Mặc dù cách tư duy diễn đạt bằng hình ảnh không phải là cách biểu hiện
mang tính đặc thù trong ngôn ngữ thơ ca của bất cứ dân tộc nào, nhưng sắc
thái để khu biệt tính đặc trưng trong thơ của từng dân tộc lại rất rõ. Nó được
biểu hiện bằng cách sử dụng những hình ảnh gần gũi quen thuộc với cuộc
sống của từng vùng, từng dân tộc, thậm chí cả đặc điểm tâm lí và cá tín h của
dân tộc cũng phần nào được bộc lộ qua những hình ảnh đó. Chẳng hạn, những
hình ảnh so sánh ví von với “cá” thường được sử dụng như một đặc trưng
trong thơ của các dân tộc Mường, Thái do đặc trưng sinh sống ở ven các con
sông và việc canh tác lúa nước. Vậy nên, trong thơ Thái hiện đại mới hay xuất
hiện những hình ảnh so sánh như: “Cổ tay em tròn đuôi cá” (Sầm Nga Di),
“Bàn chân xinh xắn như đuôi cá xoè” (Lương Quy Nhân).
105 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2147 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số đặc điểm của thơ ca dân tộc mông thời kỳ hiện đại (từ 1945 đến nay), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ở lại cùng hợp tác xã
trồng cấy” để “cho cuộc sống bền nơi ở” (Sùng A Giàng). Ca ngợi cuộc sống
định canh định cư, theo lời của Đảng, thể hiện tấm lòng biết ơn Đảng: “Có
Đảng đưa đường chỉ lối/Người Mèo vùng cao ta/Ở bền nơi, làm bền nơi”
(Giàng A Gia). Tin tưởng vào tương lai hạnh phúc sẽ đến với dân tộc nhà thơ
Mông bày tỏ “Ta ngọt lòng/Bền nơi làm, bền nơi ở”. Kêu gọi mọi người hăng
hái tích cực tham gia trồng rừng, bảo vệ rừng, nhà thơ bày tỏ ước nguyện phải
giữ cho được “Rừng cây bát ngát đậm đặc/Ở bền cùng ta như người yêu”
(Sùng A Trống). Người Mông có tiếng là thuỷ chung trong tình cảm vợ
chồng, hình ảnh người phụ nữ Mông lặng lẽ xoè ô bên vệ đường che cho
chồng nằm ngủ, kiên nhẫn chờ chồng vãn cơn say là một hình ảnh quen thuộc
trong các chợ phiên miền núi. Người Mông xác định rất rõ sự cần thiết phải
có cuộc sống thuỷ chung “Một vợ một chồng/Sống đời như nàng tiên hoa
đẹp/Vợ cả vợ lẽ/Sống đời rối mù như cầy cào nhau”. Sở dĩ có sự so sánh như
vậy là vì cách nói “nàng tiên hoa đẹp” và “rối mù như cầy cào nhau” rất quen
thuộc, rất gần gũi với người Mông, đó là ngôn ngữ hàng ngày nên dễ hiểu,
gây được ấn tượng và cảm tình của đồng bào dân tộc Mông. Cách lựa chọn
những từ ngữ hình ảnh quen thuộc đưa vào thơ ca góp phần tạo cho thơ Mông
có một nét bản sắc riêng. Tuy nhiên, việc lặp lại quá nhiều từ ngữ hình ảnh
như vậy cũng đồng thời là một hạn chế, nó tạo ra sự khuôn mẫu, sáo mòn đôi
khi đến tẻ nhạt, thiếu đi những từ ngữ hình ảnh sáng tạo, độc đáo tạo nên dấu
ấn riêng của từng nhà thơ. Việc sử dụng những từ ngữ hình ảnh quen thuộc
mà vẫn đặc sắc và thi vị là tài năng riêng của mỗi nhà thơ, có xuất hiện nhưng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
77
không nhiều trong thơ Mông. Ta có thể nhận ra điều đó trong thơ của Mã A
Lềnh với hình ảnh người đàn ông Mông phong trần với “mái đầu trơ một
mỏm đá hoang” và tính cách mạnh mẽ phóng túng “nghênh ngang, xù xì như
hòn đá tảng giữa ngàn lau”. Nếu thành công trong việc sử dụng những từ ngữ
hình ảnh quen thuộc như vậy, thơ hiện đại dân tộc Mông chắc chắn sẽ có
được một vị trí cao hơn nữa trong sự mến mộ của người đọc cũng như trong
nền thơ ca hiện đại của dân tộc.
3.2.2. Ngôn ngữ giàu tính biểu cảm, giàu nhạc điệu
Ngôn ngữ thơ Mông hiện đại rất giàu tính biểu cảm, giàu cảm xúc và
nhạc điệu. Đây cũng chính là đặc trưng của ngôn ngữ thơ ca nói chung. Tuy
nhiên, thơ Mông đặc sắc ở chỗ tính biểu cảm và nhạc điệu của thơ phù hợp
với thị hiếu thẩm mĩ của người Mông, bởi nó xuất phát từ việc phản ánh đời
sống tình cảm của mỗi cá nhân trong cộng đồng Mông mà những nhà thơ là
người đại diện. Họ có tâm thế của người trong cuộc nên hiểu rõ cách nghĩ,
cách cảm của đồng bào.
