Năm Mậu Thân chúng ta đã giết quân thù ở giữa Hà Nội làm chúng kinh
hồn hoảng vía
Năm Kỷ Dậu, cuộc khởi nghĩa Lạng Sơn khiến lòng phẫn uất của người
mình được hả hơi ít nhiều
Ngoài ra phong trào Đông Kinh nghĩa thục đã kích thích tinh thần ái
quốc một độ rất sôi nổi: tỉnh Quảng Nam nổi lên phản kháng sưu thuế, một
người học sinh mạo hiểm ném bom giữa thành phố Hà Nội, trong Nam Kỳ,
Xích Long kéo cờ khởi nghĩa chống cự kẻ thù. Tóm lại chúng ta vì văn minh
và chủ quyền của Tổ quốc ra sức phấn đấu hơn mười năm nay tinh thần ái
quốc ngày càng mạnh. Những việc làm nỗ lực cứu quốc của ta đã khiến quân
thù khiếp đảm, đồng thời lại gọi được hồn độc lập của quốc dân tỉnh ngộ phấn
phát.
Hiện thời cả Âu châu đang rối ren lục đục, tàn sát lẫn nhau, Pháp tặc
nguy khốn ở ngay trong đất nước chúng. Anh với Nga đã cùng Đức giảng hòa
riêng, thế là Pháp cô lập, mất hai tay tả phù hữu bật trọng yếu.Thổ với Áo đã
chẹn ngang quân Ý để tiến binh và đất Pháp, đánh giữa chỗ chí mạng, thành
Ba – lê không thể giữ nổi, sắp mất đến nơi.
Bản thân Pháp tặc đã bị nguy ngập đến thế , làm sao còn khoe khoang
bảo hộ chúng ta được không biết ?
Vậy ta nên nhân lúc Pháp tặc yếu thế, thừa lấy cơ hội hiếm hoi, thiên tải
nhất thì này mà báo thù tuyết hậu, khôi phục giang san
131 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2481 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp ở tỉnh Thái Nguyên trong thời kỳ 1884 - 1918, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ài những ngƣời trực tiếp tham gia vào
khởi nghĩa, nghĩa quân còn nhận đƣợc sự giúp đỡ của đồng bào trên đƣờng di
chuyển, họ giúp nghĩa quân lƣơng thực, nƣớc uống, dẫn đƣờng, che dấu nghĩa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
91
quân… Ví dụ: Nhiều làng chờ nghĩa quân đi qua là làm cơm cho ăn, sau khi
nghĩa quân đi xa họ mới báo giặc Pháp để tránh sự khủng bố của chúng. Một
ví dụ khác, khi tốp quân của Đội Giá rút khỏi Thái Nguyên theo đại quân của
Đội Cấn đã đƣợc một cụ già 70 tuổi dẫn đƣờng. Sau khi gặp đại quân, nghĩa
quân đem tiền hậu tạ cụ già nhất định từ chối, đến tên tuổi, quê quán cũng
không cho biết.
Thành phần tham gia nghĩa quân gồm có nông dân, viên chức nhỏ đặc
biệt là sự tham gia của công nhân mỏ than Phấn Mễ và mỏ than Làng Hích.
Qua đây có thể thấy rằng, giai cấp công nhân Việt Nam trong thời điểm chiến
tranh đã có những thay đổi lớn, đã phát triển cả về số lƣợng và chất lƣợng.
Bên cạnh sự kiện giai cấp công nhân tham gia vào khởi nghĩa Thái Nguyên,
năm 1917 còn nổ ra một loạt phong trào của công nhân nhƣ cuộc bãi công của
công nhân mỏ Vôn-fram ở Cao Bằng, hay cuộc bãi công của công nhân ngƣời
Việt ở Cao Miên đòi đƣợc trở về nguyên quán (10-1917). Nhƣ vậy, ngay
trong chiến tranh thế giới thứ nhất, giai cấp công nhân vẫn không ngừng phản
kháng, không ngừng đấu tranh, đó là cơ sở để giai cấp công nhân Việt Nam
phát triển ngày càng mạnh mẽ và đã trở thành lực lƣợng lãnh đạo phong trào
giải phóng dân tộc sau này.
Với sự tham gia của công nhân Thái Nguyên trong khởi nghĩa Thái
Nguyên đã chứng tỏ " giai cấp công nhân Việt Nam đang tiến mạnh trên con
đường đấu tranh "tự giác " [68, tr.258]. Mặc dù đã có sự tham gia của nhân
dân nhƣng khởi nghĩa Thái Nguyên chƣa phải là phong trào cách mạng của
quảng đại quần chúng nhân dân, Ban chỉ huy khởi nghĩa chƣa thể gắn liền
cuộc vận động khởi nghĩa của binh lính với cuộc vận động của nhân dân,
chƣa huy động đƣợc đông đảo quần chúng tham gia.
3.2.5. Nguyên nhân thất bại, ý nghĩa lịch sử
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
92
3.2.5.1. Nguyên nhân thất bại
Cuộc khởi nghĩa của binh lính và nhân dân Thái Nguyên năm 1917 cũng
nhƣ tất cả các cuộc đấu tranh vũ trang trong phong trào giải phóng dân tộc
Việt Nam trƣớc khi có Đảng cộng sản lãnh đạo, rốt cuộc đều bị kẻ thù dìm
trong biển máu. Sự thất bại của các cuộc đấu tranh vũ trang đó, có thể nói là
khó tránh khỏi, xuất phát từ những nguyên nhân chung nhất, từ trong điều
kiện, hoàn cảnh của xã hội Việt Nam đƣơng thời.
Khởi nghĩa Thái Nguyên thất bại là do chưa có thời cơ thuận lợi
Những ngƣời lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên đã lợi dụng đƣợc
một tình thế khách quan thuận lợi: Chiến tranh thế giới đang diễn ra quyết
liệt, Pháp là nƣớc tham chiến. Chính sách vơ vét sức ngƣời, sức của ở Đông
Dƣơng phục vụ chiến tranh đã gây nên nỗi bất bình trong mọi tầng lớp nhân
dân. Chính Lênin đã phân tích một cách sâu sắc tình hình chuyển biến mau lẹ
khi Chiến tranh thế giới nổ ra và kêu gọi hãy biến Chiến tranh thế giới thành
nội chiến cách mạng. Lịch sử đã chứng minh luận điểm đúng đắn của Lênin.
Nhƣng, cần phải nói ngay rằng xã hội Việt Nam vào thời điểm đó không
giống xã hội Nga, nơi đang diễn ra cuộc chiến tranh tranh giành nhau quyết
liệt giữa các cƣờng quốc đế quốc chủ nghĩa. So với nƣớc Nga, xã hội Việt
Nam trong những năm 1914-1918 hầu nhƣ chƣa có một sự chuẩn bị nào cho
một cuộc khởi nghĩa giành chính quyền, điều kiện khách quan dù có thuận lợi
đến đâu cũng không thể vƣợt qua đƣợc nếu điều kiện chủ quan chƣa cho
phép.
Bản Tuyên bố Thái Nguyên độc lập khẳng định: "Thời cơ đã đến…" Tuy
nhiên, nhìn lại lịch sử, chúng ta nhận thấy Bộ tham mƣu cuộc khởi nghĩa chỉ
mới phân tích thời cơ ở một vài khía cạnh, do "Kiếp sống của nhân dân điêu
đứng đến nông nỗi này không tài nào cam chịu được nữa", chứ chƣa nhìn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
93
thấy toàn bộ tình hình, xã hội Việt Nam lúc đó chƣa xuất hiện tình thế cách
mạng trực tiếp. Theo Lênin, cuộc bạo động đem lại thắng lợi chỉ khi nào phe
thống trị đã bị hoang mang, chia rẽ và khủng hoảng từ kinh tế đến chính trị,
dân chúng đã sôi sục, vùng dậy đấu tranh, đội tiên phong cách mạng đã chuẩn
bị sẵn sàng. Lúc bấy giờ ở Đông Dƣơng chƣa diễn ra tình thế ấy. Ở Việt Nam,
tình hình xã hội Việt Nam vào những thập niên đầu thế kỷ XX nói chung
cũng nhƣ trong thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ nhất chƣa có điều kiện đầy đủ
cho một cuộc khởi nghĩa vũ trang dẫn đến thắng lợi. Sau thất bại của phong
trào đấu tranh vũ trang cuối thế kỷ XIX, cuộc vận động giải phóng dân tộc
theo xu hƣớng mới đầu thế kỷ XX rốt cuộc cũng đi vào bế tắc. Đó là sự bế tắc
của một đƣờng lối cứu nƣớc đúng đắn. Lúc này, cả trong nội tại xã hội Việt
Nam cũng nhƣ những tƣ tƣởng giải phóng dân tộc đúng đắn đều đang biến
chuyển nhƣng chƣa chín muồi. Giai cấp tƣ sản dân tộc Việt Nam mặc dầu đã
ra đời nhƣng quá non yếu không đủ sức trở thành lực lƣợng đại diện cho dân
tộc. Giai cấp công nhân Việt Nam, mặc dầu đang phát triển nhanh chóng
nhƣng cũng chƣa đủ mạnh để giƣơng cao ngọn cờ quy tụ tất cả các lực lƣợng
dân tộc và chƣa ý thức đƣợc sứ mệnh lịch sử của mình. Chỉ có sau khi Lãnh
tụ Nguyễn Ái Quốc tiếp thu tƣ tƣởng Lênin và truyền bá vào trong nƣớc, giai
cấp công nhân mới có đầy đủ những điều kiện để trở thành lực lƣợng lãnh
đạo cách mạng giải phóng dân tộc. Và nhƣ vậy, lực lƣợng khởi nghĩa của binh
lính và nhân dân Thái Nguyên hầu nhƣ bị cô độc không thể đƣơng đầu với
sức đàn áp của kẻ thù đang mạnh hơn mình gấp nhiều lần.
