Mối liên quan giữa đa hình thái đơn gen ADH1C và các yếu tố nguy cơ trong ung thư tế bào gan nguyên phát

Đa hình thái đơn gen ADH1C có liên quan đến sự phát triển của các loại hình ung thư trong đó có ung thư gan nguyên phát. Mục tiêu của nghiên cứu nhằm đánh giá mối liên quan giữa đa hình thái đơn gen ADH1C với yếu tố nguy ung thư gan trên bệnh nhân nhiễm viêm gan B và lượng rượu tiêu thụ rượu. Xác định kiểu gen ADH1C bằng phương pháp PCR - RFLP trên 150 bệnh nhân ung thư gan nguyên phát và 150 đối tượng nhóm chứng. Kết quả nghiên cứu cho thấy nhóm đối tượng nghiện rượu và uống vừa mang kiểu gen ADH1C*1/*1 có nguy cơ mắc ung thư gan nguyên phát cao hơn nhóm mang kiểu gen ADH1C khác với OR 3,33; (95% CI, 1,03 - 11), OR 2,92 (95% CI, 1,02 - 8,36). Bên cạnh đó, kiểu gen ADH1C*1/*1 làm tăng nguy cơ mắc ung thư tế bào gan nguyên phát cho những người nhiễm virus viêm gan B với OR = 2,78 (CI, 1,22 - 6,34).

pdf10 trang | Chia sẻ: Mịch Hương | Ngày: 31/03/2025 | Lượt xem: 31 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mối liên quan giữa đa hình thái đơn gen ADH1C và các yếu tố nguy cơ trong ung thư tế bào gan nguyên phát, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TCNCYH 109 (4) - 2017 9 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Địa chỉ liên hệ: Trần Huy Thịnh, Bộ môn Hóa sinh, Trường Đại học Y Hà Nội Email: tranhuythinh@hmu.edu.vn Ngày nhận: 26/9/2017 Ngày được chấp thuận: 26/11/2017 MỐI LIÊN QUAN GIỮA ĐA HÌNH THÁI ĐƠN GEN ADH1C VÀ CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ TRONG UNG THƯ TẾ BÀO GAN NGUYÊN PHÁT Uông Thị Thu Hương1, Trần Huy Thịnh1, Trần Vân Khánh1, Nguyễn Thanh Bình1, Vũ Trường Khanh2 1Trường Đại Học Y Hà Nội, 2Bệnh viện Bạch Mai Đa hình thái đơn gen ADH1C có liên quan đến sự phát triển của các loại hình ung thư trong đó có ung thư gan nguyên phát. Mục tiêu của nghiên cứu nhằm đánh giá mối liên quan giữa đa hình thái đơn gen ADH1C với yếu tố nguy ung thư gan trên bệnh nhân nhiễm viêm gan B và lượng rượu tiêu thụ rượu. Xác định kiểu gen ADH1C bằng phương pháp PCR - RFLP trên 150 bệnh nhân ung thư gan nguyên phát và 150 đối tượng nhóm chứng. Kết quả nghiên cứu cho thấy nhóm đối tượng nghiện rượu và uống vừa mang kiểu gen ADH1C*1/*1 có nguy cơ mắc ung thư gan nguyên phát cao hơn nhóm mang kiểu gen ADH1C khác với OR 3,33; (95% CI, 1,03 - 11), OR 2,92 (95% CI, 1,02 - 8,36). Bên cạnh đó, kiểu gen ADH1C*1/*1 làm tăng nguy cơ mắc ung thư tế bào gan nguyên phát cho những người nhiễm virus viêm gan B với OR = 2,78 (CI, 1,22 - 6,34). Từ khóa: gen ADH1C, đa hình kiểu gen, ung thư gan tế bào gan nguyên phát I. ĐẶT VẤN ĐỀ Nghiện rượu mạn tính có liên quan đến hình thành