Người dân tộc thiểu số nói chung ưa nói những lời có vần, một phần do
văn học truyền miệng ngự trị quá lâu trong đời sống tinh thần của họ, vì chữ
viết xuất hiện muộn. Cách nói vần vè có ưu thế là dễ nhớ, dễ thuộc, đặc biệt là
những thành ngữ tục ngữ được vận dụng trong ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày.
Dân tộc Mông cũng vậy, từ thơ ca dân gian đến thơ hiện đại không có sự cách
biệt quá lớn về mặt hình thức và cả cách tư duy, biểu hiện. Bởi vậy, thơ hiện
đại Mông cho dù có được sáng tác ghi lại bằng chữ Mông hay bằng chữ quốc
ngữ, con đường đi đến trái tim, khối óc của đồng bào Mông vẫn chủ yếu là
con đường truyền khẩu. Cách nói vần vè là cơ hội thuận lợi để các nhà thơ
Mông bày tỏ tình cảm của mình phù hợp với việc diễn tả nội dung của các bài
thơ mang cảm hứng chung là ngợi ca. Từ cảnh cảnh đẹp của thiên nhiên rực
rỡ và tráng lệ trên những triền núi cao quê hương của người Mông: “Mặt trời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
78
nâng hoa mây/Bồng bềnh sáng núi đá”, đến cảnh đẹp của đời sống người
Mông đầm ấm, tươi vui trong vụ mùa thu hoạch “Bậc thang vút lên mây/Mùa
vào thơm lúa chín/Hương lúa tràn quê hương”, và tình cảm yêu mến đến tự
hào về môi trường sống đặc trưng của dân tộc mình: “Người Mèo ta trên
núi/Rừng trập trùng mây bay mây lượn” (Giàng A Páo).
Cách nói vần vè làm cho thơ hiện đại Mông mang một đặc điểm chung
là giàu nhạc điệu. Những nhà thơ là những nhạc sĩ tài hoa trong việc phối kết
các âm thanh của ngôn từ để tạo ra một bản nhạc riêng của các bài thơ. Âm
điệu chung của thơ Mông là âm điệu gần gũi với dân ca và chịu ảnh hưởng
nặng nề của dân ca Mông. Điều đó lí giải tại sao các bài thơ của các tác giả
Mông lại có thể hát lên trong các sinh hoạt tập thể, các lễ hội mà không cần
phải phổ nhạc. Sự phối hợp tài tình các âm vực cao thấp trong ngôn ngữ thơ
tạo cho thơ Mông một sự cân đối, hài hoà: “Nắng trời con chim con sâu
lượn/Trời nắng con chim con bướm đỗ”. Sự cân đối trong hình thức các câu
thơ không chỉ ở số lượng câu chữ mà ở cả sự cân đối về thanh điệu. Ở đó các
thanh bằng, thanh trắc được kết hợp với nhau một cách nhịp nhàng, uyển
chuyển. Cách kết hợp như vậy tạo ra vần điệu cho thơ Mông như là một nét
đặc trưng, khó lẫn với thơ ca của các dân tộc khác. Ta gặp rất nhiều trong các
bài thơ của các tác giả Mông lối diễn đạt như vậy: “Cái ao ruộng hai đầu
bằng/Cái ruộng ao hai đầu lặng” (Hùng Đình Quí), “Hoa chàm nở chênh
chênh dốc sườn đồi/Hoa chàm nở chênh chênh cao sườn núi” (Giàng A Páo);
“Người mẹ giỏi tay nuôi/Người cha khéo tay đặt” (Sùng A Thào); “Cha trao
cho tôi tuổi tác/Mẹ ban phát linh hồn/Cha đắp bồi trí tuệ/Mẹ cho trọn điều
khôn” (Mã A Lềnh) …
3.2.3. Ngôn ngữ, hình ảnh mang sắc thái đặc trưng của dân tộc Mông
Ngôn ngữ, hình ảnh của một dân tộc là sản phẩm của đời sống văn hoá
tinh thần của dân tộc ấy. Thơ hiện đại dân tộc Mông cũng vậy. Các nhà thơ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
79
bao giờ cũng có nét tương đồng, thậm chí trùng hợp trong việc sử dụng hình
ảnh thơ, nhất là những hình ảnh đặc trưng cho thiên nhiên con người và cuộc
sống cộng đồng mình. Trong thơ Mông hiện đại, ta bắt gặp rất nhiều những
hình ảnh thơ được trở đi trở lại nhiều lần có giá trị như những biểu tượng.
Biểu tượng cho thiên nhiên của dân tộc Mông có lẽ là những hình ảnh “núi”,
“mây”, và “mặt trời”. Có lẽ, do sống trên những triền núi đá cao nên gần gũi
nhất với người Mông là núi; do khí hậu khắc nghiệt gần như quanh năm
sương mù che phủ nên mặt trời là biểu tượng của sự ấm áp; những buổi chiều
mùa hè trời như cao hơn, nắng pha sắc màu cho những đám mây nên mây là
biểu tượng của cái đẹp. Khác với thơ của người Kinh và các dân tộc thiểu số
khác, thiên nhiên của người Mông không có những dòng sông nên vì vậy mà
trong thơ hiện đại Mông hình ảnh những dòng sông cũng rất hiếm hoi hoặc
gần như không xuất hiện. Hay như trong thơ của người Thái, hình ảnh hoa
ban xuất hiện nhiều, như là nét đặc trưng thì trong thơ Mông hình ảnh của loài
hoa đặc trưng lại là hoa đào, hoa phong lan: “Ngọn núi lưng rừng nào cũng
đến mùa xuân hoa đào mới nở” (Mùa A Sấu), “(Em) trắng đẹp trắng xinh
như hoa mạch hoa lan nở giữa rừng” (Hùng Đình Quí).