Tổ chức Việt Nam Quang phục hội đƣợc coi là tổ chức tiến bộ của cách
mạng Việt Nam trong chiến tranh thế giới thứ nhất. Lợi dụng tình hình chiến
tranh thế giới thứ nhất và những mâu thuẫn của xã hội Việt Nam do hậu quả
của chính sách thống trị của thực dân Pháp, Việt Nam Quang phục hội đã tổ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
94
chức một số cuộc bạo động ở dọc tuyến biên giới Việt - Trung và một số nơi
trong nội địa nhƣng cuối cùng đều thất bại vì tiếu hẳn cơ sở, phong trào cách
mạng trong nƣớc.
Khi khởi nghĩa Thái Nguyên nổ ra, Lƣơng Ngọc Quyến hy vọng có sự
hỗ trợ của Việt Nam Quang phục hội từ ngoài biên giới Việt - Trung nhƣng
thực tế đã không xảy ra.
Do vậy, thời cơ thuận lợi cả khách quan và chủ quan đảm bảo cho khởi
nghĩa Thái Nguyên giành thắng lợi đều không có.
Sự thất bại và tan rã của cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên là do thiếu sự
ủng hộ của lực lượng quần chúng đông đảo và do hạn chế của Bộ chỉ huy
nghĩa quân.
So với những cuộc đấu tranh khác thì cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên đã
tập hợp đƣợc một lực lƣợng khá đông gồm nhiều thành phần: binh lính, công
nhân, nông dân, viên chức, chính trị phạm… Tuy nhiên, lực lƣợng khởi nghĩa
vẫn bị cô độc do chƣa phát động đƣợc toàn dân sẵn sàng hƣởng ứng, tham gia
khởi nghĩa .
Trƣớc khi tiến hành khởi nghĩa. Chủ tƣớng là Trịnh Văn Cấn có những
mối liên hệ khá rộng rãi với các đồn lính trong các vùng lân cận. Nhiều ngƣời
trong số hạ sĩ quan và binh lính các đồn đó đều có xu hƣớng ứng nghĩa.
Nhƣng do tổ chức chƣa chặt chẽ, kế hoạch chƣa chu đáo và cụ thể nên họ
không có điều kiện hƣởng ứng và phối hợp với lực lƣợng khởi nghĩa ở Thái
Nguyên. Nhân dân các vùng mà lực lƣợng khởi nghĩa hành quân đi qua đều
giúp đỡ rất tích cực, hết lòng ủng hộ nghĩa quân, nhƣng cũng chƣa đƣợc giác
ngộ và tổ chức chặt chẽ để trực tiếp tham gia phong trào. Chính nhờ sự ủng
hộ của nhân dân mà cuộc khởi nghĩa đã kéo dài đƣợc hơn 6 tháng, nhƣng
chƣa thể trở thành một nhân tố quyết định thắng lợi cuộc khởi nghĩa nếu đội
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
95
tiền phong của cuộc khởi nghĩa chƣa biết tổ chức họ, quy tụ họ lại thành một
khối đoàn kết, nhất trí.
Sau mấy lần hoãn đi hoãn lại, cuộc khởi nghĩa nổ ra vào đêm 30 rạng
ngày 31 - 8 - 1917. Theo kế hoạch, quân khởi nghĩa đã giết đƣợc tên Giám
binh Nô - en và tên tay sai tin cẩn của nó là Phó Quản Lạp, tuyên bố khởi
nghĩa trƣớc sự đồng tình hoàn toàn của anh em binh lính Thái Nguyên. Sau đó
nghĩa quân phá nhà tù, giết chủ ngục, cứu các tù nhân và chia nhau đi đánh
chiếm các công sở. Một điều đáng tiếc là tên Công sứ Đac, một kẻ thù gian
ác mà tất cả mọi ngƣời đều căm thù cao độ, lại không có mặt ở Thái Nguyên
lúc đó, nên không tiêu diệt đƣợc một đối tƣợng nguy hiểm. Và, nghĩa quân
cũng không làm đúng đƣợc theo kế hoạch đã định là đánh úp trại lính Tây,
nên chúng vẫn thủ hiểm ở trong trại và thông tin tức với Đại bản doanh ở Hà
Nội.
Nghĩa quân đã làm chủ tỉnh lỵ Thái Nguyên. Lá cờ đề 4 chữ "Nam binh
phục quốc" đã nêu cao ý chí và mục đích chính nghĩa của những ngƣời cầm
súng giết giặc. Với số quân mới đƣợc biên chế là 623 ngƣời; số vũ khí đoạt
đƣợc là hơn 600 khẩu súng; số tiền lấy đƣợc ở kho bạc là hơn 7 vạn đồng
Đông Dƣơng, đội quân khởi nghĩa đã có một thực lực đáng kể. Mặc dầu thắng
lợi chƣa trọn vẹn (không tiêu diệt đƣợc trại lính Tây) nhƣng kết quả bƣớc đầu
ấy tạo đà tiến lên cho cuộc khởi nghĩa, nếu Bộ chỉ huy nghĩa quân có phƣơng
lƣợc và phƣơng hƣớng phát triển đúng.
Một trong những vấn đề quan trọng và cấp bách lúc này là nghĩa quân
giữ thế thủ hay khởi thế công. Việc vận dụng sách lƣợc này đã góp phần
quyết định tiến trình phát triển hay sự thất bại của cuộc khởi nghĩa vừa nhóm
dậy.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
96
Lúc này, trong Bộ tham mƣu cuộc khởi nghĩa xuất hiện 2 quan điểm
khác nhau: phái chủ trƣơng tấn công và phái chủ trƣơng cố thủ phòng ngự.
Giữa hai chủ trƣơng và hai sách lƣợc đối chọi nhau, tin tƣởng vào tài quân sự
của Lƣơng Ngọc Quyến cuối cùng Trịnh Văn Cấn ngả theo chủ trƣơng phòng
ngự.
Và nhƣ vậy, ngay sau khi thắng lợi bƣớc đầu, nghĩa quân đã tự đặt mình
vào thế bị động, đợi giặc tiến công, cho tới khi không giữ đƣợc Thái Nguyên
nữa thì lại rơi vào cảnh phiêu lƣu, không có kế hoạch chủ động rút lui, và
cũng không xác định rõ mục tiêu địa điểm hành quân. Con đƣờng cố thủ chờ
tiếp viện của nghĩa quân là một sai lầm lớn, nghĩa quân nhanh chóng bị cô
lập, không liên kết đƣợc với các tỉnh lân cận để mở rộng khởi nghĩa. Mà theo
Lênin “ phòng ngự là triệu chứng chết non của mọi cuộc khởi nghĩa vũ
trang”. Thực tế cho thấy, nghĩa quân phòng ngự tại thị xã Thái Nguyên sẽ rất
khó lòng chống lại các cuộc phản công tập trung lực lƣợng của quân Pháp.
Phân tán lực lƣợng trƣớc mắt có thể bảo tồn lực lƣợng, kéo dài thời gian chiến
đấu, nhƣng điều đó không có nghĩa là quân khởi nghĩa rút khỏi tỉnh lỵ Thái
Nguyên chiến đấu trên địa bàn rộng sẽ đảm bảo thắng lợi. Thắng lợi hay thất
bại còn phụ thuộc vào nhiều điều kiện cơ bản khác nhƣ: vai trò lãnh đạo,
đƣờng lối chính trị đúng đắn… chứ không phải ở sách lƣợc nhất thời. Dẫu
sao, bỏ thế công ngay từ đầu, cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên đã chứa sẵn một
nguy cơ thất bại không thể tránh đƣợc.
Khởi nghĩa Thái Nguyên thất bại còn do phương thức tiến hành đấu
tranh chưa phù hợp.