khối u. Một bằng chứng rõ ràng là nghiện rượu nặng có liên quan đến ung thư gan và nhiều loại ung thư khác [1; 2]. Bản thân rượu không phải là yếu tố trực tiếp nhưng là yếu tố thúc đẩy quá trình hình thành ung thư gan [3; 4]. Tuy nhiên, một số điều còn đang bàn cãi là chỉ một nhóm người nghiện rượu nặng tiến triển thành ung thư, số đông còn lại thì không mắc bệnh. Gần đây nhiều ý kiến đưa ra phải chăng yếu tố gen là yếu tố nguy cơ của từng cá thể đối với ung thư. Khi rượu vào cơ thể, ethanol sẽ được chuyển hóa và tạo thành acetaldehyde, đây là chất gây độc và làm hủy hoại tế bào gan. Ac- etaldehyde còn là chất gây ung thư do gắn với DNA tạo sản phẩm DNA “adduct” (sản phẩm cộng) làm cho khối u phát triển. Quá trình tạo ra acetaldehyde từ ethanol được xúc tác bởi enzym alcohol dehydrogenase (ADH), đây là enzym có nhiều biến thể (được gọi isoen- zym) trong đó các isoenzym ADH nhóm I chuyển hóa > 92% lượng ethanol tại gan [4; 5]. Một trong những gen mã hóa cho enzym ADH nhóm 1 là gen ADH1C [6 - 8]. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng đa hình thái đơn gen ADH1C có liên quan đến ung thư [9 - 11]. Nghiên cứu trước của chúng tôi đã khẳng định kiểu gen ADH1C*1/*1 và alen ADH1C*1 là yếu tố nguy cơ độc lập với ung thư gan nguyên phát có sử dụng rượu, tuy nhiên vẫn chưa thấy rõ được mối liên quan giữa mức độ tiêu thụ rượu, yếu tố tác động virus viêm gan B với gen ADH1C trong bệnh ung thư gan nguyên phát. Vì vậy, nghiên cứu này thực hiện với mục tiêu khảo sát mối liên quan giữa gen ADH1C với một số yếu tố 10 TCNCYH 109 (4) - 2017 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC nguy cơ hay gặp trên bệnh nhân ung gan nguyên phát. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 1. Đối tượng Nhóm bệnh: 150 bệnh nhân được chẩn đoán xác định và được theo dõi điều trị ung thư gan nguyên phát tại Bệnh viện K Trung ương từ tháng 1/2014 đến tháng 9/2014. Nhóm chứng: 150 người mắc một số bệnh mạn tính khám tại phòng khám Nội Bệnh viện Xanh Pôn Hà Nội. Đối tượng này được lựa chọn có sử dụng rượu được khám kết luận không mắc ung thư gan nguyên phát hay bất kỳ ung thư nào khác, tình nguyện tham gia nghiên cứu, được phỏng vấn và lấy mẫu cùng thời điểm thực hiện nghiên cứu. Các đối tượng nghiên cứu đều được khai thác tiền sử sử dụng rượu. Phương pháp đo lượng rượu tiêu thụ là hỏi trực tiếp bằng bảng câu hỏi QF [12]. Dựa vào số lần sử dụng rượu trong tháng, thể tích cốc sử dụng, số gram rượu quy đổi của từng loại rượu sẽ tính được lượng rượu tiêu thụ trong tháng và theo ngày. Mức độ tiêu thụ rượu được phân loại theo hàm lượng tiêu thụ trong ngày: uống ít (nam ≤ 40g, nữ ≤ 20g), uống vừa (nam 41 - 60g, nữ 21 - 40g), nghiện rượu (nam ≥ 61g, nữ ≥ 41g). Nhiễm virus viêm gan B: Que thử test HbsAg +. Nghiên cứu được thực hiện tại Trung tâm Nghiên cứu Gen - Protein, Trường Đại học Y Hà Nội. 2. Phương pháp Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu bệnh chứng. 