Những hình ảnh “núi”, “đá núi” xuất hiện trong thơ Mông hiện đại không
chỉ đơn thuần là nội dung phản ánh của hiện thực cuộc sống người Mông, cuộc
sống của một dân tộc “Sinh trên đá đợi bạn tình trên đá” (Triệu Kim Văn) mà
nhiều khi, như những hình ảnh của sự so sánh, liên tưởng, ẩn dụ rất độc đáo và
đặc sắc. Dáng vẻ uy nghi, sừng sững của những ngọn núi là hình ảnh để so
sánh với công ơn của Đảng của Bác Hồ đối với người Mông: “ơn Bác Hồ
người Mông nợ/Chồng cao bằng núi đất/chất cao bằng núi đá”. Có khi để diễn
tả niềm vui, nhà thơ Mông dùng hình ảnh “đá nở hoa, hang sai quả”. Hình ảnh
người đàn ông Mông phóng túng, phong trần với “mái đầu trơ một mỏm đá
hoang”, và tính cách “nghêng ngang, xù xì như hòn đá tảng giữa ngàn lau”...
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
80
Hình ảnh “nắng” “mặt trời” xuất hiện trong thơ Mông với một mức độ
gần như dầy đặc, với những ẩn dụ, so sánh, liên tưởng hết sức phong phú.
Mặt trời là Đảng, là Bác Hồ, là cuộc sống no ấm, hạnh phúc: “Mặt trời đến
sớm toả tia nắng/Như ánh sáng của Đảng soi”, “Mặt trời chiếu tia nắng
xuống bên đồi dốc/Ta có Bác Hồ - Bác Hồ bảo người Mông ta cách làm ăn”
(Sùng Nhìa Tú). Nhiều bài thơ sử dụng cách so sánh ví von trực tiếp hình ảnh
mặt trời như: “Có cụ Hồ về”(Giàng A Của), “Mặt trời hoa mây” (Giàng A
Páo), “Ánh mặt trời” (Giàng A Lử), “Mặt trời, mặt trăng và Bác Hồ” (Sùng
Nhìa Tú), “Nhớ đến Chính phủ” (Vừ Thị Dưa)... Bên cạnh đó, có những bài
thơ mà hình ảnh “nắng” “mặt trời” mang ý nghĩa ẩn dụ, bộc lộ kín đáo suy
nghĩ, tình cảm của các tác giả: “Ngửa mặt lên tôi say uống nắng vàng”, “Ở
trên đầu nắng rọi mênh mang”, “Nắng lại toả xua tan u ám - trong lòng ta
mang sắc nắng tràn trề”. Hơn ai hết người Mông nhận thức sâu sắc sự cần
thiết của nắng đối với sự sống: “Cuộc sống này sinh sôi vì có nắng/Nắng đậu
trên môi nụ cười tươi rạng” (Mã A Lềnh)...
Những bài thơ viết về cuộc sống đồng bào Mông xuất hiện rất nhiều
những hình ảnh “cây lanh”, “sợi lanh”, “con ong”, “chim ri”, “chim khướu”,
“ruộng bậc thang”... như những hình ảnh vừa gần gũi với cuộc sống, vừa là
đặc trưng cho cuộc sống của người Mông. Sợi lanh dường như là một thứ “bất
li thân” của người phụ nữ Mông, khi đi nương, đi rẫy, khi làm bếp, ngay cả
trong lúc nghỉ ngơi, người phụ nữ vẫn luôn luôn tước lanh để rồi dệt nên
những trang phục vừa bền chắc, vừa rực rỡ sắc màu. Vì vậy, trong thơ Mông,
hình ảnh sợi lanh như một biểu tượng cho sự cần mẫn chăm chỉ và cho cả tình
yêu chung thuỷ: “Sợi lanh căng do em se/ Đôi ta kết đường tình duyên”,
“Trước cửa nhà em có cây lanh mọc/Ong mới về tìm đậu” (dân ca Mông),
“Guồng se lanh nối dài vô tận sợi lanh/ Mùa xuân này trời xui đất khiến cho
em gặp anh” (Mã A Lềnh). Hình ảnh “tổ ong khoái, ong mật” thường được
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
81
các nhà thơ Mông sử dụng để thể hiện sự đoàn kết và niềm vui trong cuộc
sống: “Mẹ con, bố con/ Sống tưng bừng như một tổ ong mật”, “Để người vùng
cao vùng thấp/ Mới được ở ầm vang như tổ ong khoái ong mật” (Hùng Đình
Quí), “Có ngày cuộc sống của ta như ong khoái” (Sùng A Trống), “Đôi ta
thành vợ chồng/ Nảy nở sinh sôi như tổ ong mật” (dân ca Mông)...
