Mô bì là tập hợp các tế bào bao bọc toàn bộ phía
ngoài của cơ thể thực vật
hoặc bọc lót bên trong một số cơ quan (cơ quan sinh
sản), mô này đảm nhận chức
năng: bảo vệ các mô sống ở bên trong tránh khỏi các
tác động vật lý, hoá học,
những điều kiện bất lợi của môi trường và chống lại
sự phá hoại của các sinh vật
10 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 5895 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mô phân sinh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mô phân sinh
1.1. Khái niệm:
Mô phân sinh là một tập hợp những tế bào có khả
năng phân chia để hình
thành các tế bào mới. Đặc trưng cơ bản của mô phân
sinh là không chỉ tạo ra
những tế bào mới bổ sung cho cơ thể thực vật mà còn
làm cho chính chúng tồn tại
và hoạt động mãi. Như vậy, có một số tế bào trong
mô phân sinh vẫn duy trì khả
năng phân sinh trong suốt đời sống cá thể, và phần
lớn những tế bào mới được
30
hình thành từ mô phân sinh sẽ chuyên hoá về chức
năng và phân hoá về hình thái
để hình thành những mô vĩnh viễn khác.
Mô phân sinh có thể nằm ở nhiều vị trí khác nhau
trong cơ thể thực vật: nằm ở
chồi ngọn, chồi nách, đầu mút của rễ, nằm trong trụ
giữa hay phần vỏ của thân hoặc
rễ.
1.2. Đặc điểm tế bào của mô phân sinh
Các tế bào của mô phân sinh thường có kích thước
nhỏ bé, hình dạng không
giống nhau ở các vị trí khác nhau: tế bào của mô
phân sinh nằm ở phần ngọn của
thân, cành, đầu mút của rễ thường có đường kính
tương đối đồng đều nhau, còn tế
bào nằm ở tầng phát sinh vỏ và tầng phát sinh trụ thì
thường có dạng hình thoi hẹp
và dài. Các tế bào mô phân sinh thường có màng
mỏng, nước chiếm tỷ lệ rất lớn
92,5%, các chất khác chỉ chiếm 7,5%, trong đó
cellulose rất ít mà chủ yếu là pectin
và hemicellulose. Bên trong, xoang tế bào chứa đầy
chất tế bào đậm đặc, nhân
thường có kích thước lớn, không bào nhỏ, nhiều, nằm
rải rác, các tế bào của mô
phân sinh thường sắp xếp sít nhau nên không có các
khoảng gian bào.
1.3. Phân loại mô phân sinh
Căn cứ vào nguồn gốc phát sinh, người ta chia mô
phân sinh ra thành mô phân
sinh sơ cấp và mô phân sinh thứ cấp.
1.3.1. Mô phân sinh sơ cấp
Mô phân sinh sơ cấp có nguồn gốc trực tiếp từ các tế
bào hợp tử. Ở trong cây,
mô phân sinh sơ cấp thường nằm ở đầu tận cùng của
thân, cành, rễ hay nằm ở gốc
của mỗi lóng ở trên thân .
Mô phân sinh sơ cấp có một vai trò hết sức quan
trọng: nhờ hoạt động của mô
này mà tất cả các mô vĩnh viễn khác được tạo ra và
tất cả các cơ quan khác của
thực vật như rễ thân, lá, cụm hoa, hoa... cũng được
hình thành và phát triển.
Căn cứ vào vị trí ở trong cây, người ta chia mô phân
sinh sơ cấp ra làm 2 loại:
mô phân sinh ngọn và mô phân sinh lóng.
a. Mô phân sinh ngọn
Mô phân sinh ngọn (mô phân sinh tận cùng) thường
nằm ở đầu tận cùng của
thân, cành, đầu mút của rễ.
Những bộ phận ấy của thân, rễ được gọi là những
đỉnh sinh trưởng. Hoạt động
của mô phân sinh ngọn sẽ làm cho rễ dài ra và cây
tăng trưởng theo chiều dài
31
.
b. Mô phân sinh lóng
Mô phân sinh lóng thường gặp ở thân các cây họ Lúa
(Poaceae) và một số họ
khác, thường nằm ở phần gốc của mỗi lóng, hoạt
động của mô này giúp cho cây
tăng trưởng chiều cao của thân bằng cách tăng độ dài
của mỗi lóng (không kể sự
sinh trưởng ở ngọn) - sự sinh trưởng này gọi là sinh
trưởng lóng, ngoài ra mô này
còn giúp cho thân có khả năng đứng thẳng lại nếu bị
đổ ngã (thường gặp ở cây họ
lúa). Mô phân sinh lóng cũng có thể gặp ở gốc của lá
non, ở gốc của cơ quan đang
phát triển của hoa: Cánh hoa, nhị hoa (theo N.X.
