Mạ composite Ni-Al2O3 giải pháp kỹ thuật nâng cao khả năng chống mõn của lớp mạ Ni
Cơ tính của lớp mạ composite phụ thuộc vào
rất nhiều yếu tố trong quá trình mạ điện. Tuy
nhiên, các thông số về mật độ dòng điện,
nhiệt độ dung dịch điện phân và độ pH nói
chung ít ảnh hƣởng đến sự tham gia của các
hạt trung tính vào lớp mạ nên đƣợc giữ cố
định trong nghiên cứu này.
Mật độ dòng điện có thể là một thông số đƣợc
khảo sát rộng nhất. Ảnh hƣởng của mật độ
dòng điện đến mật độ các hạt tham gia vào
lớp mạ có thể khác nhau. Mật độ dòng điện có
ảnh hƣởng rất ít hoặc gần nhƣ không có ảnh
hƣởng đến số hạt bám vào lớp mạ [2]. Trong
nghiên cứu này, mật độ khi tăng mật độ dòng
điện từ 5 A/dm2 tới 9 A/dm2 bề mặt của lớp
mạ bị rạn nứt và phá hủy nghiêm trọng do
hiệu ứng mũi nhọn trong quá trình mạ. Ảnh
hƣởng của nhiệt độ dƣờng nhƣ khác nhau đối
với các hệ mạ composite. Với hệ Ni-Al2O3,
ảnh hƣởng của nhiệt độ tới phần trăm các hạt
tham gia vào lớp mạ là không đáng kể [2].
Nhiệt độ dung dịch trong thí nghiệm đƣợc giữ
tƣơng đối ổn định tại 40C. Các nghiên cứu
liên quan đến ảnh hƣởng của độ pH cho các
kết quả thống nhất, khi độ pH > 2 ảnh hƣởng
của pH đến mật độ hạt cứng tham gia vào lớp
mạ là không đáng kể, còn ở dƣới giá trị này
số hạt cứng tham gia vào lớp mạ giảm đối với
hệ Ni-Al2O3 [4].
5 trang |
Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 656 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mạ composite Ni-Al2O3 giải pháp kỹ thuật nâng cao khả năng chống mõn của lớp mạ Ni, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguyễn Đăng Bình và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 78(02): 12 - 16
12
MẠ COMPOSITE Ni-Al2O3 GIẢI PHÁP KỸ THUẬT
NÂNG CAO KHẢ NĂNG CHỐNG MÕN CỦA LỚP MẠ Ni
Nguyễn Đăng Bình, Phan Quang Thế*, Trần Minh Đức
Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Mạ composite Al2O3 trên nền Ni là một giải pháp công nghệ bề mặt để nâng cao khả năng chịu
mài mòn của lớp mạ Ni khi làm việc trong môi trƣờng mòn và ăn mòn cao. Kết quả nghiên cứu mạ
composite Al2O3 trên nền Ni chỉ ra rằng mật độ hạt Al2O3 tham gia vào lớp mạ phụ thuộc đáng kể
vào phƣơng pháp khuấy và tốc độ khuấy dung dịch huyền phù. Độ cứng tế vi của lớp mạ
composite tăng khoảng 1,8 lần so với lớp mạ Ni thông thƣờng. Mật độ dòng điện trong quá trình
mạ là một thông số quan trọng ảnh hƣởng đáng kể đến chất lƣợng của lớp mạ.
Từ khóa: Mạ composite; Ni-Al2O3; Ứng dụng mạ composite; Vận tốc khuấy; Độ cứng tế vi
MỞ ĐẦU
Mạ điện là một phƣơng pháp để tạo ra lớp mạ
composite. Các hạt trung tính không tan trong
dung dịch điện phân đƣợc giữ lơ lửng trong
dung dịch và tham gia vào quá trình hình
thành và phát triển lớp mạ kim loại. Việc đƣa
các hạt trung tính tham gia vào lớp mạ
composite làm thay đổi đáng kể độ cứng, độ
bền của lớp mạ cũng nhƣ làm thay đổi đặc
tính tƣơng tác của lớp mạ với bề mặt đối tiếp
hoặc môi trƣờng xung quanh [1].