Chúng tôi không có điều kiện để khảo sát đầy đủ những hình ảnh mang ý
nghĩa biểu tượng trong thơ ca Mông, sự xuất hiện với tần số cao những hình
ảnh tiêu biểu của thiên nhiên con người và cuộc sống vật chất tinh thần của
người Mông góp phần làm cho thơ hiện đại Mông mang một đặc trưng riêng
hay nói cách khác, đó là một trong những biểu hiện của bản sắc dân tộc trong
thơ Mông hiện đại. Những hình ảnh “chim khướu, chim ri”, “tiếng khèn”,
“đàn môi” … là những biểu tượng đặc trưng cho những nét phong cách và
sinh hoạt của người Mông, rất cần những nghiên cứu một cách cụ thể, riêng
biệt. Thiết nghĩ, chắc chắn đó sẽ là những khám phá lí thú về vấn đề đặc trưng
bản sắc của dân tộc Mông.
3.3. Cấu trúc, nhịp điệu trong thơ Mông thời kỳ hiện đại
3.3.1. Cấu trúc, nhịp điệu chịu ảnh hưởng của thơ ca truyền thống dân
tộc Mông
Kết cấu của bài thơ là một trong những phương tiện để biểu đạt nội
dung. Kết cấu của bài thơ còn phần nào bộc lộ những đặc điểm về tâm lí, cách
tư duy, biểu đạt của từng tác giả. Thơ Mông hiện đại mang những đặc trưng
riêng mà theo chúng tôi có thể phân chia thành hai xu hướng kết cấu của các
bài thơ: Xu hướng kết cấu truyền thống và xu hướng kết cấu hiện đại.
Kết cấu theo lối truyền thống là một trong những đặc trưng nổi bật của thơ
Mông hiện đại. Đó vừa là một ưu thế đồng thời vừa là một hạn chế nhất định của
thơ Mông. Sử dụng các hình thức kết cấu của thơ ca truyền thống tạo cho thơ
Mông có đặc điểm riêng biệt, dễ nhận ra, giàu bản sắc. Tuy nhiên, sử dụng quá
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
82
nhiều hình thức kết cấu đó sẽ làm cho các bài thơ trở nên đơn điệu, dễ nhàm
chán, không bắt kịp được với lối tư duy hiện đại, là một sự kìm hãm trong việc
chuyển tải nội dung phản ánh cũng như ý đồ nghệ thuật của các tác giả.
Thơ Mông hiện đại chịu ảnh hưởng rất lớn của dân ca Mông về mặt hình
thức kết cấu. Lối kết cấu đối ngẫu, lặp lại nhiều lần những từ ngữ, hình ảnh,
cấu trúc câu thơ kết hợp với sự phối âm các thanh điệu bằng trắc làm cho thơ
Mông hiện đại có những giai điệu rất gần với dân ca Mông:
Em gầu Mông
Nếu em nhớ dài, anh nhớ lâu
Thì cho dù hang ra hoa, đá ra quả
Cũng chẳng ai tách rời được hai ta đâu!
Nếu em nhớ đầy, anh nhớ đủ
Thì cho dù đá ra quả, hang ra hoa
Cũng chẳng ai tách rời hai ta được!
(Đợi chờ - Hùng đình Quí)
Thậm chí, có những bài thơ Mông đọc lên chúng ta có cảm giác đã thấy
rõ những giai điệu để có thể cất ngay lên tiếng hát:
Trên vòm trời mây quang
Dưới vòm trời trăng sáng
Con chim hoạ mi nhảy nhót
Con chim khướu đậu cành lan hót vang
Qua hội xuân này kẻo mình đi nhà mình, ta trở về nhà ta thôi
Đôi ta không còn tựa lưng nhau thổi đàn môi
(Hội xuân - Mã A Lềnh)
Thơ Mông giàu nhạc điệu, một phần là do âm hưởng của dân ca Mông
quá sâu đậm chi phối từ cảm xúc đến kết cấu, từ hình ảnh đến nhịp điệu của
từng câu thơ:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
83
Em là cô gái Mèo hoa
Anh là chàng trai Tày trắng
Trời có mắt trời cho ta thấy
Đất có lòng, đất cho ta duyên
Trời đất se duyên bên sườn núi
(Tình ca ở Chu Lầu Thí - Giàng Xuân Hồ)
Tuy nhiên, ảnh hưởng quá nhiều từ hình thức kết cấu của dân ca làm cho
thơ Mông hiện đại không tránh khỏi sự lặp lại đến đơn điệu, đôi khi cũ kĩ, sáo
mòn: “Con bướm vàng mặc váy hoa vàng/ Ngày ngày làm dáng /chạy loăng
quăng bên rừng/ Con bướm mặc váy mới hoa lụa/ Ngày ngày làm dáng chạy
nhênh nhang” (Giàng A Tủa), “Anh trai Mông/ Nước trong, trong vắt không
vẩn đục/ Anh hãy đi rồi mau trở lại/ Nước trong, trong vắt không vẩn ngầu
/Anh hãy đi rồi mau rồi trở về” (Hùng Đình Quí).