2.1. Thu thập mẫu - Thu thập mẫu máu của bệnh nhân ung thư tế bào gan nguyên phát và mẫu chứng. 2.2. Tách chiết DNA - DNA được tách chiết theo phương pháp phenol/chloroform từ bạch cầu máu ngoại vi của bệnh nhân ung thư tế bào gan nguyên phát và người lành đối chứng. - Kiểm tra độ tinh sạch và đo nồng độ của DNA được tách chiết bằng phương pháp đo quang trên máy Nanodrop, dựa vào tỷ lệ A260nm/A280nm = 1,8 ÷ 2,0. 2.3. Kỹ thuật PCR-RFLP (PCR- Restric- tion Fragment Length Polymorphism) Khuếch đại đoạn gen ADH1C bằng máy PCR với cặp mồi đặc hiệu. Mồi xuôi: ADH3ex8F: AAT AAT TAT TTT TCA GGC TTT AAG AGT AAA TAT TCT GT. Mồi ngược: ADH3ex8R: AAT CTA CCT CTT TCC AGA GC. Phản ứng PCR được tiến hành với thể tích 20μl gồm: 10 μl Taq polymerase, 1μl mồi xuôi, 1μl mồi ngược, 2μl DNA và 6μl H2O. Chu trình nhiệt của phản ứng PCR: [94oC/30 giây, 54oC/30 giây, 72oC/30 giây] 37 chu kỳ. Bảo quản mẫu ở 15oC. Sản phẩm PCR được điện di trên gel agarose 3% kiểm tra, sau đó được tiến hành giải trình tự theo quy trình thường quy. Kết quả được so với trình tự Genebank. Đoạn gen được khuếch đại với cặp mồi đặc hiệu ADH3ex8F và ADH3ex8R là một đoạn dài 162 bp trên exon 8 của gen ADH1C, chứa SNP rs698. Vị trí SNP rs698 cách đầu 5' một đoạn 99 bp, cách đầu 3' một đoạn 62bp và cách vị trí cắt đối chứng của enzym SspI TCNCYH 109 (4) - 2017 11 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC một đoạn 68 bp.Sản phẩm PCR sau khi enzym SspI cho hình ảnh đoạn gen trên điện di. Alen ADH1C*2: 2 đoạn gen kích thước 31bp và 131bp. Alen ADH1C*1: 3 đoạn gen kích thước 31bp và 68bp, 63bp, trong đó đoạn 68bp và 63bp trùng nhau cho hình ảnh 1 băng điện di. Kiểu gen ADH1C*1/*1: 2 băng tương ứng đoạn gen 63bp, 68bp, và 31bp. Kiểu gen ADH1C*1/*2: 3 băng tương ứng đoạn gen 63bp, 68bp và 31bp, 131bp. Kiểu gen ADH1C*2/*2: 2 băng tương ứng đoạn gen 131bp và 31bp. 2.4. Phân tích số liệu Phương pháp thống kê và kiểm định Chi- Square (χ2) trên phần mềm SPSS 16.0 được sử dụng để đánh giá tỷ lệ các alen, các kiểu gen và mối tương quan giữa chúng với ung thư gan. Sử dụng kiểm định trung vị (Median Test) để so sánh trung vị của tuổi phát hiện bệnh ung thư tế bào gan nguyên phát. Tính tỷ suất chênh (Odds Ratio: OR) với độ tin cậy 95% (Confidence Interval: CI) về tương quan giữa tính đa hình thái của đoạn gen ADH1C và ung thư gan nguyên phát và một số các yếu tố nguy cơ được tính toán theo phương pháp hồi