Về phƣơng thức tiến hành đấu tranh vào thời kỳ lịch sử này cũng không
giống với trƣớc đây. Lịch sử đã chứng minh, tất cả các cuộc khởi nghĩa trƣớc
Tổng khởi nghĩa tháng 8-1945 rốt cuộc đều bị thất bại. Một trong những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
97
nguyên nhân chủ yếu của nó là tiến hành phƣơng thức đấu tranh không phù
hợp với điều kiện lịch sử. Đó là các cuộc khởi nghĩa này chƣa có sự kết hợp
giữa hai lực lƣợng: chính trị và vũ trang; kết hợp hai hình thức đấu tranh: đấu
tranh chính trị và đấu tranh quân sự để tiến hành khởi nghĩa vũ trang khi tình
thế cách mạng trực tiếp đã chín muồi. Và nhƣ vậy, có thể khẳng định: sự thất
bại cuối cùng của cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên cũng nhƣ của các phong trào
giải phóng dân tộc trƣớc khi Đảng Cộng sản ra đời là không thể tránh khỏi.
Mặc dù đƣợc nhân dân đồng tình ủng hộ, giúp đỡ, nhƣng nhìn chung,
cuộc chiến đấu của nghĩa quân Thái Nguyên vẫn cô độc và phải đối phó liên
tục với kẻ thù đông và mạnh hơn mình nhiều lần. Sau một thời gian vừa
chống trả vừa tìm cách tránh địch, đến cuối năm 1917 nghĩa quân đã suy kiệt
và tan rã từng mảng. Cho đến ngày 10-1-1918, sau nhiều trận chiến đấu tuyệt
vọng, vị thủ lĩnh của nghĩa quân đã anh dũng tự sát để thể hiện tinh thần thà
chết chứ nhất định không đầu hàng giặc.
Đến đây cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên chấm dứt. Hầu hết các nghĩa sĩ
còn lại đều bị giặc Pháp bắt giam, giết hại hoặc tù đày.
Mặc dù thất bại nhƣng khởi nghĩa Thái Nguyên đã góp phần tích cực vào
truyền thống đấu tranh chống xâm lƣợc của nhân dân các dân tộc trong tỉnh.
3.2.5.2. Ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm
Khởi nghĩa binh lính Thái Nguyên nổ ra năm 1917 đã khiến thực dân
Pháp hoang mang lo sợ, góp phần răn đe hệ thống cai trị của Pháp. Khởi
nghĩa đã làm chấn động chính quyền Pháp ở Đông Dƣơng, tạo đƣợc tiếng
vang lớn, làm ảnh hƣởng, gây chia rẽ sâu sắc trong chính quyền Pháp. Khởi
nghĩa Thái Nguyên còn làm cho hội nhân quyền Pháp nhận rõ sự tàn ác của
hệ thống cai trị nói chung và sự tàn ác của Đáclơ nói riêng. Hội nhân quyền
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
98
đã mở một cuộc đấu tranh nhằm tố cáo chính quyền đã làm ngơ trƣớc sự dã
man của chính quyền thực dân ở Đông Dƣơng.
Khởi nghĩa binh lính ở Thái Nguyên là khởi nghĩa đầu tiên của binh lính
có kết quả nhất đã tấn công vào âm mƣu "dùng người Việt đánh người Việt"
của thực dân Pháp, thể hiện sức mạnh đáng kể của binh lính, nêu tấm gƣơng
cho binh lính sau này là lấy súng giặc để giết giặc, tạo dựng truyền thống đấu
tranh cho binh sĩ.
Thời gian độc lập của Thái Nguyên tuy ngắn ngủi nhƣng làm cho nhân
dân Thái Nguyên hết sức phấn khởi, thúc đẩy họ đấu tranh đồng thời rèn
luyện ý chí đấu tranh của nhân dân. Khởi nghĩa tuy thất bại nhƣng đã viết lên
một trang sử vàng, oanh liệt của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm lƣợc. Tinh thần của đông đảo binh sĩ nói chung, của Trịnh
Văn Cấn và Lƣơng Ngọc Quyến nói riêng là bất tử và còn sống mãi trong
lòng nhân dân ta.
Đây là khởi nghĩa lớn nhất, dài nhất và có tiếng vang nhất trong thời kỳ
chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra do binh lính lãnh đạo. Khi nổ ra khởi nghĩa
đã giành đƣợc một số thắng lợi nhất định, nghĩa quân đã chiếm đƣợc một số
vị trí quan trọng: trại lính khố xanh, nhà lao, toà công sứ, nhà bƣu điện…
Nghĩa quân đã làm chủ Thái Nguyên trong một tuần, có quốc hiệu, quốc kỳ,
có tuyên ngôn…
Khởi nghĩa đã có sự liên minh thành công của binh lính ngƣời Việt trong
quân đôi Pháp với các tù chính trị. Lần đầu tiên trong lịch sử có sự liên minh
giữa hai lực lƣợng này. Sự liên minh này chứng tỏ tinh thần yêu nƣớc, đoàn
kết chống kẻ thù chung. Ngoài hai lực lƣợng nói trên, nghĩa quân còn nhận
đƣợc sự ủng hộ và tham gia của đông đảo quần chúng nhân dân trong tỉnh
(trên 300 ngƣời). Điều đó nói lên tinh thần dân tộc, lòng yêu nƣớc của ngƣời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
99
dân Việt Nam cho dù họ đang đứng ở vị trí nào trong xã hội … Mặc dù không
thông báo rộng rãi nhƣng khi khởi nghĩa bùng nổ, quần chúng nhân dân đã nô
nức tham gia. Khởi nghĩa Thái Nguyên đƣợc xem nhƣ " Một bước ngoặt,
đánh dấu sự chuyển biến quan trọng từ lập trường quân chủ lập hiến của
những người yêu nước Việt Nam sang lập trường cộng hoà dân quốc"
Tuy thất bại nhƣng khởi nghĩa để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu,
đó là bài học về thời cơ, về vai trò của quần chúng và về tấn công hay phòng
ngự.
Bất cứ một phong trào cách mạng nào khi nổ ra phải có thời cơ, nếu
chuẩn bị mọi điều kiện về chính trị, tổ chức, lực lƣợng… nhƣng không có thời
cơ thì chắc chắn khi phong trào cách mạng nổ ra sẽ đi đến thất bại. Trong bản
tuyên ngôn của Thái Nguyên đã khẳng định: " Thời cơ đã đến… " nhƣng nhìn
lại lịch sử, cả về hoàn cảnh trong nƣớc và quốc tế, thì cuộc khởi nghĩa Thái
Nguyên nổ ra khi chƣa có thời cơ chín muồi, thêm vào đó khi khởi nghĩa nổ
ra nghĩa quân đã mắc phải những sai lầm thuộc về phƣơng pháp tiến hành
khởi nghĩa… cho nên, nghĩa quân lâm vào khó khăn và cuối cùng đi đến thất
bại.
Mặc dù vậy, cuộc khởi nghĩa đã cho thấy sức mạnh của khối đoàn kết
nhân dân. Những thắng lợi bƣớc đầu của cuộc khởi nghĩa có sự đóng góp to
lớn của đông đảo nhân dân, không chỉ riêng nhân dân trong tỉnh mà còn cả
nhân dân các tỉnh lân cận. Trong điều kiện chiến đấu ác liệt, nghĩa quân đã
nhận đƣợc sự giúp đỡ, ủng hộ của nhân dân các địa phƣơng cả về lƣơng thực,
sự che chở, dẫn đƣờng… cho nên, nghĩa quân đã kéo dài cuộc chiến đấu với
địch trên 6 tháng, tiêu diệt đƣợc nhiều kẻ thù. Song quần chúng nhân dân ở
trong tỉnh cũng nhƣ ở các địa phƣơng lân cận chƣa đƣợc giác ngộ, tổ chức…
cho nên không có sự kết hợp phong trào đấu tranh, nổi dậy của quần chúng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
100
nhân dân với các hoạt động vũ trang của nghĩa quân. Chính vì vậy, dù nghĩa
quân có nhận đƣợc sự giúp đỡ, đùm bọc của nhân dân, nhƣng họ vẫn cô độc
đối phó với lực lƣợng địch đông hơn gấp nhiều lần. Đồng thời cuộc khởi
nghĩa nổ ra lại không có sự kết hợp, liên kết chặt chẽ với phong trào ở các
vùng lân cận. Mặc dù Đội Cấn có mối liên hệ với một số binh lính ở các vùng
lân cận, nhƣng vì chƣa có kế hoạch cụ thể, chặt chẽ nên binh lính các vùng
lân cận không có điều kiện hƣởng ứng và phối hợp với nghĩa quân.
Nhƣ vậy, có thể thấy vai trò của quần chúng nhân dân là rất lớn và quan
trọng đối với phong trào đấu tranh cách mạng. Nếu khởi nghĩa nổ ra mà
không có sự liên minh chặt chẽ giữa nghĩa quân với quảng đại quần chúng
nhân dân thì khởi nghĩa không thể giành đƣợc thắng lợi.