Kết cấu đối ngẫu, trùng điệp làm cho thơ Mông trở nên dàn trải, thiếu sự
cô đọng cần thiết. Đây cũng chính là một trong những hạn chế của những bài
thơ chịu ảnh hưởng quá nặng nề của hình thức dân ca. Tuy nhiên, nó có vẻ lại
là món ăn “hợp khẩu vị” của người Mông ở khả năng hành dụng hát không
cần phổ nhạc. Vì thế mà những bài thơ của Hùng Đình Quí, Giàng A Páo
trước nay vẫn được nhiều người Mông ưu thích.
3.3.2. Xu hướng hiện đại trong cấu trúc, nhịp điệu của thơ ca Mông thời kỳ
hiện đại
Bên cạnh xu hướng kết cấu thơ chịu ảnh hưởng của thơ ca truyền thống,
thơ ca hiện đại Mông còn mang những đặc điểm của cấu trúc thơ ca hiện đại.
Điều này thể hiện rất rõ trong việc dồn nén câu chữ, đặc biệt là cách gieo vần,
ngắt nhịp trong các câu thơ, bài thơ. “Nếu so với dân ca dân tộc thiểu số thì
thơ hiện đại dân tộc thiểu số đã có một bước nhảy vọt về nội dung tư tưởng và
nghệ thuật thể hiện” [58;59]. Thơ Mông hiện đại cũng vậy, xu hướng thoát li
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
84
truyền thống trong hình thức thơ bộc lộ rất rõ. Trước hết, sự cô đọng thể hiện
ở nhan đề các bài thơ. Nếu như giai đoạn trước năm 1975, thơ Mông thường
chỉ có nội dung dàn trải, giọng điệu giãi bày, kể lể; tên các bài thường dài
(chẳng hạn, các bài thơ “Mặt trời, mặt trăng và Bác Hồ” của Sùng Nhìa Tú;
“Ánh đuốc trên đỉnh Vần Chải” của Hùng Đình Quí; “Chim Câu kỉ Giàng gọi
mùa” của Giàng A Của, “Núi mọc trong mặt gương” của Mùa A Sấu …) thì
thơ Mông sau 1975 thiên về những bài thơ ngắn với cách đặt tiêu đề cũng rất
cô đọng, chắt lọc. Tập “Mã A Lềnh thơ” (2002) gồm 42 bài thơ, trong đó,
xuất hiện tới 22 bài thơ nhan đề chỉ có từ một đến hai chữ. Bài thơ có tiêu đề
dài nhất cũng chỉ có bốn chữ. đặc biệt xuất hiện những bài thơ tứ tuyệt mà
gần như chưa bao giờ xuất hiện trong thơ Mông trước đây. Thậm chí có
những bài thơ nhỏ chỉ có hai câu (“Nhà văn”, “Thực tế”, “Văn”, “Thơ”,
“Truyện ngắn”, “Trường ca” - gần như là những định nghĩa riêng, độc đáo
trong “chùm thơ đạo nghiệp” của Mã A Lềnh).
Thể loại lục bát là một hình thức kết cấu gần như độc quyền phổ biến
của thơ ca dân tộc Kinh, đã được sử dụng khá thành công trong thơ của các
dân tộc thiểu số khác từ sau cách mạng tháng Tám, cũng đã xuất hiện trong
thơ hiện đại của dân tộc Mông một cách khá nhuần nhuyễn:
Lương hưu đầu tháng lĩnh rồi
Đưa em nguyên vẹn. Em cười cất đi
(Hưu - Mã A Lềnh)
Thậm chí, có những bài thơ mà cấu trúc thể loại lục bát đã được cách
điệu, tạo nên cách ngắt nhịp mang dấu ấn nghệ thuật khá rõ:
Tuyết buông
nhoà trắng
góc trời
Sương sa trên má
một người
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
85
vợi xa
Cánh chim chấp chới
chiều tà
Thinh không
lá rụng
vỡ oà
hoàng hôn
(Chiều xưa - Mã A Lềnh)
Cách ngắt nhịp theo kiểu chẻ nhỏ các câu thơ, “đánh rơi” từng con chữ
hay lối thơ bậc thang từng xuất hiện trong thơ của Nguyễn Vĩ trong phong
trào thơ mới mà theo các nhà nghiên cứu phê bình, chịu ảnh hưởng rõ rệt của
thơ Maiacopxki trước đây cũng được các tác giả người Mông như Mã A
Lềnh, Mã Ngân Hà sử dụng, cũng không thể nói là không được những hiệu
quả nghệ thuật nhất định:
Đường con đi phía trước
bắt đầu
từ
CHA
(Cha - Mã Ngân Hà)
Có giọt đau nào
trót
sa
nơi
ngực
rồi
phải không cha?
(Với cha - Mã A Lềnh)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
86
Thậm chí, thơ văn xuôi là một biến thể đặc biệt của thơ trữ tình cũng đã
được các nhà thơ Mông sử dụng với sự bộc lộ, tuôn chảy mãnh liệt của cảm
xúc: “Tôi chợt vô ý nước mắt chan ra say đắm lang thang một mình đứng xem
các bạn Chăm say sưa với điệu dân ca dân vũ suốt ngàn năm sương rừng
gió núi và hoàn thiện qua bấy nhiêu năm ánh sáng cách mạng soi đường”
(Từ Vân Hồ ‟86 - Mã A Lềnh).