quy. 3. Đạo đức trong nghiên cứu Nghiên cứu tuân thủ chặt chẽ đạo đức nghiên cứu trong Y học theo Quyết định số 188/HĐĐĐ- ĐHYHN, ngày 31/01/2013 của Hội đồng Đạo đức Y học Trường Đại học Y Hà Nội. Đối tượng tham gia nghiên cứu hoàn toàn tự nguyện và có quyền rút khỏi nghiên cứu khi không đồng ý tiếp tục tham gia. Các thông tin cá nhân sẽ được đảm bảo bí mật. III. KẾT QUẢ 1. Đặc điểm chung nhóm nghiên cứu Bảng 1. Đặc điểm chung nhóm nghiên cứu Đặc điểm Bệnh Chứng p n % n % Giới Nam 121 80,7 131 87,3 0,12 Nữ 29 19,3 19 12,7 Tuổi ≤ 40 20 13,3 11 7,3 0,0640 - 60 93 62,0 86 57,3 ≥ 60 37 24,7 53 35,3 Sử dụng rượu Nghiện 54 36,0 57 38,0 0,69Uống vừa 60 40,0 53 35,3 Uống ít 36 24,0 40 26,7 Nhiễm HBV 99 66,0 84 56,0 0,08 12 TCNCYH 109 (4) - 2017 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Trong nhóm bệnh, độ tuổi mắc bệnh thay đổi rộng, cao nhất độ tuổi 40 - 60 chiếm tới 62%, giảm dần từ tuổi 60. Nói chung tần suất mắc bệnh tăng theo tuổi và giảm nhẹ ở tuổi già. Tỷ lệ mắc bệnh của nam cao hơn nhiều so với nữ (4,18/1). Viêm gan B được coi là nguyên nhân hàng đầu gây ung thư gan nguyên phát. Tỷ lệ nhiễm HBV của nghiên cứu chiếm khá cao tới 66%, cho thấy Việt Nam là vùng nằm trong vùng nhiễm HBV và ung thư gan cao nhất thế giới. Bên cạnh những yếu tố nguy cơ trên, nhóm nghiên cứu tập trung khai thác tiền sử uống rượu và mức độ sử dụng rượu của từng đối tượng nghiên cứu. Nghiên cứu đã sử Hình 1. Hình ảnh điện di sản phẩm cắt đoạn gen ADH1C bằng enzym SspI mẫu bệnh nhân ung thư tế bào gan nguyên phát M: Marker 100bp; kiểu gen ADH1C*1/*1(K21-K29 và K31, K61, K64 - K71), kiểu gen ADH1C*1/*2 (K30), kiểu gen ADH1C*2/*2 (K63). Sản phẩm của đoạn gen ADH1C bằng enzym cắt SspI cho thấy các băng rõ nét và phân tách rõ ràng, kích thước phù hợp với đoạn các đoạn gen bị cắt và kết quả kiểm tra lại bằng giải trình tự trên GeneBank. 131bp 63-68bp 31bp K21 K22 K23 K24 K25 K26 K27 K28 K29 K30 K31 M 131bp 63-68bp 31bp K61 K62 K63 K64 K65 K66 K67 K68 K69 K70 K71 M 21 K2 K24 K25 K26 K27 K28 K2 K 131bp 63 - 68bp 31pb 131bp 63 - p 31pb K61 K62 K63 K64 K65 K66 K67 K68 K69 K70 K71 M dụng bộ câu hỏi của Tổ chức Y tế Thế giới (2000), đây là bộ câu hỏi đã được áp dụng ở nhiều cuộc điều tra và ở nhiều các quốc gia khác nhau, giúp phân loại 3 nhóm nghiện rượu, uống vừa, uống ít dựa vào hàm lượng rượu trung bình trong một ngày. Nhóm nghiện rượu và uống vừa chiếm tỉ lệ cao trong nhóm bệnh (tương ứng 40,0%, 36,0%). Nhóm chứng, hàm lượng rượu sử dụng trong ngày cũng khá cao, nhóm nghiện rượu và nhóm uống vừa chiếm đa số. Như vậy, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p > 0,05) cả về độ tuổi, giới, nhiễm virus HBV, mức độ sử dụng rượu giữa 2 nhóm bệnh và nhóm chứng. 