Mạ composite TiO2-Ni một giải pháp kỹ thuật nâng cao khả năng làm việc của lớp mạ ni
Cơ tính của lớp mạ composite phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố trong quá trình mạ điện. Tuy nhiên, các
thông số về mật độ dòng điện, nhiệt độ dung dịch điện phân và độ pH nói chung ít ảnh hưởng đến sự
tham gia của các hạt trung tính vào lớp mạ nên được giữ cố định trong quá trình nghiên cứu đầu tiên này.
Mật độ dòng điện có thể là một thông số được khảo sát rộng nhất. Ảnh hưởng của mật độ dòng điện đến
mật độ các hạt tham gia vào lớp mạ có thể khác nhau. Thứ nhất, mật độ dòng điện có ảnh hưởng rất ít
hoặc gần như không có ảnh hưởng đến số hạt bám vào lớp mạ. Thứ hai, sự phụ thuộc của mật độ dòng
điện và số lượng các hạt bám dính vào lớp mạ có thể theo quy luật có vài điểm cực trị [2].
Ảnh hưởng của nhiệt độ dường như khác nhau đối với các hệ mạ composite. Với hệ Ni-Al2O3, ảnh hưởng
của nhiệt độ tới phần trăm các hạt tham gia vào lớp mạ là không đáng kể. Tuy nhiên, khi mạ graphite,
thành phần graphite trong lớp mạ Cr tăng lên cùng nhiệt độ tới 50C [2].
Các nghiên cứu liên quan đến ảnh hưởng của độ pH cho các kết quả thống nhất, khi độ pH > 2 ảnh hưởng
của pH đến mật độ hạt cứng tham gia vào lớp mạ là không đáng kể, còn ở dưới giá trị này số hạt cứng tham
gia vào lớp mạ giảm đối với hệ Ni-Al2O3. Mới đây, người ta đã tìm thấy rằng hiệu suất của dòng điện đối với
phản ứng khử Ni giảm đáng kể khi độ pH < 2 khi sử dụng các hạt SiC làm hạt trung tính [4].
Tốc độ khuấy là thông số được đặc biệt quan tâm bởi vì đây là thông số có ảnh hưởng trực tiếp đến mức
độ tham gia của các hạt vào lớp mạ. Các hạt trung tính cần đến bề mặt của cathode để tham gia vào lớp
mạ composite nên phải được dịch chuyển từ nguồn hạt tới cathode. Khuấy thúc đẩy sự dịch chuyển các
hạt và tăng khuấy sẽ làm cho nhiều hạt cứng tham gia vào lớp mạ. Tuy nhiên, khuấy quá nhiều sẽ giảm
các hạt tham gia vào lớp mạ bởi vì các hạt này sẽ bị văng ra khỏi bề mặt cathode trước khi chúng được
giữ lại [3]. Đối với hệ Ni-TiO2 ở tốc độ khuấy cao thì điểm cực đại của thành phần các hạt bám vào lớp
mạ sẽ dịch chuyển về phía mật độ dòng điện cao [2,3].
5 trang |
Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 464 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mạ composite TiO2-Ni một giải pháp kỹ thuật nâng cao khả năng làm việc của lớp mạ ni, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguyễn Đăng Bình và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 72(10): 73 - 77
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 73
MẠ COMPOSITE TiO2-Ni MỘT GIẢI PHÁP KỸ THUẬT NÂNG CAO KHẢ NĂNG
LÀM VIỆC CỦA LỚP MẠ Ni
Nguyễn Đăng Bình1*, Phan Quang Thế1, Trương Đức Thiệp2
1Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp – Đại học Thái Nguyên
2Trường Cao đẳng nghề số 1 – Bộ NN & PTNT
TÓM TẮT
Mạ composite là một trong những biện pháp công nghệ bề mặt tiên tiến đang được ứng dụng rộng
rãi để tạo nên lớp bề mặt có tính chất vượt trội so với lớp mạ điện thông thường. Kết quả nghiên
cứu mạ composite TiO2 trên nền Ni chỉ ra rằng mật độ hạt TiO2 tham gia vào lớp mạ phụ thuộc
đáng kể vào tốc độ khuấy dung dịch và độ cứng tế vi của lớp mạ composite TiO2-Ni tăng khoảng
gần 1,4 lần so với lớp mạ Ni thông thường. Đây là cơ sở để triển khai những nghiên cứu tiếp theo
nhằm đưa mạ composite vào ứng dụng trong sản xuất công nghiệp của Việt Nam.