Có thể nói, các nhà thơ hiện đại dân tộc Mông đang kiên tâm bền bỉ trên
hành trình đổi mới cho thơ, với những mong ước rất đáng trân trọng là để thơ
dân tộc Mông tạo nên một nguồn mạch mới, bắt nhịp và chan hoà vào dòng
chảy chung của thơ ca hiện đại các dân tộc thiểu số nói riêng và thơ ca Việt
Nam hiện đại nói chung.
3.4. Tƣ duy, diễn đạt trong thơ Mông thời kỳ hiện đại
3.4.1. Tư duy trực quan hình ảnh
Tư duy trực quan hình ảnh là đặc điểm chung của người miền núi, đúng
hơn là đặc điểm chung của người dân tộc thiểu số. Đó là sự tự biểu hiện của
khả năng nhận thức và biểu đạt của cá nhân trước một vấn đề trừu tượng đòi
hỏi phải diẽn đạt bằng ngôn ngữ với mục đích để người đọc, người nghe dễ
dàng tiếp nhận. Thơ dân tộc thiểu số nói chung và thơ dân tộc Mông nói
riêng, rất giàu hình ảnh. Tư duy hình ảnh tạo nên sự phong phú độc đáo cho
hình tượng thơ. Lựa chọn những hình ảnh có khả năng diễn tả chính xác nội
dung cần biểu hiện làm cho những câu thơ, bài thơ trở nên sinh động và có
tính biểu cảm cao, gây được ấn tượng mạnh mẽ với người đọc. Chẳng hạn, để
miêu tả cái nắng nóng gay gắt đến khắc nghiệt của những ngày hè, nhà thơ
Nông Quốc Chấn có những câu thơ đầy hình ảnh: “Mặt trời như bốc lửa/
Nắng vỡ ống bương/Bụi mù trên nương/Ngoài ruộng nhe nanh, chim cu đánh
sảng… (Thần nông). Nhà thơ La Quán Miên (dân tộc Thái) có cách nói rất
hình ảnh khi kể về giặc Mỹ ném bom bắn phá quê hương: “Cái máy bay
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
87
thằng Mỹ/Ném bom xuống bom to như cái chum/Bản nhà sàn của ta ăn lửa”
(Tiễn dặn người trai bản). Cách tư duy của người miền núi làm cho tất cả mọi
sự vật hiện tượng đều có cuộc sống riêng có suy nghĩ và hành động như con
người: “Núi già, núi có râu đầy cằm/Núi có máu, có xương núi sống” (Núi -
Lương Quy Nhân). Trong thơ Mông hiện đại, cách tư duy trực quan hình ảnh
cũng thể hiện rất rõ. Diễn tả không khí lao động khẩn trương cho kịp mùa vụ,
Giàng A Của dùng hình ảnh “đưa hết cánh tay ra đồng ruộng”. Khuyên mọi
người có ý thức bảo vệ rừng, Sùng A Trống chỉ ra tác hại của việc tàn phá
rừng đầu nguồn: “Ta đem rừng triệt hại/Có ngày cuộc sống của ta/Như là con
mương ruộng đã vỡ/Còn trơ lại cái rãnh khô”. Hùng Đình Quí ca ngợi cuộc
sống hạnh phúc một vợ một chồng, lên án hủ tục lấy vợ lẽ, ông khuyên những
người Mông không nên “tranh đục cũ người dùng”, “cướp dao mẻ người
liếc”. Tư duy trực quan hình ảnh tạo cho thơ Mông có sức khái quát cao hơn,
gần với nếp cảm, nếp nghĩ, với cách diễn đạt trong ngôn ngữ hàng ngày của
người Mông.
3.4.2. Tư duy, diễn đạt mang đậm bản sắc dân tộc Mông
Mặc dù cách tư duy diễn đạt bằng hình ảnh không phải là cách biểu hiện
mang tính đặc thù trong ngôn ngữ thơ ca của bất cứ dân tộc nào, nhưng sắc
thái để khu biệt tính đặc trưng trong thơ của từng dân tộc lại rất rõ. Nó được
biểu hiện bằng cách sử dụng những hình ảnh gần gũi quen thuộc với cuộc
sống của từng vùng, từng dân tộc, thậm chí cả đặc điểm tâm lí và cá tính của
dân tộc cũng phần nào được bộc lộ qua những hình ảnh đó. Chẳng hạn, những
hình ảnh so sánh ví von với “cá” thường được sử dụng như một đặc trưng
trong thơ của các dân tộc Mường, Thái do đặc trưng sinh sống ở ven các con
sông và việc canh tác lúa nước. Vậy nên, trong thơ Thái hiện đại mới hay xuất
hiện những hình ảnh so sánh như: “Cổ tay em tròn đuôi cá” (Sầm Nga Di),
“Bàn chân xinh xắn như đuôi cá xoè” (Lương Quy Nhân). Chính từ phong tục
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
88
tập quán “ăn theo nước” nên người Thái mới có sự gắn bó máu thịt với ruộng
đồng, sông suối. Các câu thành ngữ, tục ngữ, ca dao của người Thái nói nhiều
đến hình ảnh cá như: “Quí thóc - thóc về. Quí cá - cá lên” hay “Được nắm xôi