Quá trình mạ composite, cụ thể là mạ
composite Al2O3 trên nền Ni đƣợc thực hiện
trong bể mạ điện Ni thông thƣờng. Dung dịch
mạ đƣợc điều chế từ các hóa chất trong bảng
1 trong dung môi nƣớc cất. Các hạt trung tính
đƣợc giữ lơ lửng trong dung dịch nhờ thiết bị
khuấy theo sơ đồ nguyên lý trên Hình 1. Cỡ
hạt trung tính thƣờng dƣới 20 µm cho đến
kích thƣớc thang nano. Chiều dày lớp mạ có
thể đạt từ vài µm đến vài trăm µm [1].
Nhóm nghiên cứu đã thiết kế, chế tạo thành
công hệ thống mạ composite trên nền Ni tại
trƣờng Đại học Kỹ thuật Công nghiệp – Đại
học Thái Nguyên. Các kết quả nghiên cứu về
quá trình mạ composite Al2O3 trên nền Ni và
tính chất cơ lý của lớp mạ đƣợc trình bày
trong bài báo này.
Hình 1. Sơ đồ nguyên lý mạ composite (a) khuấy nhờ bơm tƣới (b) khuấy cơ học
Tel: 0912064824; Email: phanqthe@tnut.edu.vn
Nguyễn Đăng Bình và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 78(02): 12 - 16
13
THÍ NGHIỆM
Thiết bị thí nghiệm
Thiết bị mạ composite trên nền Ni do nhóm
nghiên cứu tự thiết kế và chế tạo bao gồm bể
chứa dung dịch điện phân dung tích 60 lít, hệ
thống gia nhiệt tự động đóng ngắt điện có thể
nâng và ổn định nhiệt độ của dung dịch tới
80C, hệ thống điều khiển tự động cung cấp
dòng một chiều xung hoặc liên tục cho bể mạ,
hệ thống khuấy cơ học có thể điều chỉnh vô
cấp tốc độ khuấy từ 10 v/p đến 350 v/p.
Hóa chất
Các hóa chất sử dụng cho quá trình mạ
composite Ni liệt kê trong bảng 1.
Sodium dodecyl sulfate đƣợc sử dụng là chất
phụ gia để tăng hoạt tính bề mặt của các hạt
trung tính. Hạt trung tính sử dụng trong thí
nghiệm là Al2O3 với cỡ hạt 1 m và hàm
lƣợng Al2O3 là 50g/l. Các hạt có kích thƣớc
không đồng đều do tự vón kết với nhau thành
hạt lớn thể hiện trên ảnh SEM (Hình 2). Các
đỉnh Au trên phân tích EDX là kết quả của mạ
màng Au trên mẫu hạt Al2O3.
Chế độ và quá trình chuẩn bị
Quá trình mạ đƣợc thực hiện với mật độ dòng
điện 5A/dm2. Độ pH của dung dịch trong
khoảng từ 4 4,5 (độ pH đƣợc điều chỉnh
bằng cách cho thêm NH3 hoặc axit HCl
loãng); nhiệt độ giữ ổn định ở 40C 2C;
tần số xung sử dụng trong thí nghiệm là 200
Hz; tỷ lệ xung thuận/ nghịch là 80%.
Trƣớc khi mạ dung dịch huyền phù đƣợc
khuấy bằng máy khuấy siêu âm SW3H của
Thụy sỹ trong 30 phút, sau đó khuấy cơ học
trong bể mạ trong 6 giờ.
Mẫu mạ composite là thép 09CrSi, tôi đạt độ
cứng HRC = 58-60, dạng hình trụ kích thƣớc
d = 26 mm, h = 10 mm đƣợc đánh bóng, sau
đó làm sạch, rửa trong bể hỗn hợp axít loãng
ở nhiệt độ môi trƣờng trƣớc khi mạ. Trong
quá trình mạ, dung dịch huyền phù đƣợc
khuấy cơ học trong dải tốc độ 140, 175, 210,
245 v/p trong thời gian 1,5 giờ. Sau khi mạ,
mẫu đƣợc rửa trong nƣớc chảy, sau đó đƣợc
rửa siêu âm trong nƣớc cất khoảng 10 phút.