Khởi nghĩa Thái Nguyên đã để lại bài học lớn lao trong tấn công hay
phòng ngự của chiến tranh cách mạng. Diễn biến của cuộc khởi nghĩa Thái
Nguyên cho thấy, khi giành đƣợc thị xã Thái Nguyên, trong Ban chỉ huy khởi
nghĩa đã xuất hiện hai quan điểm khác nhau là tiếp tục tấn công mở rộng khởi
nghĩa hay phòng ngự cố thủ. Trƣớc hai con đƣờng ấy, Đội Cấn đã chọn con
đƣờng phòng ngự - đây cũng chính là một sai lầm trong chỉ đạo khởi nghĩa,
dẫn đến cuộc khởi nghĩa nhanh chóng thất bại. Hơn nữa khi đã không còn cố
thủ đƣợc Thái Nguyên nữa, nghĩa quân rơi vào thế bị động hoàn toàn, không
có kế hoạch chủ động rút lui, cũng không xác định đƣợc mục tiêu, địa điểm
hành quân… Bỏ việc tấn công ngay từ đầu, khởi nghĩa Thái Nguyên đã chứa
sẵn nguy cơ thất bại không thể tránh khỏi. Thông thƣờng một cuộc khởi nghĩa
nổ ra phải liên tục tấn công địch, có thể tấn công từng bộ phận, giành những
thắng lợi nhỏ tiến lên giành những thắng lợi lớn.
Tuy thất bại nhƣng khởi nghĩa Thái Nguyên đã viết nên một trang sử
vàng oanh liệt trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
101
đặc biệt là của binh lính ngƣời Việt trong quân đội Pháp. Khởi nghĩa đã tiếp
nối đƣợc truyền thống đấu tranh anh dũng của dân tộc Việt Nam nói chung và
nhân dân Thái Nguyên nói riêng.
Tiểu kết chƣơng 3
Trong thời kỳ chiến tranh thế giới thứ nhất 1914-1918, Thái Nguyên là
một trong những tỉnh phải hứng chịu chính sách thống trị tàn bạo của thực
dân Pháp nhằm vơ vét sức ngƣời sức của của nhân dân ta vào cuộc chiến
tranh đế quốc, làm tăng thêm những mâu thuẫn vốn đã hết sức gay gắt giữa
các tầng lớp nhân dân ta với thực dân Pháp .
Lợi dụng hoàn cảnh lịch sử nói trên, dƣới sự lãnh đạo của Đội Cấn và
Lƣơng Ngọc Quyến, cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên đã bùng nổ vào đêm 30
rạng ngày 31 tháng tám năm 1917.
Do có sự chuẩn bị khá chu đáo, khởi nghĩa đã giành đƣợc thắng lợi bƣớc
đầu. Bộ chỉ huy nghĩa quân sau khi thành lập đã giƣơng cao lá cờ “Nam binh
phục quốc” bay phấp phới trƣớc cổng thành Thái Nguyên, tuyên bố Thái
Nguyên độc lập, ra hịch kêu gọi nhân dân hƣởng ứng khởi nghĩa.
Đây là cuộc khởi nghĩa lớn nhất trong lịch sử Việt Nam cận đại trƣớc khi
có Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, nghĩa quân đã làm chủ tỉnh lỵ trong 5
ngày.
Bị thực dân Pháp tập trung lực lƣợng phản công quyết liệt, truy quét tàn
bạo, khởi nghĩa Thái Nguyên đã bị dìm trong biển máu.
Mặc dầu thất bại nhƣng khởi nghĩa Thái Nguyên đã có ý nghĩa lịch sử to
lớn, để lại những bài học kinh nghiệm quý báu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
102
KẾT LUẬN
Phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lƣợc ở tỉnh Thái Nguyên
(1884-1918) đã tô thắm thêm trang sử vàng đấu tranh chống ngoại xâm của
nhân dân các dân tộc trong tỉnh. Từ thực tiễn của phong trào đấu tranh có thể
rút ra một số nhận xét sau đây.
1. Về vai trò lãnh đạo
Phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp ở tỉnh Thái Nguyên trong thời
kỳ 1884 - 1918 thu hút đƣợc đông đảo quần chúng nhân dân tham gia, trong
đó nổi lên một số tƣớng lĩnh tài giỏi. Họ là ngƣời có uy tín và ảnh hƣớng lớn
đến nhân dân trong vùng, có lòng yêu nƣớc, có chí khí họ đứng dậy phất cờ
khởi nghĩa. Ngay từ khi Pháp đánh chiếm Thái Nguyên, Pháp đã vấp phải
cuộc nổi dậy của nhân dân Thái Nguyên dƣới ngọn cờ của Phùng Bá Chỉ, Mã
Sình Long ( Mã Mang ), sau đó là cuộc khởi nghĩa do Cai Bát chỉ huy ở Đại
Từ, phong trào hƣởng ứng khởi nghĩa Yên Thế do Đề Nguyên chỉ huy… Tiêu
biểu là vai trò to lớn của hai thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên là Đội Cấn
và Lƣơng Ngọc Quyến. Lƣơng Ngọc Quyến đƣợc coi là linh hồn của cuộc
khởi nghĩa. Dù cho cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên cuối cùng cũng bị thực dân
Pháp đàn áp và thất bại, nhƣng vai trò to lớn của hai ông vẫn đƣợc nhân dân
kính trọng đời đời ghi nhớ.
2. Lực lƣợng tham gia
Tham gia phong trào đấu tranh chống Pháp trong thời kỳ 1884 - 1918 ở
Thái Nguyên là đông đảo quần chúng nhân dân các dân tộc: Kinh, Tày, Nùng,
Dao và một bộ phận binh lính Việt Nam trong quân đội Pháp dƣới sự lãnh
đạo của một số tƣớng lĩnh tài giỏi nhƣ: Phùng Bá Chỉ, Mã Sình Long, Đội
Cấn, Lƣơng Ngọc quyến… Trƣớc và sau khi cuộc chiến tranh thế giới thứ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
103
nhất bùng nổ, phong trào còn có sự tham gia đông đảo của giai cấp công nhân
, chủ yếu là công nhân ở các mỏ: mỏ kẽm làng Hích, mỏ than Phấn Mễ, mỏ
sắt Trại cau… Trong giai đoạn đầu của phong trào chống thực dân Pháp xâm
lƣợc ở Định Hóa còn có cả lực lƣợng đối lập với quyền lợi của nhân
dân(Lƣờng Tam Kỳ) tham gia.
Khởi nghĩa Thái Nguyên là cuộc khởi nghĩa thu hút đƣợc nhiều lực
lƣợng tham gia nhất, ngoài lực lƣợng binh lính ngƣời Việt và tù phạm, khởi
nghĩa Thái Nguyên còn có sự tham gia của giai cấp công nhân, các tầng lớp
nhân dân ở tỉnh lỵ và giúp đỡ, bảo vệ lực lƣợng, sự cổ vũ mạnh mẽ của nhân
dân các tỉnh: Vĩnh Yên, Phúc Yên, Bắc giang… Sự tham gia đông đảo của
các lực lƣợng đã làm cho khởi nghĩa Thái Nguyên có qui mô rộng lớn. Tuy
nhiên cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên cũng nhƣ các cuộc đấu tranh trƣớc đó
chƣa tập hợp đƣợc lực lƣợng của dân tộc trong cuộc dấu tranh.
3. Qui mô của phong trào
Phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp của tỉnh Thái Nguyên trong
thời kỳ 1884 - 1918 là một phong trào có qui mô rộng lớn. Mặc dù trƣớc khi
chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ phong trào diễn ra lẻ tẻ và tự phát.
Nhƣng do ách cai trị tàn bạo của thực dân Pháp các phong trào đấu tranh diễn
ra liên tục, quyết liệt thu hút đƣợc khá đông đảo quần chúng nhân dân tham
gia. Tiếp bƣớc truyền thống đấu tranh của cha ông, tất cả các cuộc đấu tranh
chống Pháp thời kỳ này đều có mục tiêu đấu tranh rõ ràng là đánh đổ thực dân
Pháp xâm lƣợc, chính vì vậy mà qui mô của phong trào ngày càng rộng lớn.
Khởi nghĩa Thái Nguyên là cuộc khởi nghĩa điển hình và có qui mô lớn hơn
tất cả các cuộc khởi nghĩa trƣớc đó.