ngon chớ quên ruộng/Được khúc cá bùi chớ quên suối”. Trong tập hợp những
hình ảnh được diễn đạt, biểu hiện theo tư duy của người Mông, dường như
chưa một lần có những sự so sánh ví von liên quan đến cá. Tuy nhiên, lại xuất
hiện với một mật độ khá lớn các hình ảnh đặc trưng của người Mông: Nếu là
hoa thì đó là phong lan, hoa mận, hoa đào …, nếu là chim thì đó là hoạ mi,
chim ri, chim khướu …, nếu là cây thì đó là cây ngô, cây lanh v.v… Không chỉ
hình ảnh mà cách diễn đạt hình ảnh trong thơ Mông cũng rất độc đáo và giàu
bản sắc. Chẳng hạn, nói về tác hại của tệ nạn nghiện rượu và thuốc phiện, các
nhà thơ Mông thường sử dụng cách diễn đạt rất hình ảnh và cũng rất độc đáo:
“Người tài chui vào hũ”, “Người giỏi chui vào chai”. Những cơn đói thuốc vật
vã làm cho con nghiện như “cầy điên chết bệnh”, “mèo dại chết nắng”, tài sản
bị tiêu tan: “dưới nhà còn đất/trên gác chỉ còn bồ hóng” (Hùng Đình Quí), để
rồi nhà thơ đưa ra những lời khuyên nhủ chân tình: “Chàng trai muốn áo bông
lồng áo lụa/Hay để cái tẩu hơ ngọn đèn?” (Mùa A Lao), “Nay ta đem con
đường hút thuốc phiện chặt phăng đi” (Giàng Sùng Tủa). Nhiều hình ảnh thơ là
sản phẩm của lối tư duy trực quan mộc mạc đến hồn nhiên, chân thật đến ngộ
nghĩnh. Lời người trai Mông lên đường đánh Mỹ thể hiện một ý chí cao, một
quyết tâm sắt đá: “Chỉ có con cóc mới đi không hết đường/Trở về chết dưới
bàn tay vợ”. Để rồi: “Đi gặp giặc Mỹ giữa đường/ Anh trai Mông đánh như sét
đánh chó/Đi gặp giặc nguỵ giữa lối/Anh trai Mông đánh như sét đánh rắn”.
Núi rừng, con người Việt Bắc thay da đổi thịt, tưng bừng trong cuộc sống mới
“khác nào rắn xanh lột da”, “khác nào măng mai lột bẹ”. Người Mông vui vẻ,
hạnh phúc “sống tưng bừng như một tổ ong mật”, con người trở nên những
nhân cách đẹp: “Anh trai Mông tốt bạc/Em gái Mông tốt vàng”…
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
89
Tư duy nghệ thuật của nhà thơ một phần là sản phẩm của đời sống văn
hoá tinh thần của dân tộc mà nhà thơ là người đại diện, một phần là do sự
từng trải và vốn tri thức văn hoá mà nhà thơ do học hỏi, rèn luyện mà có
được. Cũng như thơ ca của các dân tộc khác, thơ hiện đại dân tộc Mông có
cách tư duy, diễn đạt in đậm dấu ấn văn hoá của dân tộc mình. Nhà thơ Chế
Lan Viên nhận xét: “Thơ HMông có yếu tố của tình cảm, có yếu tố của bản
năng. Nhưng thơ HMông cũng diễn tả suy nghĩ. Trong thơ HMông có yếu tố
rất rõ của lí trí. Người HMông là người muốn biết rõ lí lẽ phải trái, nguyên
nhân vì đâu” [77]. Một nét đặc trưng trong cách tư duy, diễn đạt của người
Mông là cách nói bóng bẩy bằng những hình ảnh, hình tượng mang ý nghĩa
triết lí và sự lí giải cặn kẽ để khẳng định đúng sai, khẳng định chân lí cuộc
sống. Người Mông sống vui vẻ lạc quan là vậy nhưng cũng có lúc suy tư,
cũng có lúc phải xót xa chiêm nghiệm về cuộc đời, nhất là cuộc đời trong xã
hội cũ: “Đời người như bóng râm từ từ ngả bên đồi”, “Đời người như củ cải
phơi nắng/Già cứ dần trẻ lại qua mau” (dân ca Mông). Cuộc sống khắc
nghiệt qua những cuộc thiên di từ trong quá khứ đau thương của lịch sử dân
tộc đã đúc kết cho người Mông một chân lí mới mẻ mà giản dị: “Ở đâu có
bầu trời, đó là Tổ quốc”. Sự lựa chọn cuộc sống ở thế cheo leo trên những
đỉnh núi là một sự lựa chọn cẩn trọng. Bởi chỉ ở đó, người Mông mới thật sự
thanh thản, mới có cảm giác của sự bình yên, được che chở, nương tựa:
“Chiếc nôi êm là tảng đá giữa non ngàn”. Những triết lý trong thơ dân tộc
thiểu số nói chung, dân tộc Mông nói riêng “thường bằng những hình ảnh
thấm thía, bắt người đọc phải suy tư và tự lý giải. Những triết lý thường
không dễ dãi, không quen thuộc. Đó là những khám phá, sáng tạo của nhà
thơ” [59; 18]
Người Mông thật thà cả tin nhưng cũng rất tỉnh táo, nhìn nhận sự việc