2. Mối liên quan giữa gen ADH1C với một số yếu tố nguy cơ trong ung thư tế bào gan nguyên phát TCNCYH 109 (4) - 2017 13 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 2.1. Gen ADH1C và độ tuổi phát hiện bệnh ung thư tế bào gan nguyên phát của các kiểu gen Bảng 2. Gen ADH1C và trung vị tuổi phát hiện bệnh của các kiểu gen Theo bảng trên, trung vị của tuổi phát hiện bệnh ung thư tế bào gan nguyên phát ở kiểu gen ADH1C*1/*1 là 55 [28 - 80], của kiểu gen ADH1C*1/*2 và ADH1C*2/*2 là 52 [25 - 71]. Giữa các kiểu gen trung vị của tuổi phát hiện bệnh không có sự khác biệt với p = 0,78 (kiểm định Median test). 2.2. Mối liên quan của gen ADH1C với giới tính trong nhóm ung thư gan nguyên phát Bảng 3. Gen ADH1C và giới trong nhóm bệnh Trong 150 bệnh nhân có 107 nam (88,4%) và 28 nữ (96,6%) mang kiểu gen đồng hợp ADH1C*1/*1 và chỉ có 14 nam (11,6%) và 1 nữ (3,4%) mang kiểu gen dị hợp tử ADH1C*1/*2 và đồng hợp tử ADH1C*2/*2. Tỷ lệ kiểu gen ADH1C ở nam và nữ trong nhóm bệnh không có sự khác biệt (p > 0,05). 2.3. Mối liên quan của gen ADH1C vớí nhiễm virut HBV Bảng 4. Gen ADH1C với nhiễm virut HBV Kiểu gen Trung vị của tuổi phát hiện bệnh p ADH1C*1/*1 55 [28 - 80] 0,78 ADH1C*1/*2 và ADH1C*2/*2 [25 - 71] Kiểu gen Nam (n = 121) Nữ (n = 29) p CI 95% ADH1C*1/*1 107 (88,4%) 28 (96,6%) 0,19 0,03 - 2,16 ADH1C*1/*2 và ADH1C*2/*2 14 (11,6%) 1 (3,4%) Giới tính Tình trạng Viêm gan Kiểu gen Nhóm bệnh Nhóm chứng p OR CI 95% HBV (+) ADH1C*1/*1 89 (89,9%) 64 (76,2%) 0,01 2,78 1,22 - 6,34ADH1C*1/*2 và ADH1C*2/*2 10 (10,1%) 20 (23,8%) 1,00 Tổng 99 (100%) 84 (100%) HBV(-) ADH1C*1/*1 46 (90,2%) 55 (83,3%) 0,28 1,84 0,59 - 5,68ADH1C*1/*2 và ADH1C*2/*2 5 (9,8%) 11 (16,7%) 1,00 Tổng 51 (100%) 66 (100%) 14 TCNCYH 109 (4) - 2017 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC - Trong nhóm bệnh nhân có nhiễm virus HBV kiểu gen ADH1C*1/*1 nhóm bệnh 89,9%. Kiểu gen ADH1C*1/*1 có nguy cơ mắc ung thư gan nguyên phát cao hơn kiểu gen ADH1C*1/*2 và ADH1C*2/*2 (OR = 2,78, CI 95%: 1,22 - 6,34), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, p < 0,05. - Trong nhóm bệnh nhân không nhiễm virus HBV kiểu gen ADH1C*1/*1 nhóm bệnh 90,2% Kiểu gen ADH1C*1/*1 có nguy cơ mắc ung thư gan nguyên phát cao hơn kiểu gen ADH1C*1/*2 và ADH1C*2/*2, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê, p > 0,05. 