Keywword: Mạ composite, composite TiO2-Ni, mạ điện thông thường
MỞ ĐẦU*
Mạ điện là một phương pháp để tạo ra lớp mạ
composite. Các hạt trong tính không tan trong
dung dịch điện phân được giữ lơ lửng trong
dung dịch và tham gia vào quá trình hình
thành và phát triển của lớp mạ kim loại. Việc
đưa các hạt trung tính tham gia vào lớp mạ
composite làm thay đổi đáng kể độ cứng, độ
bền của lớp mạ cũng như làm thay đổi đặc
tính tương tác của lớp mạ với bề mặt đối tiếp
hoặc môi trường xung quanh [1].
Quá trình mạ composite ZrO2 hoặc TiO2 trên
nền Ni được thực hiện trong bể mạ điện Ni
thông thường. Dung dịch mạ được điều chế từ
hóa chất và nước cất. Các hạt trung tính được
khuấy theo sơ đồ nguyên lý trên Hình 1. Cỡ
*
Tel: 0913286661
các hạt trung tính thường dưới 20 µm cho đến
kích thước ở thang nano. Chiều dày lớp mạ có
thể đạt từ vài µm đến vài trăm µm [1].
Các thông số quá trình cơ bản ảnh hưởng đến
tính chất của lớp mạ composite trên nền kim
loại bao gồm mật độ dòng điện, bản chất của
dung dịch điện phân, nhiệt độ dung dịch, độ
pH, chất phụ gia, tính chất của hạt trung tính
và cỡ hạt, tốc độ khuấy v.v. [1, 2].
Nhóm nghiên cứu đã thiết kế, chế tạo thành
công hệ thống mạ composite trên nền Ni hoặc
Cr tại trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp.
Một số kết quả nghiên cứu bước đầu về mạ
composite TiO2 trên nền Ni được trình bày
trong bài báo này.
Hình 1. Sơ đồ nguyên lý mạ composite
(a) khuấy nhờ bơm tưới (b) khuấy cơ học
Nguyễn Đăng Bình và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 72(10): 73 - 77
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 74
THÍ NGHIỆM
Thiết bị thí nghiệm
Thiết bị mạ composite trên nền Ni do nhóm
nghiên cứu tự thiết kế và chế tạo bao gồm bể
chứa dung dịch điện phân dung tích 60 lít, hệ
thống gia nhiệt tự động đóng ngắt điện có thể
nâng và ổn định nhiệt độ của dung dịch tới
80C, hệ thống điều khiển tự động cung cấp
dòng một chiều xung hoặc liên tục cho bể mạ,
hệ thống khuấy cơ học có thể điều chỉnh vô
cấp tốc độ khuấy từ 10 v/p đến 350 v/p.
Hóa chất
Các hóa chất sử dụng cho quá trình mạ
composite Ni liệt kê trong bảng 1.
Sodium dodecyl sulfate được sử dụng là chất
phụ gia để tăng hoạt tính bề mặt của các hạt
trung tính. Hạt trung tính sử dụng trong thí
nghiệm là TiO2 với cỡ hạt 1 m. Các hạt có
kích thước tương đối đồng đều thể hiện trên
ảnh SEM (Hình 2).
Hình 2. Hạt trung tính TiO2 sử dụng trong thí nghiệm
Chế độ và quá trình chuẩn bị
Quá trình mạ được thực hiện với mật độ dòng
điện 3A/dm2; độ pH trong khoảng từ 4 4,5
(độ pH được điều chỉnh bằng cách cho thêm
NH3 hoặc axit HCl loãng); nhiệt độ 40C; tần
số xung 200 Hz; tỷ lệ xung thuận/ nghịch là
80%.