4. Hình thức đấu tranh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
104
Về cơ bản, hình thức đấu tranh của phong trào đấu tranh chống thực dân
Pháp ở Thái Nguyên trong thời kỳ 1884 - 1918 là đấu tranh vũ trang.Song các
cuộc đấu tranh ở giai đoạn đầu của phong trào diễn ra lẻ tẻ, rời rạc, thiếu sự
chỉ huy thống nhất lấy hình thức đấu tranh du kích phục kích là chính, vũ khí
thiếu thốn, trang bị lạc hậu, thiếu sự vận động cách mạng một cách sâu rộng
để phát huy sức mạnh quật khởi của quần chúng nhân dân. Tuy nhiên, cũng
có lúc, có nơi hình thức đấu tranh đƣợc thay đổi, quân dân ta cũng đã tổ chức
đƣợc một số trận tập kích vào căn cứ của địch nhƣng không lớn lắm nhƣ cuộc
tập kích vào thị trấn chợ Mới.
Ngoài đấu tranh vũ trang, ở giai đoạn sau, khi cuộc chiến tranh thế giới
thứ nhất bùng nổ, còn có cả đấu tranh đòi quyền lợi của công nhân mỏ.
Với cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên, Ban chỉ huy nghĩa quân đã chọn hình
thức đấu tranh vũ trang là chủ yếu. Do không có lực lƣợng chính trị rộng lớn,
cho nên khởi nghĩa Thái Nguyên không phát huy đƣợc sức mạnh đấu tranh
của nhân dân để giam chân địch. Mặc dù đi đến đâu nghĩa quân Thái Nguyên
cũng nhận đƣợc sự giúp đỡ của nhân dân nhƣng nghĩa quân lại chƣa có chỗ
dựa vững chắc trong nhân dân.
Mặc dù vậy, dựa vào địa hình vùng rừng núi hiểm trở, các đội nghĩa
quân đã gây cho địch nhiều tổn thất.
5. Nguyên nhân thất bại
Phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp ở tỉnh Thái Nguyên trong thời
kỳ 1884 - 1918 mặc dù diễn ra khá sôi nổi, mạnh mẽ và ảnh hƣởng lớn nhất là
khởi nghĩa Thái Nguyên nhƣng rốt cuộc đều thất bại. Nguyên nhân chính là
do phong trào chƣa có một đƣờng lối lãnh đạo đúng đắn, phù hợp đáp ứng
đƣợc yêu cầu của lịch sử, có khả năng tập hợp đƣợc mọi lực lƣợng của dân
tộc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
105
Phong trào đấu tranh chống Pháp của nhân dân các dân tộc tỉnh Thái
Nguyên đã tập hợp đƣợc một lực lƣợng khá đông đảo.Tuy nhiên, lực lƣợng
khởi nghĩa vẫn ở trong tình trạng cô độc do chƣa phát động và chƣa liên kết
đƣợc toàn dân để kháng chiến.
Tất cả các cuộc khởi nghĩa đều diễn ra một cách lẻ tẻ, tự phát, cuộc nổi
dậy của binh lính ngƣời Việt trong quân đội Pháp trừ khởi nghĩa Thái Nguyên
là liên kết với những ngƣời yêu nƣớc trong nhà tù Thái Nguyên, là một cuộc
khởi nghĩa lớn có sự chuẩn bị, bàn bạc, có tổ chức, có ngƣời lãnh đạo tài giỏi,
dƣới tác động của tƣ tƣởng cách mạng Việt Nam Quang phục hội- một tổ
chức chính trị tiến bộ nhất lúc bấy giờ, thông qua nhãn quan chính trị và hoạt
động của Lƣơng Ngọc Quyến trong Bộ chấp hành của Việt Nam Quang phục
hội, nên cuộc khởi nghĩa biểu hiện ý thức chính trị rõ rệt, nhƣng cũng không
thoát khỏi yếu tố tự phát. Kế hoạch khởi nghĩa đã vạch ra, quân khởi nghĩa đã
giết Giám binh, chiếm tòa Công sứ, trại lính khố xanh, phá nhà lao, làm chủ
tỉnh lị Thái Nguyên, tuyên bố Thái Nguyên độc lập, đặt ra Quốc kì, … nhƣng
sau đó ban chỉ huy khởi nghĩa lại không có đƣờng lối đúng đắn cho nghĩa
quân phát triển, không đƣa ra những quyền lợi cho nhân dân để lôi kéo họ.
Phong trào đấu tranh chống Pháp ở Thái Nguyên trong thời kỳ 1884-
1918 thất bại còn do hình thức đấu tranh chƣa thích hợp .Các cuộc đấu tranh ở
giai đoạn đầu khi thực dân Pháp mới bắt đầu tiến hành cai trị Thái Nguyên chỉ
đơn thuần là các cuộc nổi dậy tự phát, lẻ tẻ. Với hình thức đấu tranh vũ trang
bằng lối đánh du kích là chủ yếu, chƣa kết hợp đƣợc giữa xây dựng lực lƣợng
trong đấu tranh vũ trang với xây dựng lực lƣợng chính trị, đấu tranh chính trị.
Cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên diễn ra trong điều kiện khá thuận lợi:
chiến tranh thế giới thứ nhất đang ở giai đoạn quyết liệt; phong trào lại đƣợc
sự giúp đỡ nhiệt tình của quần chúng nhân dân; các nhà lãnh đạo khởi nghĩa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
106
đều là những ngƣời có kinh nghiệm chiến đấu… nhƣng cuộc khởi nghĩa đã
không có hình thức đấu tranh thích hợp, ban chỉ huy khởi nghĩa đã chọn con
đƣờng cố thủ chờ tiếp viện mà trong chiến tranh “cố thủ là triệu chứng chết
non của mọi cuộc khởi nghĩa vũ trang ” - Lênin-. Đồng thời ban chỉ huy khởi
nghĩa đã không tập hợp đƣợc quần chúng nhân dân tạo thành phong trào rộng
lớn, để cuối cùng khởi nghĩa bị thực dân Pháp dìm trong biển máu.
6. Ý nghĩa lịch sử
Phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp ở tỉnh Thái Nguyên trong thời
kỳ 1884 - 1918 mặc dù đều đi đến thất bại nhƣng nó vẫn mang một ý nghĩa vô
cùng to lớn. Nó không chỉ là sự tiếp nối lịch sử oanh liệt của nhân dân các dân
tộc trong tỉnh mà nó còn là ngọn lửa hun đúc lòng yêu quê hƣơng đất nƣớc
phát huy truyền thống cách mạng trong những giai đoạn sau.
Phong trào đã khiến thực dân Pháp hoang mang lo sợ, khiến cho chúng
phải chùn bƣớc, phải mất gần chục năm từ khi bắt đầu xâm lƣợc Thái Nguyên
chúng mới hoàn thành bộ máy cai trị. Đến khi cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
bùng nổ, chính quyền Pháp ở Đông Dƣơng bị chấn động mạnh, thực dân Pháp
dao động, nội bộ chính quyền Pháp bị chia rẽ sâu sắc, âm mƣu “dùng người
Việt trị người Việt ” của Pháp bị đánh một đòn nặng.
Khởi nghĩa Thái Nguyên đã nối tiếp đƣợc phong trào yêu nƣớc của dân
tộc, góp phần làm tăng ý chí đấu tranh của nhân dân. Khởi nghĩa tuy thất bại
nhƣng đã viết nên một trang sử vàng oanh liệt của nhân dân Thái Nguyên nói
riêng, nhân dân cả nƣớc nói chung trong cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lƣợc.
Tinh thần đấu tranh của nhân dân các dân tộc Thái Nguyên, của đông
đảo binh sĩ, các tƣớng lĩnh tiêu biểu là Đội Cấn, Lƣơng Ngọc Quyến sẽ còn
sống mãi trong lòng nhân dân ta [ xem phụ lục 15].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
107
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. A.Echinard (1934), Lịch sử chính trị và Quân sự tỉnh Thái Nguyên, Tài
liệu lƣu trữ tại phòng Lịch sử Đảng, Ban tuyên giáo Tỉnh Uỷ Thái
Nguyên.
2. Đào Duy Anh (1994), Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb Thuận
Hoá.
3. Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Bắc Thái (2007), Bác Hồ với Thái Nguyên
Thái Nguyên với Bác Hồ, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
4. Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên (2003), Lịch sử Đảng bộ
tỉnh Bắc Thái, tập 1 (1930-1954).
5. Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên (2003), Lịch sử Đảng bộ
tỉnh Thái Nguyên, tập 1 (1936-1965).
6. Ban chỉ huy quân sự huyện Phổ Yên (2005), Phổ Yên lịch sử kháng
chiến chống xâm lược và xây dựng - bảo vệ Tổ quốc (1945-2000).
7. Ban chỉ huy quân sự huyện Đồng Hỷ (2006), Huyện Đồng Hỷ lịch sử
kháng chiến chống xâm lược và xây dựng - bảo vệ Tổ quốc (1945 -
2000).
8. Ban chỉ huy quân sự Huyện Phú Lƣơng (2007), Lịch sử kháng chiến
chống xâm lược và xây dựng - bảo vệ Tổ quốc (1945 - 2000).
9. Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ƣơng (1981), Lịch sử Đảng cộng
sản Việt Nam, Sơ thảo, tập 1 (1920-1954), Nxb Sự thật, Hà Nội.
10. Ban nghiên cứu Văn - Sử - Địa (1957), Tài liệu tham khảo Lịch sử
Cách mạng cận đại Việt Nam , Nxb Văn - Sử Địa, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
108
11. Báo cáo của Sở mật thám Bắc Kì về hoạt động chính trị bản xứ Bắc Kì
(1930-1945), Tài liệu lƣu trữ tại Phòng lịch sử Đảng, Ban Tuyên giáo
Tỉnh uỷ Thái Nguyên.
12. Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bắc Thái (1994), 50 năm xây dựng và chiến
đấu.
13. Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Thái Nguyên (1999), Thái Nguyên lịch sử đấu
tranh vũ trang cách mạng và kháng chiến chống Pháp (1941-1954).
14. Bộ chỉ huy quân sự huyện Đại Từ (2004), Lịch sử kháng chiến chống
thực dân Pháp, đế quốc Mĩ xâm lược và xây dựng bảo vệ tổ quốc của
quân và dân huyện Đại Từ (1945 - 2000.
15. Bộ quốc phòng - Viện lịch sử quân sự Việt Nam (2000), Lịch sử quân
sự Việt Nam, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội .
16. Phan Bội Châu(1957), Phan Bội Châu niên biểu, Nxb Văn Sử Địa,Hà
Nội.
17. Danh tƣớng Việt Nam (1997), tập II - Danh tướng Lam Sơn, Nxb GD .
18. Đại Nam nhất thống chí (1971), tập 4, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
19. Đảng bộ huyện Bắc Sơn (1990), Lịch sử đấu tranh cách mạng của
Đảng bộ và nhân dân huyện Bắc Sơn (1930-1954)
20. Đại Việt Sử Ký toàn thư (1983), Tập 1, Nxb KHXH, Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (1977), Văn kiện Đảng 1930 - 1945, Ban
Nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ƣơng xuất bản, Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 1, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam, Lịch sử Đảng bộ huyện Võ Nhai (1930 -
1954) Huyện ủy Võ Nhai Xb.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
109
24. Đảng Lao Động Việt Nam (1963), Văn Kiện Đảng 1939-1945, Nxb Sự
thật, Hà Nội.
25. E.Chinard: Tiểu chí Thái Nguyên (Tài liệu lƣu tại Ban tuyên giáo Tỉnh
ủy Thái Nguyên ).
26. Galiêli (1985), Ba đạo quân Bắc Kỳ, Lịch sử Việt Nam tập II, Nxb
KHXH, Hà Nội.
27. Võ Nguyên Giáp: Khu giải phóng một sự nghiệp vĩ đại của phong trào
giải phóng dân tộc- Tài liệu lƣu trữ tại Ban tuyên giáo Tỉnh ủy Thái
Nguyên
28. Việt Hải (biên tập) (1975): Đội Cấn - Thái Nguyên, Bảo Ngọc Văn
Đoàn, Hà Nội
29. Huyện ủy Định Hóa (2000), Lịch sử Đảng bộ huyện Định Hóa (1930-
2000).
30. Huyện ủy Đại Từ (1991), Lịch sử Đảng bộ huyện Đại Từ, tập 1 (1930-
1954 ).
31. Huyện ủy Đồng Hỷ (1997), Lịch sử Đảng bộ huyện Đồng Hỷ (1930-
1995).
32. Huyện ủy Phú Lƣơng (1996), Lịch sử đảng bộ huyện Phú Lương
(1930-1954).
33. Huyện ủy Phổ Yên (1995), Lịch sử Đảng bộ huyện Phổ Yên (1930-
1954).
34. Huyện ủy Phú Bình (1984), Lịch sử Đảng bộ huyện Phú Bình (1930-
1954).
35. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
36. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
37. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
110
38. Hồ Chí Minh (1980), Tuyển tập, tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội .
39. Nguyễn Huy Khánh (1998), Đất và người Thái Nguyên.
40. Nguyễn Văn Khánh, Lương Ngọc Quyến và khởi nghĩa Thái Nguyên,
Tạp chí lịch sử quân sự số 4/ 1997.
41. Hoàng Ngọc La(1995): Căn cứ địa Việt Bắc, Nxb chính trị quốc gia,
Hà Nội.
42. Hoàng Văn Lân - Ngô Thị Chính (1984): Lịch sử Việt Nam (1858-
cuối XIX), tập 1, phần II, quyển III, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
43. Đinh Xuân Lâm (1998), Lịch sử cận - hiện đại Việt Nam một số vấn đề
nghiên cứu, Nxb Thế giới, Hà Nội.
44. Đinh Xuân Lâm 1999, Đại cƣơng lịch sử Việt Nam, Tập II, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
45. Lịch sử biên niên của Đảng bộ tỉnh Bắc Thái (1930-1945), Tài liệu lƣu
trữ tại phòng Lịch sử Đảng, Ban tuyên giáo tỉnh uỷ Thái Nguyên.
46. Lịch sử đảng bộ tỉnh Bắc Kạn (2000), tập I, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
47. Trần Huy Liệu (1961), Lịch sử 80 năm chống Pháp, quyển thƣợng, tập
1, Nxb Sử học, Hà Nội.
48. Niên giám thống kê Đông Dương (1936-1939), Tài liệu lƣu trữ tại
phòng Lịch sử đảng, Ban tuyên giáo Tỉnh uỷ Thái Nguyên.
49. Đào Trinh Nhất (1946), Lương Ngọc Quyến và cuộc khởi nghĩa Thái
Nguyên năm 1917, Quốc dân thƣ xã Xb, Hà Nội.
50. Đỗ Đình Nghiêm (1930), Dư địa chí các tỉnh Bắc Kỳ, Lê Văn Tân xuất
bản, Hà Nội.
51. Tôn Quang Phiệt (1984), Tìm hiểu Hoàng Hoa Thám, Sở văn hóa
thông tin Hà Bắc xuất bản.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
111
52. Trƣơng Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn ( Chủ biên -2002),
Đại cương lịch sử Việt Nam, toàn tập, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
53. Nguyễn Ái Quốc (1960), Bản án chế độ Thực dân Pháp, Nxb Sự thật,
Hà Nội.
54. Dƣơng Kinh Quốc (1988), Chính quyền thuộc địa ở Việt Nam trước
cách mạng tháng Tám 1945, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
55. Sở Văn hoá thông tin tỉnh Bắc Thái (1985), Bắc Thái 40 năm đấu tranh
và xây dựng (1945-1985).
56. Sở Văn hoá thông tin tỉnh Thái Nguyên (2003), Thái Nguyên đất và
người.
57. Sở Giáo dục - Đào tạo Thái Nguyên (1998), Địa lý tỉnh Thái Nguyên
58. Trần Dân Tiên (1975 ), Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ
Chủ tịch, Nxb Sự thật, Hà Nội .
59. Vũ Văn Tỉnh, Một chút tài liệu về Lương Ngọc Quyến, Tạp chí nghiên
cứu lịch sử, số 5/ 1969.
60. Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, UBND tỉnh Thái Nguyên, Địa chí Thái
Nguyên, Bản thảo, nghiệm thu cuối năm 2007, lƣu trữ tại Sở Văn hóa
thông tin tỉnh Thái Nguyên.
61. Ty Văn hoá thông tin Bắc Thái: Về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên 1917,
xuất bản 1977.
62. Tạ Thị Thuý (1996), Đồn điền của người Pháp ở Bắc Kỳ 1884-1914,
Nxb Thế giới, Hà Nội.
63. Khổng Đức Thiêm - Nguyễn Xuân Cầu (1997 ): Khởi nghĩa Yên Thế,
hội KHLS Việt Nam, Hà Nội.
64. Thành ủy Thái Nguyên (1991), Lịch sử đảng bộ thành phố Thái
Nguyên (1930-1975), tập 1.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
112
65. Nguyễn Trãi (1960), Dư địa chí, Nxb Sử học, Hà Nội.
66. Viện Lịch sử Quân sự (1944), Lịch sử quân đội nhân dân Việt Nam,
tập 1, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
67. Viện Sử học - Sở Văn hoá Thông tin tỉnh Thái Nguyên (2001), Danh
nhân lịch sử Lưu Nhân Chú.
68. Viện Sử học - Sở Văn hoá Thông tin Thái Nguyên (1997), Khởi nghĩa
Thái Nguyên 80 năm nhìn lại.
PHỤ LỤC
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
HAI BẢN TUYÊN NGÔN CỦA CUỘC KHỞI NGHĨA THÁI NGUYÊN
Phụ lục 1
Bản Tuyên ngôn thứ nhất
Đại Hùng đế quốc năm thứ nhất
tháng 7, ngày 14
Thái Nguyên tỉnh Quang phục quân
Đại đô đốc Trịnh
bố cáo cho dân chúng đồng bào được biết:
Nước Việt Nam nhà ngày nay gồm trong cõi Đông Dương, nguyên xưa
là đất tượng quận. Dân tộc ta vốn dòng dõi rồng tiên. Ruộng đất ta phì nhiêu,
dài mấy trăm đầy những núi non linh tú.