Kixeleva).
1.3.2. Mô phân sinh thứ cấp
Mô phân sinh thứ cấp có nguồn gốc từ mô phân sinh
sơ cấp, hoạt động của mô
này làm cho cây tăng trưởng về chiều ngang, bề dày
và khối lượng. Mô phân sinh
thứ cấp bao gồm:
a. Tầng phát sinh trụ (tầng phát sinh libe-gỗ)
Tầng phát sinh trụ chủ yếu có ở trong các cơ quan
trục (rễ, thân) nó làm thành
một lớp liên tục hay dưới dạng những rải riêng biệt
nằm giữa bó gỗ và libe. Các tế
bào của tầng phát sinh trụ thường hẹp, có dạng hình
thoi dài, chiều dài gấp nhiều
lần chiều rộng và tăng lên theo tuổi của cây, các tế
bào này đều có không bào phát
triển mạnh, trên màng có nhiều lỗ nhỏ với các sợi
liên bào biểu hiện rõ.
Tầng phát sinh trụ hoạt động phân chia cho ra libe
thứ cấp ở phía ngoài và gỗ
thứ cấp ở phía trong nhưng số lượng tế bào gỗ nhiều
gấp 3 đến 4 lần tế bào libe,
do đó gỗ phát triển hơn libe rất nhiều.
b. Tầng phát sinh vỏ (tầng phát sinh bần - lục bì)
Hình 2.1. Đỉnh sinh trưởng ở đầu
ngọn rễ
1.Tầng sinh chóp rễ; 2. Tầng sinh bì; 3.
Tầng sinh vỏ; 4. Tầng sinh trụ 5. Hạt tinh
bột
- Đỉnh sinh trưởng của thân, cành, gồm các tế
bào sắp xếp thành dạng hình nón, do đó còn gọi
là nón tăng trưởng. Ở đây các tế bào khởi sinh
phân chia liên tục hình thành nên những loại
mô phân sinh phân hoá: tầng sinh bì (nguyên
bì), tầng trước phát sinh và khối mô phân sinh
cơ bản.
- Mô phân sinh tận cùng ở đầu rễ, hoạt động
phân chia cho ra chóp rễ và các miền khác nhau
của rễ non, phần mô này bao gồm: tầng sinh bì,
tầng sinh vỏ, tầng sinh trụ hoạt động của những
tầng này sẽ tạo ra những phần tương ứng của rễ
cây.
32
Nằm ở phần vỏ của rễ và thân cây. Trong đời sống
của cây, tầng phát sinh vỏ
có thể xuất hiện nhiều lần và có xu hướng ngày càng
nằm lui về phía trong. Các tế
bào của tầng phát sinh vỏ thường có dạng đa giác, đôi
khi hơi kéo dài theo trục của
cơ quan, màng mỏng, không bào phát triển, có thể
chứa tanin, tinh bột... Các tế bào
thường sắp xếp sít nhau có khả năng phân chia nhiều
lần tạo ra bên ngoài là lớp bần
và bên trong là lớp vỏ lục.
2. Mô bì (mô che chở)
Mô bì là tập hợp các tế bào bao bọc toàn bộ phía
ngoài của cơ thể thực vật
hoặc bọc lót bên trong một số cơ quan (cơ quan sinh
sản), mô này đảm nhận chức
năng: bảo vệ các mô sống ở bên trong tránh khỏi các
tác động vật lý, hoá học,
những điều kiện bất lợi của môi trường và chống lại
sự phá hoại của các sinh vật
khác, đồng thời các mô này còn đảm bảo mối quan hệ
giữa cơ thể với môi trường
bên ngoài.
Căn cứ vào nguồn gốc, đặc điểm sinh lý, hình thái
người ta phân biệt mô bì sơ
cấp và mô bì thứ cấp.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Mô phân sinh.pdf