Trước khi mạ dung dịch huyền phù được
khuấy bằng máy khuấy siêu âm SW3H của
Thụy sỹ trong 30 phút, sau đó khuấy cơ học
trong bể mạ trong 6 giờ.
Mẫu mạ composite là thép 09CrSi, tôi đạt độ
cứng 58-60 HRC, dạng hình trụ kích thước d
= 26 mm, h = 10 mm được đánh bóng, sau đó
làm sạch, rửa trong bể hỗn hợp axít loãng ở
nhiệt độ môi trường trước khi mạ. Trong quá
trình mạ, dung dịch huyền phù được khuấy cơ
học trong dải tần số 140, 175, 210, 245 v/p
trong thời gian 1,5 giờ. Sau khi mạ, mẫu được
rửa trong nước chảy, sau đó được rửa siêu âm
trong nước cất khoảng 10 phút.
KẾT QUẢ THÍ NGHIỆM
Chiều dày lớp mạ t = 50m 70 m. Mẫu
được đánh bóng trên máy đánh bóng mẫu kim
loại học của Đài Loan bằng bột kim cương
sau đó thực trong dung dịch Nital 2% trong
thời gian 1 phút. Độ cứng lớp mạ được đo
trên máy đo độ cứng tế vi Future fm 700e
của Nhật, tải trọng 10 gram cho kết quả trên
Bảng 2.
Sự tham gia của các hạt trung tính TiO2 trong
lớp mạ Ni được khảo sát trên kính hiển vi
điện tử quét (scanning electron microscopy)
Jeol 5410 LV tại trường Đại học Khoa học Tự
nhiên Hà Nội. Kết quả quan sát trên kính hiển
vi điện tử cho thấy mật độ hạt trung tính TiO2
tham gia vào lớp mạ Ni giảm dần khi tăng tốc
độ khuấy từ 140 v/p đến 245 v/p. Tại tốc độ
khuấy 140 v/p mật độ hạt tham gia vào lớp mạ
đạt cực đại.
Từ hình 3 có thể thấy các hạt TiO2 tham gia
vào lớp mạ tương đối đồng đều khi khuấy với
vận tốc 175 v/p (Hình 3a). Mật độ hạt trở nên
dày đặc hơn khi giảm tốc độ khuấy xuống 140
v/p (Hình 3b). Tuy nhiên, nếu giảm vận tốc
khuấy xuống tới 105 v/p các hạt TiO2 bị kết
hợp lại với nhau tạo thành những mảng tương
đối lớn làm giảm cơ tính của lớp mạ. Phân
tích EDS (Hình 3c) cho thấy bề thành phần
hóa học của lớp mạ tương đối thuần nhất chủ
Nguyễn Đăng Bình và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 72(10): 73 - 77
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 75
yếu là Ni và TiO2, sự xuất hiện của Fe có thể do ảnh hưởng của vật liệu nền.
Bảng 1. Các loại hóa chất sử dụng cho quá trình mạ composite TiO2-Ni
Hóa chất
NiSO4.6H2O
(g/l)
NiCl2.6H2O
(g/l)
H3BO3
(g/l)
Sodium dodecyl
sulfate (g/l)
Hàm lượng 300 50 40 0,1
Hình 3. (a) Ảnh SEM thể hiện sự tham gia vào lớp mạ của các hạt TiO2 khi khuấy với tốc độ 175 v/p;
(b) Khuấy với tốc độ 140 v/p; (c) EDS phân tích bề mặt của (b) khẳng định sự tham gia của các hạt TiO2
trong lớp mạ Ni
Bảng 2. Độ cứng tế vi của bề mặt mẫu sau khi mạ composite
Lần đo Ni
TiO2-Ni
140 v/p
TiO2-Ni
175 v/p
TiO2-Ni
210 v/p
TiO2-Ni
245 v/p
1 154 240 250 225 160
2 184 235 230 240 213
3 170 222 250 230 200
Trung bình 170 232 243 230 191
(a) (b)
(c)
Nguyễn Đăng Bình và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 72(10): 73 - 77
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 76
Từ kết quả đo độ cứng tế vi có thể thấy rằng độ cứng của lớp mạ composite TiO2-Ni phụ thuộc vào mật
độ hạt TiO2 và mức độ phân bố đồng đều của các hạt này trong lớp mạ tức là phụ thuộc vào tốc độ khuấy.