Bảng 1. Các loại hóa chất sử dụng cho quá trình mạ composite Ni-Al2O3
Hóa chất
NiSO4.6H2O
(g/l)
NiCl2.6H2O
(g/l)
H3BO3
(g/l)
Sodium dodecyl
sulfate (g/l)
Hàm lƣợng 300 50 40 0,1
Hình 2. Ảnh SEM hạt trung tính Al2O3 sử dụng trong thí nghiệm và thành phần hóa học
qua phân tích EDX
Nguyễn Đăng Bình và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 78(02): 12 - 16
14
KẾT QUẢ THÍ NGHIỆM
Chiều dày lớp mạ trên chi tiết đo trên kính
hiển vi quang học đạt đƣợc từ 50m 70 m.
Mẫu đƣợc mài trên giấy nháp cỡ 800, 1000,
1200 sau đó đánh bóng trên máy đánh bóng
kim loại học của Đài Loan bằng bột kim
cƣơng 1 m sau đó tẩm thực trong dung dịch
Nital 2% trong thời gian 1 phút. Độ cứng tế vi
của lớp mạ đƣợc đo trên máy đo độ cứng tế vi
Future fm 700e của Nhật, tải trọng 10 gram
cho kết quả trên bảng 2.
Từ kết quả đo độ cứng tế vi có thể thấy rằng
độ cứng của lớp mạ composite Ni-Al2O3 phụ
thuộc vào mật độ hạt Al2O3 và mức độ phân
bố đồng đều của các hạt này trong lớp mạ tức
là phụ thuộc vào tốc độ khuấy. Với tốc độ
khuấy 140 v/p độ cứng tế vi của lớp mạ đạt
thấp nhất (HV10=218). Độ cứng tế vi của lớp
mạ composite Ni-Al2O3 tăng đến 273 HV10 ở
tốc độ khuấy 175 v/p và 210 v/p sau đó tăng
đến HV10=303khi tăng tốc độ khuấy đến 245
v/p gấp 1,78 lần độ cứng lớp mạ Ni thông
thƣờng (HV10=170) tại tốc độ khuấy 175 v/p.
Sự tham gia của các hạt trung tính Al2O3 vào
lớp mạ Ni đƣợc xác định trên kính hiển vi
điện tử quét (scanning electron microscopy)
Jeol 5410 LV tại trƣờng Đại học Khoa học Tự
nhiên Hà Nội.
Có thể thấy rằng mật độ các hạt trung tính
Al2O3 tham gia vào lớp mạ Ni trở nên đồng
đều hơn khi tăng tốc độ khuấy từ 140 v/p đến
245 v/p (hình 3). Hiện tƣợng vón cục thƣờng
xảy ra rõ nét ở tốc độ khuấy thấp. Đây là hiện
tƣợng các hạt Al2O3 liên kết lại với nhau và
tạo thành những mảng cục bộ trong lớp mạ
(Hình 3a). Tại những nơi xảy ra vón cục của
các hạt trung tính độ cứng tế vi giảm rõ rệt.
Kết quả phân tích EDX bề mặt của các lớp mạ
sau khi đƣợc mài, đánh bóng và tẩm thực
khẳng định Al2O3 tham gia vào lớp mạ Ni chỉ
ra trên Hình 4. Thành phần hóa học bề mặt chủ
yếu là Ni, Al2O3 và một hàm lƣợng nhỏ Fe.
PHÂN TÍCH KẾT QUẢ
Cơ tính của lớp mạ composite phụ thuộc vào
rất nhiều yếu tố trong quá trình mạ điện. Tuy
nhiên, các thông số về mật độ dòng điện,
nhiệt độ dung dịch điện phân và độ pH nói
chung ít ảnh hƣởng đến sự tham gia của các
hạt trung tính vào lớp mạ nên đƣợc giữ cố
định trong nghiên cứu này.
Mật độ dòng điện có thể là một thông số đƣợc
khảo sát rộng nhất. Ảnh hƣởng của mật độ
dòng điện đến mật độ các hạt tham gia vào
lớp mạ có thể khác nhau. Mật độ dòng điện có
ảnh hƣởng rất ít hoặc gần nhƣ không có ảnh
hƣởng đến số hạt bám vào lớp mạ [2]. Trong
nghiên cứu này, mật độ khi tăng mật độ dòng
điện từ 5 A/dm2 tới 9 A/dm2 bề mặt của lớp
mạ bị rạn nứt và phá hủy nghiêm trọng do
hiệu ứng mũi nhọn trong quá trình mạ. Ảnh
hƣởng của nhiệt độ dƣờng nhƣ khác nhau đối
với các hệ mạ composite. Với hệ Ni-Al2O3,
ảnh hƣởng của nhiệt độ tới phần trăm các hạt
tham gia vào lớp mạ là không đáng kể [2].