Kể từ khi Hồng Bàng lập quốc đến giờ, lịch sử truyền nối hơn bốn nghìn
năm, trải qua các triều đại Kinh Dương Vương, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại
Hành, Lý Trần, Hậu lê rồi đến bản triều Nguyễn Thị, mỗi đời kế tiếp mở
mang bờ cõi thêm to, điểm tô non sông thêm đẹp. Phải biết tổ tiên ta đã tốn
bao nhiêu thông minh, bày tỏ biết bao nhiêu nghị lực, hy sinh bao nhiêu máu
thịt, mới xây dựng lên được giang sơn gấm vóc này để lại cho chúng ta.
Chẳng may đến giữa thế kỷ 19 vừa rồi, Pháp tặc ở Âu châu sang, giả lấy
danh nghĩa thông thương truyền giáo, cướp mất hương hoả quý báu của ta
Thừa cơ lúc đó triều đình ta còn mải miết trau dồi lối học khoa cử từ
chương, không lo gì võ bị, chúng giở ngang thủ đoạn bạo ngược xâm lăng
nước ta. Thoạt tiên chiếm đoạt sát tỉnh Nam Kỳ rồi sau dần dần sinh chuyện
cướp nốt Trung, Bắc. Chúng ra tay tàn sát những người có nhiệt tâm yêu
nước, phá huỷ đền đài thành quách ta, bóc lột tiền tài sản nghiệp ta.
Cũng may, ta còn có những bậc anh hùng chí sĩ, những người danh vọng
tài năng biết đồng tâm hiệp lực, kháng cự lũ giặc ngoại xâm. Binh lực chẳng
có mấy, khí giới rất tầm thường, thế mà các nhà cách mạng tiên phong ấy đã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
từng chiếm giữ được ít nhiều chỗ hiểm yếu để làm căn cứ mà đương đầu với
giặc khá lâu. Ta kể ví dụ như ông Hoàng Hoa Thám một thời oanh liệt ở Nhã
Nam, hay ông Phan Đình Phùng mười năm kháng chiến ở Hà Tĩnh, ấy là
những chứng cớ hiển nhiên.
Có điều các vị dân tộc anh hùng ấy có chỗ thủ hiểm vững vàng mà không
gặp được thời cơ may mắn, đến nỗi ngoại viên là sự rất cần dùng thiết yếu mà
cũng không có. Thành ra khí giới thiếu thốn, lương thực yếu dần, trước sau
đều bị quân địch tiêu diệt. Từ đó tới nay, tấm gương anh dũng của các cụ tiền
bối, không thấy người nào có đủ tài lực nối trí làm theo.
Ngoài những người lỗi lạc bị hy sinh như thế, trong xứ ta còn lại toàn là
anh em quê mùa, chất phác, vô học, nhắm mắt chịu ép một bề. Pháp tặc không
còn một trở lực gì phải kiêng kỵ nữa, tha hồ hoành hành bạo ngược: thôi thì
phá hoại ngay những luật lệ tự chúng đặt ra, áp dụng những thói bán quan
buôn chức, tìm đủ mọi cách làm cho nòi giống ta càng ngày càng đi đến hoạ
diệt chủng, kết án cực nặng, hành vi tàn nhẫn đến nỗi khai quật cả lăng tẩm
một vị tiên đế bản triều ta, đưa đi an trí ở một hoang đảo thật xa.
Kể từ khi hạ thành Hà Nội tới giờ, chúng đã tự do thay đổi ngôi vua nước
Nam ta ba lần trong khoảng 30 năm, mà không đếm xỉa gì đến dân tâm dư
luận
Thuế má thì mỗi ngày một tăng lên mãi, bà con ta chỉ lo đóng góp cũng
đủ chết. Mỗi người dân Việt Nam, như phải tròng cổ vào sợi dây, càng ngày
càng xiết chặt thêm, mười nhà hết chín, lâm vào cảnh khốn cùng ghê gớm.
Vạn nhất có người nhiệt tâm với quốc gia, hơi ra mặt chống trả với chính
sách đô hộ, liền bị lũ chó săn chim muồi tố giác với quân thù, làm cho sở
nguyện phải bị đè nén chôn vùi tức tốc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Chao ôi! Mỗi khi tưởng nhớ tới cơ nghiệp tổ tiên đã đổ bao nhiêu máu
đào mới dựng nên, mỗi khi nghĩ đến tình cảnh nước nhà bấy lâu gian truân
khốn khổ, chúng ta thấy bầm gan tím ruột, thương xót vô cùng
Chúng ta nhẫn nhục đã tới cực điểm, tấm lòng bi thấy giang sơn chủng
tộc sôi nổi như nung như đốt
Kẻ thù ta hiện đang bị công kích ở Âu châu, chúng bắt người mình đem
sang Tây làm bức tường đỡ đạn. Chúng bóc lột tài sản nước mình để tiếp tế
quân nhu. Bà con ta bị bắt đem sang Tây từ mấy năm nay, tội nghiệp người
sống thì phải trần lực ra làm lụng vất vả, người chết cũng chẳng được chôn
cất tử tế. Thương hại con côi vợ goá ngồi trong nhà kêu van, ông già bà lão ra
ngoài vườn khóc lóc. Tình cảnh nước nhà đau khổ không thể tưởng tượng.
Những nỗi đau đớn kể sao cho hết, tóm lại, cái kiếp sống của dân ta điêu đứng
đến nông nỗi này… không tài nào cam chịu được nữa.
Nước ta khổ sở kiệt quệ, sống dở chết dở, cảnh ngộ có khác gì một sợi
chỉ mỏng manh sắp đứt, chịu đựng đau đớn nhiều quá, bà con nhà ta như kẻ
nằm liệt trên giường bệnh, hấp hối tắt hơi.
Phen này chúng ta ra sức phấn đấu để khôi phục độc lập cho Tổ quốc,
nếu bất hạnh mà mục đích không đạt, đại công không thành thì cuộc đời hết
cả sinh thú, chúng ta cũng chẳng thiết sống làm gì cho nhục nhằn khốn khổ.
Bản chức, Thái Nguyên Quang phục quân Đại đô đốc, từ trước tới nay,
không hề có giây phút nào quên lãng nỗi khổ của đồng bào dân chúng, ngay
từ khi còn sống lam lũ ở chốn thôn quê làm nghề cày ruộng, lòng hằng băn
khoăn tức tối về thảm hoạ vong quốc. Nhiều lần ta đã lập tâm xướng nghĩa
khởi binh, tuốt gươm giết giặc, nhưng rồi lại phải ngậm hờn khoanh tay, là
bởi ta chưa gặp thời cơ nào thuận tiện cho được thực hành chí muốn. Vì thế ta
đành ẩn nhẫn ra đi lính tập, hơn mười năm trường được sống chung chạ với
bao nhiêu anh em cường tráng nước nhà mà phải ngậm miệng làm thinh,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
nhưng lúc nào ta cũng nuôi hoài bão cứu thù Pháp tặc, chớ hề biến tâm thoái
trí. Từ trước tới đây chỉ bởi lực lượng chưa đủ, ngoại viện chưa có theo như ý
ta mong mỏi, cho nên ta không muốn mưu toan đại sự một cách chơ vơ, tháo
thế.
Hôm nay, thời cơ đã đến, trong nước thì có những bạn đồng tâm, đồng
chí cùng ta tuốt gươm chĩa súng đánh giết quân thù, bên ngoài thì có những
nhà cách mạng ta bấy lâu trú ngụ bên Nhật, bên Tàu, giờ này sắp sửa đem
quân nhu khí giới về giúp ta, hợp lực với ta đánh đuổi Pháp tặc.
Ta chiêu tập những anh em có tinh thần tự do độc lập, có nhiệt tâm yêu
nước thương nòi, lập thành những đạo binh cứu quốc và hôm nay ta bắt đầu
khôi phục lấy tỉnh Thái Nguyên. Lá cờ năm ngôi sao đã kéo lên phấp phới
trên kỳ đài, ta đã tuyên bố Thái Nguyên độc lập.
Cũng làm con dân nước Việt Nam, chúng ta phải coi nhau như anh em
ruột thịt một nhà, vậy ai là người thông minh học thức có thể đến đây vì ta trù
mưu hoạch sách làm những việc ích lợi chung, ai là người sức khoẻ mạnh thì
mau mau đem bắp thịt cánh tay đến giúp đỡ ta trong cuộc chiến đấu
Anh em ta cố sức phấn khởi phen này, đồng tâm hiệp lực, đả đảo quân
thù
Những ai đứng vào hàng ngũ ta cùng ta tuốt gươm giết giặc, ta rất hoan
nghênh, ta để cho mỗi người được thi thố tài năng sáng kiến trong cuộc tranh
đấu tự do độc lập chung.