2.4. Mối liên quan của gen ADH1C với tình trạng sử dụng rượu Bảng 4. Gen ADH1C với tình trạng sử dụng rượu Tình trạng sử dụng rượu Kiểu gen Nhóm bệnh Nhóm chứng p OR CI 95% Nghiện rượu ADH1C*1/*1 50 (92,6%) 45 (78,3%) 0,04 3,33 1,03 - 11,0 ADH1C*1/*2 và 4 (7,4%) 12 (21,7%) 1,0 Tổng 54 (100%) 57 (100%) Uống vừa ADH1C*1/*1 54 (90%) 40 (75,5%) 0,03 2,92 1,02 - 8,36 ADH1C*1/*2 và 6 (10%) 13 (25,5%) 1,0 Tổng 60 (100%) 53 (100%) Uống ít ADH1C*1/*1 31 (86,1%) 34 (85,0%) 0,89 1,09 0,30 - 3,94 ADH1C*1/*2 và 5 (13,9%) 6 (15,0%) 1,00 Tổng 36 (100%) 40 (100%) - ADH1C*1/*1 chiếm tỷ lệ cao trong cả 2 nhóm nghiện rượu và uống rượu vừa (tỷ lệ tương ứng 92,6 và 90,0%). - Nhóm nghiện rượu nặng và uống rượu vừa kiểu gen ADH1C*1/*1 và alen ADH1C*1 ở nhóm bệnh nhân đều cao hơn nhóm chứng. Trong khi nhóm uống rượu ít tỷ lệ kiểu gen và alen này là tương đương nhau khoảng (85%). - Kiểu gen ADH1C*1/*1 có nguy cơ mắc ung thư gan nguyên phát cao hơn kiểu gen ADH1C*1/*2 và ADH1C*2/*2 trong nhóm nghiện rượu OR = 3,33, CI 95%:(1,03 - 11,0), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, p < 0,05. - Kiểu gen ADH1C*1/*1 có nguy cơ mắc ung thư gan nguyên phát cao hơn kiểu gen ADH1C*1/*2 và ADH1C*2/*2 trong nhóm uống rượu mức độ trung bình OR = 2,92, CI 95% (1,02 - 8,36), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, p < 0,05. Nhóm uống rượu ít, kiểu gen ADH1C*1/*1 nhóm bệnh và nhóm chứng không có sự khác biệt với p > 0.05, CI 95%: (0,30 - 3,94). TCNCYH 109 (4) - 2017 15 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Để thấy rõ hơn mối tương quan giữa tình trạng sử dụng rượu và kiểu gen ADH1C chúng tôi gộp 2 nhóm gồm tình trạng uống rượu mức độ trung bình và nghiện rượu (nam > 40g/ngày và nữ > 20g/ngày), trong nhóm này có 114 bệnh nhân và 110 chứng. Kết quả biểu diễn trên hình 2. Nhóm nghiên cứu > 40g/ngày(nam) ≤ 40g/ngày(nam) > 20g/ngày(nữ) ≤ 20g/ngày(nữ) Hình 2. So sánh tỷ lệ kiểu gen ADH1C*1/*1 trong cả nhóm nghiên cứu, nhóm sử dụng sử dụng rượu vừa và nghiện rượu (nam > 40g/ngày, nữ > 20g/ngày) và nhóm sử dụng rượu ít (nam ≤ 40g/ngày, nữ ≤ 20g/ngày) IV. BÀN LUẬN Rượu khi vào cơ thể được chuyển hóa là do tác động của enzym ADH và các microsome cytochrome P450 cảm ứng 2E1 (CYP2E1) [5]. ADH có nhiều biến thể khác nhau được chia thành 5 nhóm. Có bảy gen mã hóa cho các ADH này đều nằm trên nhiễm sắc thể số 4, trong đó có ba gen ADH1A, ADH1B, ADH1C mã hóa cho enzym nhóm I, trong đó ADH1B và ADH1C là gen đa hình thái, và đặc trưng cho từng chủng tộc. Đa hình thái đơn gen ADH1C (2 alen ADH1C*1, ADH1C*2) mã hóa các γ1 và γ2 tiểu đơn vị [8; 13]. Enzym ADH được mã hóa bởi alen ADH- 1C*1 chuyển hóa ethanol để tạo ra AA cao gấp 2,5 lần so với enzym được mã hóa bởi alen ADH1C*2, sự tích tụ AA có thể chỉ xảy ra trong trường hợp sử dụng rượu hàm lượng từ trung bình đến nhiều. Mặc dù Km của enzym chuyển hóa ethanol được mã hóa ADH1C*1, ADH1C*2 là giống nhau, nhưng khác nhau về Vmax. Khi cả 2 enzym này chuyển hóa lượng ethanol nồng độ cao