Với tốc độ khuấy 245 v/p độ cứng tế vi của lớp mạ đạt thấp nhất (191 HV10). Độ cứng tế vi của lớp mạ
composite TiO2-Ni đạt cao nhất là 243 HV10 gấp 1,4 lần độ cứng lớp mạ Ni thông thường (170 HV10) tại
tốc độ khuấy 175 v/p.
PHÂN TÍCH KẾT QUẢ
Cơ tính của lớp mạ composite phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố trong quá trình mạ điện. Tuy nhiên, các
thông số về mật độ dòng điện, nhiệt độ dung dịch điện phân và độ pH nói chung ít ảnh hưởng đến sự
tham gia của các hạt trung tính vào lớp mạ nên được giữ cố định trong quá trình nghiên cứu đầu tiên này.
Mật độ dòng điện có thể là một thông số được khảo sát rộng nhất. Ảnh hưởng của mật độ dòng điện đến
mật độ các hạt tham gia vào lớp mạ có thể khác nhau. Thứ nhất, mật độ dòng điện có ảnh hưởng rất ít
hoặc gần như không có ảnh hưởng đến số hạt bám vào lớp mạ. Thứ hai, sự phụ thuộc của mật độ dòng
điện và số lượng các hạt bám dính vào lớp mạ có thể theo quy luật có vài điểm cực trị [2].
Ảnh hưởng của nhiệt độ dường như khác nhau đối với các hệ mạ composite. Với hệ Ni-Al2O3, ảnh hưởng
của nhiệt độ tới phần trăm các hạt tham gia vào lớp mạ là không đáng kể. Tuy nhiên, khi mạ graphite,
thành phần graphite trong lớp mạ Cr tăng lên cùng nhiệt độ tới 50C [2].
Các nghiên cứu liên quan đến ảnh hưởng của độ pH cho các kết quả thống nhất, khi độ pH > 2 ảnh hưởng
của pH đến mật độ hạt cứng tham gia vào lớp mạ là không đáng kể, còn ở dưới giá trị này số hạt cứng tham
gia vào lớp mạ giảm đối với hệ Ni-Al2O3. Mới đây, người ta đã tìm thấy rằng hiệu suất của dòng điện đối với
phản ứng khử Ni giảm đáng kể khi độ pH < 2 khi sử dụng các hạt SiC làm hạt trung tính [4].
Tốc độ khuấy là thông số được đặc biệt quan tâm bởi vì đây là thông số có ảnh hưởng trực tiếp đến mức
độ tham gia của các hạt vào lớp mạ. Các hạt trung tính cần đến bề mặt của cathode để tham gia vào lớp
mạ composite nên phải được dịch chuyển từ nguồn hạt tới cathode. Khuấy thúc đẩy sự dịch chuyển các
hạt và tăng khuấy sẽ làm cho nhiều hạt cứng tham gia vào lớp mạ. Tuy nhiên, khuấy quá nhiều sẽ giảm
các hạt tham gia vào lớp mạ bởi vì các hạt này sẽ bị văng ra khỏi bề mặt cathode trước khi chúng được
giữ lại [3]. Đối với hệ Ni-TiO2 ở tốc độ khuấy cao thì điểm cực đại của thành phần các hạt bám vào lớp
mạ sẽ dịch chuyển về phía mật độ dòng điện cao [2,3].
Khi khuấy với tốc độ cao, các hạt TiO2 phân tán vào lớp mạ đồng đều hơn nhưng mật độ thấp là nguyên
nhân làm giảm độ cứng tế vi của lớp mạ. Ngược lại, khi giảm tốc độ khuấy các hạt TiO2 quá một giới hạn
nào đó các hạt kết lại với nhau tạo thành những mảng tương đối lớn làm giảm độ cứng và cơ tính của lớp
mạ. Điều này giải thích cho thực tế số lượng hạt tham gia vào lớp mạ lớn nhất ở tốc độ khuấy 140 v/p,
lượng hạt tham gia vào lớp mạ giảm dần khi tăng tốc độ khuấy và đạt giá trị thấp nhất tại tốc độ khuấy
cao nhất trong nghiên cứu (245 v/p).