Còn những kẻ nào vẫn cam tâm nô lệ phò tá quân thù thì hãy coi chừng,
ta sẽ lấy đầu không tha!
Nay bố cáo
(Ký tên và đóng dấu son)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Phụ lục 2
Bản Tuyên ngôn thứ hai
Đại Hùng đế quốc năm thứ nhất
tháng 7, ngày 14
Thái Nguyên tỉnh, Quang phục quân
Đại đô đốc Trịnh
bố cáo cho dân chúng đồng bào được biết:
Than ôi! Trời giáng tai hoạ, nước Nam nghèo nàn. Trận gió xâm lược từ
Tây phương thổi tràn sang Đông, nhiều thế hệ ta bị lôi cuốn tiêu diệt bởi nó
Kể có năm chục năm nay, cơ đồ hương hoả chúng ta trơ trụi giống như
một bãi sa mạc, những người tinh hoa trong nước phải sống trong cuộc đời nô
lệ bi thảm, bốn mươi triệu anh chị em đồng bào khóc than rên rỉ với nhau như
đang ở trong nước sôi lửa nóng. Tình cảm Tổ quốc đồng bào khiến cho những
chiến sĩ ái quốc phải động lòng xót xa.
Bao nhiêu nỗi khổ sở bấy lâu Trời hành chúng ta, hôm nay là hết.
Đấng hoàng thiên bắt ta phải chịu đau đớn để thử tinh thần khí tiết chúng
ta, nay ngài rủ lòng đoái thương, muốn trả lại cho ta mọi sự sung sướng thịnh
vượng
Bên ngoài ta có những bậc tài năng lỗi lạc đã hấp thụ ánh sáng ở các
nước văn minh ngoại dương, giờ đem ánh sáng ấy soi đường dẫn bước cho ta
tiến hành, trong nước thì có những người nhiệt tâm học thức, đem ra áp dụng
vào việc báo thù cứu quốc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Năm Mậu Thân chúng ta đã giết quân thù ở giữa Hà Nội làm chúng kinh
hồn hoảng vía
Năm Kỷ Dậu, cuộc khởi nghĩa Lạng Sơn khiến lòng phẫn uất của người
mình được hả hơi ít nhiều
Ngoài ra phong trào Đông Kinh nghĩa thục đã kích thích tinh thần ái
quốc một độ rất sôi nổi: tỉnh Quảng Nam nổi lên phản kháng sưu thuế, một
người học sinh mạo hiểm ném bom giữa thành phố Hà Nội, trong Nam Kỳ,
Xích Long kéo cờ khởi nghĩa chống cự kẻ thù. Tóm lại chúng ta vì văn minh
và chủ quyền của Tổ quốc ra sức phấn đấu hơn mười năm nay tinh thần ái
quốc ngày càng mạnh. Những việc làm nỗ lực cứu quốc của ta đã khiến quân
thù khiếp đảm, đồng thời lại gọi được hồn độc lập của quốc dân tỉnh ngộ phấn
phát.
Hiện thời cả Âu châu đang rối ren lục đục, tàn sát lẫn nhau, Pháp tặc
nguy khốn ở ngay trong đất nước chúng. Anh với Nga đã cùng Đức giảng hòa
riêng, thế là Pháp cô lập, mất hai tay tả phù hữu bật trọng yếu.Thổ với Áo đã
chẹn ngang quân Ý để tiến binh và đất Pháp, đánh giữa chỗ chí mạng, thành
Ba – lê không thể giữ nổi, sắp mất đến nơi.
Bản thân Pháp tặc đã bị nguy ngập đến thế , làm sao còn khoe khoang
bảo hộ chúng ta được không biết ?
Vậy ta nên nhân lúc Pháp tặc yếu thế, thừa lấy cơ hội hiếm hoi, thiên tải
nhất thì này mà báo thù tuyết hậu, khôi phục giang san.
Nay phụng mệnh Hoàng đế, ta tổ chức quân đội, hợp lực trong ngoài,
nhất quyết đánh đuổi quân thù ra khỏi đất nước. Ta đã liên kết với Trung
Quốc; võ quan với quân sĩ ta từng chịu huấn luyện binh học tân thời ở các
trường võ bị Trung Quốc và Nhật Bản, ai nấy đã trải nhiều chiến trận, có kinh
nghiệm quân sự phen này cùng hăm hở đem tài học và tính mạng về, sẵn sàng
hi sinh cho tổ quốc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Với mười muôn hòm súng đạn và một ngàn phi cơ ở ngoài đem về, ta sẽ
đánh quân thù những đòn sấm sét, chỉ trong nay mai ta sẽ chiến thắng thành
công.
Quân đội cách mạng ta có nghĩa vụ với dân cứu nước, quyết không sách
nhiễu và không tơ hào xâm phạm đến tài sản của dân, bất cứ trong lúc hành
binh trong khi đồn trú nơi nào, Quang phục quân chỉ có một việc là thu phục
bờ cõi của tổ tiên, diệt trừ quân giặc bạch chủng, để cho toàn thể quốc dân
đồng bào được hưởng tự do, an cư lập nghiệp.
Hỡi đồng bào: Ta phải cùng nhau gắng công ra sức phen này, hầu làm
cho trọn sự nghiệp vĩ đại, lá cờ ngũ tinh được phấp phới vẻ vang khắp cả năm
châu , không phụ lòng trông mong tin cậy của tổ quốc.
Hỡi đồng bào! Một quốc gia tân tạo vững bền thiên thu vạn tuế, bắt đầu
xây dựng từ ngày hôm nay. Toàn thể đồng bào cùng có trách nhiệm tháo ách
nô lệ đè đầu đè cổ chúng ta bấy lâu.
Nay bố cáo
(Ký tên và đóng dấu son)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Phụ lục 3
Chân dung ông Đội Cấn tức Trịnh Văn Cấn (1881-1918)
Ảnh tư liệu của Bảo tàng Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Phụ lục 4
Chân dung ông Lương Ngọc Quyến tức Lương Lập Nham 1885-1917)
Ảnh trích trong “ Lương Ngọc Quyến và khởi nghĩa Thái Nguyên năm
1917” của Đào Trinh Nhất, Quốc dân thư xã xuất bản.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Phụ lục 5
Sở Bưu điện Thái Nguyên năm 1897-Ảnh tư liệu của Bảo tàng Thái Nguyên
Phụ lục 6
Đồn Đình Cả- Võ Nhai- Thái Nguyên xây dựng năm 1915
Ảnh tư liệu của Bảo tàng Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Phô lôc 7
N
h
à
t
ù
T
h
á
i
N
g
u
yê
n
x
â
y
d
ự
n
g
n
ă
m
1
9
0
3
-
Ả
n
h
t
ư
l
iệ
u
c
ủ
a
B
ảo
t
àn
g
T
h
ái
N
g
u
y
ên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Phụ lục 8
Trại lính khố xanh ở Thái Nguyên năm 1893 –
Ảnh tư liệu của Bảo tàng Thái Nguyên
Phụ lục 9
Đồn bốt ở Thái Nguyên - Ảnh tư liệu của Bảo tàng Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Phụ lục 10
D
in
h
c
ô
n
g
s
ứ
t
ỉn
h
T
h
ái
N
g
u
y
ên
x
ây
d
ự
n
g
n
ăm
1
8
9
6
-1
8
9
7
Ả
n
h
t
rí
ch
t
ro
n
g
H
is
to
ri
e
et
M
il
it
ai
re
d
e
la
p
ro
v
in
ce
d
e
T
h
ái
N
g
u
y
ên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Phụ lục 11
Trại lính thủy tại Thái Nguyên - Ảnh trích trong Historie et Militaire de la
province de Thái Nguyên
Phụ lục 12
Trụ sở cảnh sát tỉnh Thái Nguyên xây dựng năm 1897 - Ảnh trích trong
Historie et Militaire de la province de Thái Nguyên
Phụ lục 13
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
B
ản
đ
ố
t
h
ự
c
d
ân
P
h
áp
đ
àn
á
p
c
u
ộ
c
k
h
ở
i
n
g
h
ĩa
b
in
h
l
ín
h
c
ủ
a
Đ
ộ
i
C
ấn
n
ăm
1
9
1
7
-
Ả
n
h
t
ư
l
iệ
u
c
ủ
a
B
ảo
t
àn
g
T
h
ái
N
g
u
y
ên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Phụ lục 14
Ảnh do Giáo sư - nhà giáo Đinh Xuân Lam cấp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Phụ lục 15
Đền thờ ông Trịnh Văn Cấn - Ảnh tư liệu của Bảo tàng Thái Nguyên
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp ở tỉnh Thái Nguyên trong thời kỳ 1884 - 1918.pdf