Nhiệt độ dung dịch trong thí nghiệm đƣợc giữ
tƣơng đối ổn định tại 40C. Các nghiên cứu
liên quan đến ảnh hƣởng của độ pH cho các
kết quả thống nhất, khi độ pH > 2 ảnh hƣởng
của pH đến mật độ hạt cứng tham gia vào lớp
mạ là không đáng kể, còn ở dƣới giá trị này
số hạt cứng tham gia vào lớp mạ giảm đối với
hệ Ni-Al2O3 [4].
Tốc độ khuấy là thông số đƣợc đặc biệt quan
tâm bởi vì đây là thông số có ảnh hƣởng trực
tiếp đến mức độ tham gia của các hạt vào lớp
mạ. Các hạt trung tính cần đến bề mặt của
cathode để tham gia vào lớp mạ composite
nên phải đƣợc dịch chuyển từ nguồn hạt tới
cathode. Khuấy thúc đẩy sự dịch chuyển các
hạt và tăng khuấy sẽ làm cho nhiều hạt cứng
tham gia vào lớp mạ. Tuy nhiên, tốc độ khuấy
quá cao sẽ giảm các hạt tham gia vào lớp mạ
bởi vì các hạt này sẽ bị văng ra khỏi bề mặt
cathode trƣớc khi chúng đƣợc giữ lại [2, 3].
Bảng 2. Độ cứng tế vi của lớp mạ phụ thuộc tốc độ khuấy.
Lần đo Ni
Ni-Al2O3
140 v/p
Ni-Al2O3
175 v/p
Ni-Al2O3
210 v/p
Ni-Al2O3
245 v/p
1 154 225 280 280 300
2 184 230 260 270 300
3 170 200 290 270 310
Trung bình 170 218 273 273 303
Nguyễn Đăng Bình và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 78(02): 12 - 16
15
Hình 3. Ảnh SEM thể hiện mức độ tham gia của các hạt Al2O3 vào lớp mạ khi khuấy với tốc độ (a) 140
v/p; (b) 175 v/p; (c) 210 v/p; (d) 245 v/p
Hình 4. EDS phân tích bề mặt lớp mạ trên hình (b) và (d) cho thấy Ni, Al2O3 và Fe.
Đối với hệ Ni-TiO2 ở tốc độ khuấy cao thì
điểm cực đại của thành phần các hạt bám vào
lớp mạ sẽ dịch chuyển về phía mật độ dòng
điện cao [2,3].
Khi thay đổi tốc độ khuấy từ 140 v/p đến 245
v/p mật độ các hạt Al2O3 tham gia vào lớp mạ
tăng lên rõ rệt, hiện tƣợng vón cục giảm đi
đáng kể. Từ Hình 3a và 3b có thể thấy rõ hiện
tƣợng vón cục xảy ra phổ biến ở tốc độ khuấy
140 v/p và 175 v/p. Khi tăng tốc độ khuấy
đến 175 v/p và 245 v/p hiện tƣợng này vẫn
còn nhƣng mức độ giảm đi đáng kể (Hình 3c
và 3d). Khuấy với tốc độ cao là nguyên nhân
làm các hạt Al2O3 hạn chế hình thành các
mảng lớn trong dung dịch huyền phù.
(a) (b)
(c) (d)
Nguyễn Đăng Bình và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 78(02): 12 - 16
16
Kết quả phân tích EDX trên Hình 4 cho thấy
sự tham gia của các hạt Al2O3 vào trong lớp
mạ Ni rất rõ nét. Tuy nhiên, trên đồ thị phân
tích cũng xuất hiện nguyên tố Fe nhƣ một tạp
chất bám vào lớp mạ. Đây là vấn đề cần khắc
phục trong quá trình mạ composite Ni-Al2O3,
đó là phải loại triệt để các ion Fe ra khỏi dung
dịch điện phân.
