thích Phước Sơn – Luật Ma Ha Tăng Kỳ III, IV - Lưu hành nội bộ – 2000.
[20] Lê Mạnh Thát – Trần Nhân Tông toàn tập – NXB Tp. HCM – 2000.
[21] Thích Chơn Thiện – Tăng Già thời Đức Phật – NXB Tôn giáo – 2000.
[22] Thích Giác Toàn – Giaó dục Phật giáo – Lưu hành nội bộ – 2005.
[23] Thích Trí Tịnh – Lương Hoàng Sám - NXB Tôn giáo – 1997.
[24] Thích Hành Trụ - Sa Di Luật giải – Thành hội Phật giáo Tp. HCM – 1992.
[25] Thích Hành Trụ – Giáo Khoa Thơ - Thành hội Phật giáo Tp. HCM – 1997.
[26] Thích Thanh Từ - Thiền tông Việt Nam - Thành hội Phật giáo Tp. HCM -1992.
[27] Nhiều tác giả – Giáo dục Phật giáo trong thời hiện đại – NXB Tp. HCM-2001
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- a.doc