thì Vmax của ADH1C*1 (khoảng 90/phút) cao gấp 2,5 lần Vmax của ADH1C*2 (khoảng 40/phút). Do đó, nếu chuyển hóa lượng ethanol nồng độ cao và số lượng nhiều thì tích tụ nồng độ AA càng nhiều và kéo dài đến khi ethanol được chuyển hóa hoàn toàn. Vì vậy, sự tích tụ AA phụ thuộc vào lượng rượu tiêu thụ và gen mã hóa cho Nhóm bệnh Nhóm chứng Không có ý nghĩa thống kêp = 0,004 p = 0,01 95 90 85 80 75 70 90 79,3 91,2 77,1 86,1 85 16 TCNCYH 109 (4) - 2017 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC enzym chuyển hóa rượu. Nồng độ AA càng cao và tích tụ trong cơ thể càng lâu thì nguy cơ gây ung thư càng cao [3; 6]. Một nghiên cứu bệnh chứng đưa ra kết luận nhóm sử dụng rượu với hàm lượng cao ở cả nam và nữ đều có nguy cơ mắc ung thư đại trực tràng cao hơn nhóm sử dụng rượu ít. Hơn nữa, tác giả đưa ra mối liên quan giữa gen và hàm lượng tiêu thụ rượu. Trong nhóm nghiện rượu mang kiểu gen ADH1C*1/*1 có nguy cơ mắc ung thư đại trực tràng cao hơn nhóm mang kiểu gen khác OR 1,8 (1,0 - 3,1) và ngay cả nhóm đối tượng sử dụng rượu ít mà mang kiểu gen đồng hợp ADH1C*1/*1 thì nguy cơ cũng cao hơn với OR 1,2 (0,7 - 1,9) [9]. Trong nghiên cứu này, phân tích mối tương quan kiểu gen ADH1C trong các nhóm sử dụng rượu thì thấy tỷ lệ kiểu gen ADH1C*1/*1 làm tăng nguy cơ mắc ung thư tế bào gan nguyên phát cao hơn trong nhóm sử dụng rượu vừa đến nghiện rượu (OR tương ứng 3,33 và 2,92). Vai trò của gen ADH1C làm tăng nguy cơ mắc ung thư có liên quan đến rượu đã được chứng minh rất rõ ràng trong nhiều nghiên cứu như trong ung thư đại tràng, ung thư đường tiêu hóa trên [9; 14], ung thư vú [11; 15] ung thư biểu mô tế bào gan [10]. Tuy nhiên, cũng có một số nghiên cứu cho kết quả trái ngược ADH1C không làm tăng nguy cơ mắc ung thư. Có sự khác nhau về vai trò của gen ADH1C là do đối tượng của các nghiên cứu này lựa chọn đối tượng sử dụng rượu là khác nhau. Các nghiên cứu này chọn đối tượng nhóm chứng sử dụng rượu mức độ ít đến trung bình như một nghiên cứu về ung thư hầu họng thì lựa chọn nhóm chứng chủ yếu là không sử dụng rượu và chỉ có 15% sử dụng rượu < 26g/ngày [16], trong khi một nghiên cứu khác cũng tiến hành trên bệnh nhân ung thư hầu họng thì không có thông tin gì về tình trạng sử dụng rượu [17]. Vì vậy, các nghiên cứu này đã không nhận thấy mối liên quan giữa kiểu gen ADH1C*1/*1 với nhóm nghiện rượu. Nghiên cứu của tác giả người Đức (2006) tiến hành xác định SNP của gen ADH1C trên 2 nhóm, nhóm bệnh 86 bệnh nhân ung thư tế bào gan nguyên phát có liên quan đến rượu và nhóm chứng 525 đối tượng mắc các bệnh lành tính có sử dụng rượu. Tác giả đã phân tích kiểu gen ADH1C trên nhóm đối tượng sử dụng rượu vừa và nghiện rượu, hàm