Độ cứng tế vi của lớp mạ hiển nhiên phụ thuộc vào mật độ hạt tham gia và mức độ phân bố đều trong lớp
mạ. Ở tốc độ khuấy thấp mức độ các hạt tham gia vào lớp mạ nhiều hơn so với ở tốc độ khuấy cao. Tuy
nhiên, ở tốc độ khuấy 140 v/p độ cứng tế vi của lớp mạ chỉ đạt 232 HV10 so với 243 ở tốc độ khuấy 175 v/p
điều này được giải thích là do hiện tượng vón cục của các hạt TiO2 ở tốc độ khuấy thấp làm giảm độ cứng tế
vi của lớp mạ [2].
Từ các phân tích trên có thể thấy tốc độ khuấy 175 v/p vừa cho mật độ các hạt trung tính trong lớp mạ cao
vừa cho độ cứng tế vi của lớp mạ cao nhất. Đây là tốc độ khuấy nên lựa chọn khi nghiên cứu ảnh hưởng của
các thông số quá trình khác trong các nghiên cứu tiếp theo.
KẾT LUẬN
Hệ thống mạ do trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp tự thiết kế và chế tạo cho phép thực hiện thành
công mạ composite TiO2 trên nền Ni. Kết quả nghiên cứu ban đầu cho thấy mật độ các hạt tham gia vào
lớp mạ giảm đáng kể khi tăng tốc độ khuấy từ 140 v/p đến 175 v/p. Độ cứng tế vi của lớp mạ cao gấp 1,4
lần so với độ cứng tế vi của lớp mạ Ni thông thường tại tốc độ khuấy 175 v/p. Đây là những kết quả đầy
hứa hẹn cho việc ứng dụng rộng rãi mạ composite vào thực tiễn sản xuất công nghiệp ở Việt Nam.
Nguyễn Đăng Bình và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 72(10): 73 - 77
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 77
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Benea. L, Varsanyi. M. L, Maurin. G., “The Electrolytic Co-deposition of Zerconium Oxide Particles with
Nikel”, the Annal of University of Galaty, (2003).
[2]. Hovestad. A, Janssen. L.J.J., “Electrochemical Co-deposition of Inert Particles in a Metallic Matrix”, Journal
of Applied Electrochemistry, Vol. 25, pp. 519-527, (1995).
[3]. Shi. L, Sun. C, Gao. P., “Mechanical Properties and Wear and Corrosion Resistance of Electrodeposited Ni-
Co/SiC Nanocomposite Coatings”, Applied Surface Science, Vol. 252, pp.3591-3599, (2006).
[4]. Indira Rajagopal., “Composite Coatings”, Surface Modification Technologies” Marcel Dekker, Inc, New York,
1989.
SUMMARY
COMPOSITE TiO2-Ni COATING, A TECHNICAL SOLUTION TO INCREASE THE
WORKING CAPACITY OF Ni COATING LAYER
Nguyen Dang Binh
1
, Phan Quang The
1
, Truong Duc Thiep
2
1College of Technology – Thai Nguyen University
2College of Agriculture Mechanics – Ministry of Agriculture and Rural Development
Composite coating is an advanced technology that is being widely applied to produce surface electroplating
coatings with properties much better than that of the normal electroplating layer. The studying result of the
TiO2-Ni composite coatings showed that the density of TiO2 particles in Ni matrix depends considerably on
the rotating velocity and the micro-hardness of the coating layer is 1,4 times higher than that of the Ni
normal electroplating layer. This is a fundamental to develop further study to put composite coatings
technology into practice of the industrial manufacturing of Vietnam.
Keywords: Composite coating , composite TiO2-Ni, electroplating coatings
Tel: 0913286661
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- brief_32712_36553_20820121516207377_1021_2052721.pdf