Độ cứng tế vi của lớp mạ hiển nhiên phụ
thuộc vào mật độ hạt Al2O3 tham gia và mức
độ phân bố đồng đều của hạt trong lớp mạ. Ở
tốc độ khuấy thấp mức độ các hạt tham gia và
phân bố đồng đều vào lớp mạ hạn chế hơn so
với khuấy ở tốc độ cao. Tuy nhiên, ở tốc độ
khuấy 140 v/p độ cứng tế vi của lớp mạ chỉ
đạt HV10=218 so với HV10=273ở tốc độ
khuấy 175 v/p và 210 v/p và HV10=303 tại
tốc độ khuấy 245 v/p điều này đƣợc giải thích
là do hiện tƣợng vón cục của các hạt Al2O3 ở
tốc độ khuấy thấp làm giảm độ cứng tế vi của
lớp mạ [2].
Từ các phân tích trên có thể thấy tốc độ khuấy
245 v/p vừa cho mật độ các hạt trung tính
trong lớp mạ cao vừa cho độ cứng tế vi của
lớp mạ cao nhất. Đây là tốc độ khuấy nên lựa
chọn để tạo thành lớp mạ composite Ni-Al2O3
có khả năng chịu ăn mòn và mòn đồng thời.
KẾT LUẬN
Hệ thống mạ do trƣờng Đại học Kỹ thuật
Công nghiệp tự thiết kế và chế tạo cho phép
thực hiện thành công mạ composite Al2O3
trên nền Ni. Kết quả nghiên cứu ban đầu cho
thấy mật độ các hạt tham gia vào lớp mạ tăng
đáng kể và trở nên đồng đều hơn khi tăng tốc
độ khuấy từ 140 v/p đến 245 v/p. Độ cứng tế
vi của lớp mạ cao gấp 1,8 lần so với độ cứng
tế vi của lớp mạ Ni thông thƣờng tại tốc độ
khuấy 235 v/p. Khi tăng vận tốc khuấy hiện
tƣợng vón cục giảm đáng kể là nguyên nhân
chính làm tăng độ cứng tế vi của lớp mạ. Mật
độ dòng điện sử dụng không nên lớn hơn 5
A/dm
2
để giữ cho lớp mạ không bị rạn nứt.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Benea. L, Varsanyi. M. L, Maurin. G.,
“The Electrolytic Co-deposition of Zerconium
Oxide Particles with Nikel”, the Annal of
University of Galaty, (2003).
2. Hovestad. A, Janssen. L.J.J.,
“Electrochemical Co-deposition of Inert
Particles in a Metallic Matrix”, Journal of
Applied Electrochemistry, Vol. 25, pp. 519-
527, (1995).
3. Shi. L, Sun. C, Gao. P., “Mechanical
Properties and Wear and Corrosion
Resistance of Electrodeposited Ni-Co/SiC
Nanocomposite Coatings”, Applied Surface
Science, Vol. 252, pp.3591-3599, (2006).
4. Indira Rajagopal., “Composite Coatings”,
Surface Modification Technologies” Marcel
Dekker, Inc, New York, 1989.
ABSTRACT
Ni-Al2O3 COMPOSITE COATINGS IS A TECHNICAL SOLUTION
TO ENHANCE THE WEAR RESISTANCE OF THE Ni COATING
Nguyen Dang Binh, Phan Quang The
, Tran Minh Đuc
Thai Nguyen University of Technology - TNU
Al2O3 composite coatings is a surface advanced technology to enhance the wear resistance of Ni
plating coatings in the environment of high wear and corrosion. The studying result of the Ni-
Al2O3 composite coatings was evident that the density of Al2O3 particles in Ni matrix depends
considerably on the mixing method and the mixing velocity for the electrolyzing solution. The
micro-hardness of the coating layer is approximately 1,8 times higher than that of the Ni normal
electroplating layer. The current density is an important parameter effecting on the quality of the
coating layer.
Keyword: Composite Coating; Ni-Al2O3; Composite Application; Mixing velocity; Micro-
hardness
Tel: 0912064824; Email: phanqthe@tnut.edu.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- brief_33403_37224_49201215110tap78so02_nam2011_split_3_5614_2052293.pdf