lượng rượu thấp nhất là 40g/ngày và trung bình là 100g/ngày, như vậy là có sự tương đồng về tình trạng sử dụng rượu giữa 2 nhóm bệnh và nhóm chứng [10]. Với nghiên cứu này, việc lựa chọn và phân loại đối tượng nghiên cứu theo mức độ sử dụng rượu rất rõ ràng, nhóm nghiện rượu được lựa chọn nam > 61g/ngày, nữ > 41g/ ngày, nhóm uống vừa được lựa chọn nam 41 - 60g/ngày, nữ 21 - 40g/ngày. Khi gộp 2 nhóm uống rượu vừa và nghiện rượu đem so sánh kiểu gen giữa nhóm bệnh và nhóm chứng thì cho kết quả phù hợp với kết quả của nghiên cứu của tác giả này là trong nhóm nghiện rượu nặng kiểu gen ADH1C*1/*1 và alen ADH1C*1 có nguy cơ ung thư gan nguyên phát cao hơn nhóm kiểu gen khác tương ứng OR 3,56 (1,33 - 9,53) và OR = 2,14 CI 95% (1,14 - 4,0). Phân tích mối tương quan kiểu gen ADH1C với tình trạng nhiễm virus viêm gan B cho thấy người có nhiễm virus HBV và mang kiểu gen ADH1C *1/*1 có nguy cơ ung thư gan nguyên phát cao gấp 2,78 lần nhóm đối tượng có nhiễm virus HBV và mang kiểu gen ADH1C *1/*2, ADH1C *2/*2, sự khác biệt có ý TCNCYH 109 (4) - 2017 17 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC nghĩa thống kê p < 0,05. Nhóm HBV âm tính, sự khác biệt giữa các kiểu gen ADH1C không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. Điều này cho thấy, viêm gan B làm tăng nguy cơ ung thư gan nguyên phát trên bệnh nhân mang kiểu gen ADH1C *1/*1. Tuổi phát bệnh ung thư gan nguyên phát của kiểu gen ADH1C*1/*1 cao hơn nhóm kiểu gen khác, nhưng sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê, p > 0,05. Kết quả này có thể là do kiểu gen ADH1C*1/*2 và ADH1C*2/*2 chỉ có 15 bệnh nhân chiếm tỷ lệ thấp 10% do vậy độ tuổi trung bình mắc bệnh chưa đại diện cho nhóm mang kiểu gen này. Phân tích mối tương quan giữa kiểu gen ADH1C với giới tính cho kết quả không có sự khác biệt giữa các kiểu gen ở 2 giới nam và nữ với p > 0,05. V. KẾT LUẬN Kiểu gen ADH1C*1/*1 làm tăng yếu tố nguy cơ của ung thư gan nguyên phát ở những người sử dụng rượu hàm lượng vừa và nghiện rượu OR lần lượt là 2,92 (CI, 1,02 - 8,36) và 3,33 (CI, 1,03 - 11,0). Sự kết hợp giữa kiểu gen ADH1C*1/*1 và nhiễm virus viêm gan B làm tăng nguy cơ mắc ung thư gan nguyên phát với OR = 2,78 (CI 1,22 - 6,34). Không thấy mối liên quan giữa gen ADH1C với tuổi, giới của nhóm nghiên cứu. Lời cảm ơn Đề tài được thực hiện với sự hỗ trợ kinh phí của đề tài nhánh cấp nhà nước “Đánh giá sự phân bố kiểu gen của một số gen liên quan đến ung thư phổi và ung thư gan” thuộc đề tài nhiệm vụ Quỹ gen “Đánh giá đặc điểm di truyền người Việt Nam”.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfmoi_lien_quan_giua_da_hinh_thai_don_gen_adh1c_va_cac_yeu_to.pdf
Tài liệu liên quan