bằng lí trí. Đạo “Vàng Chứ” lan tràn trong các vùng của người Mông một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
90
cách ồ ạt trước đây không phải chỉ có nguyên nhân từ niềm tin mù quáng mà
một phần do thực tế khắc nghiệt của cuộc sống đặt ra: Môi trường thiên nhiên
của người Mông đã bị tàn phá; đời sống kinh tế bấp bênh. Niềm tin đôi khi là
cứu cánh cuối cùng của sự giải thoát. Không phải không có những người
Mông nhận ra điều này: “ Người rước đạo về lừa ta/Là kẻ muốn ta hết
giống/Người đem đạo về dối mình/Là kẻ muốn ta tiệt gốc”. Nhận ra những
điểm yếu trong tính cách, tâm lí của dân tộc mình để cầu tiến bộ là một thái
độ rất đáng trân trọng, khích lệ: “Người ta khen người ta sức khoẻ/Người
Mông khen người Mông lợn béo” để rồi thực tế “Lợn béo không thấy/Chỉ thấy
mê li chén rượu cồn/Lại còn toan tính theo đường Vàng Chứ luôn”. Sứ mạng
vẻ vang của những nhà thơ Mông là đi tiên phong trong cuộc chiến chống hủ
tục lạc hậu, các niềm tin mù quáng trong đời sống văn hoá tinh thần của dân
tộc mình. Nhà thơ người Mông giảng giải, phân tích cặn kẽ, chí lí chí tình để
làm cho những người Mông nhẹ dạ, cả tin có nhận thức đúng: “Người ta lừa
rằng/Theo Vàng Chứ không làm cũng có ăn/Thách các người cứ thử đợi?Nếu
đúng như vậy/Tôi xin đi bằng đầu xuống đất!”. Một lẽ giản đơn, người Mông
rất coi trọng tổ tiên ông bà vậy mà những người theo đạo “Vàng Chứ” đang
tâm phá bỏ bàn thờ tổ tiên. Nhà thơ Mông khẳng định như một chân lí:
“Người Mông nếu không còn tổ tiên ông bà/Dù cho còn sống tròn đôi
mắt/Cũng chẳng khác chi con ngươi bị mù loà”.
Để biểu đạt tư duy và bộc lộ suy nghĩ, tình cảm một cách chí lí chí tình,
thơ Mông hiện đại sử dụng nhiều những thủ pháp nghệ thuật trong đó phổ
biến hơn cả là các biện pháp so sánh, nhân hoá, ẩn dụ … Đó cũng chính là các
thủ pháp nghệ thuật quen thuộc của thơ ca. đặc trưng của thơ Mông nằm ở nội
dung diễn đạt, biểu hiện của các thủ pháp nghệ thuật ấy.
Khả năng diễn đạt bằng so sánh hình ảnh như là một nét tâm lí “thiên
bẩm” của người miền núi nói chung. Trong thơ Mông hiện đại khả năng ấy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
91
được bộc lộ một cách đa dạng. đặc biệt là xu hướng sử dụng liên tiếp nhiều
hình ảnh để biểu đạt sự so sánh. Chẳng hạn, để nói về cuộc sống bi thảm của
người Mông trong xã hội cũ, nhà thơ Mông sử dụng hình ảnh “Như con ma
không mẹ cha ăn của thừa”, “Như con ma mồ côi chăn trâu người”. Ca ngợi
cuộc sống đổi mới, nhà thơ Mông sử dụng những hình ảnh liên tiếp “khác nào
rắn xanh lột da”, “khác nào măng mai lột bẹ”. Các hình ảnh so sánh ví von
trùng điệp này tạo cho vấn đề được biểu đạt vừa cụ thể hơn, vừa sâu sắc hơn.
Bên cạnh đó, các thủ pháp nghệ thuật ẩn dụ, nhân hoá cũng thường xuyên
được sử dụng và sử dụng có hiệu quả trong thơ Mông hiện đại. Muốn nói lên
nạn mù chữ, thất học là nguyên nhân của sự đói nghèo, thơ Mông dùng cách
nói hình ảnh “cái miệng muốn ăn/Nhưng tay chẳng với tới”. Niềm vui hạnh
phúc được thơ Mông diễn đạt bằng những hình ảnh mới lạ và độc đáo: “Bò
đực biết đẻ con”, “đá nở hoa, hang sai quả”.v.v..
3.5. Một số hạn chế về nghệ thuật của thơ Mông thời kỳ hiện đại
Một đặc điểm đồng thời cũng là một hạn chế của thơ Mông hiện đại là
nội dung các bài thơ, câu thơ thường là đơn giản, chỉ thể hiện được một lớp
nghĩa. Nó phù hợp với tâm lí nhận thức và phản ánh chân thực và thẳng thắn
của người Mông. Tuy nhiên, nó làm cho thơ Mông thiếu đi sự súc tích, tính
đa nghĩa vốn là một tiêu chí cần thiết của thơ: “Thơ phải được ý ở ngoài lời.
Trong thơ hàm súc vô cùng thì mới là tôn chỉ của người làm thơ. Cho nên ý
thừa hơn lời thì tuy cạn mà vẫn sâu, lời thừa hơn ý thì tuy công phu và vẫn
vụng” (Ngô Lôi Pháp) [4;54]. Thơ Mông hiện đại vẫn chỉ phù hợp với giọng
điệu giãi bày, kể lể vốn đã rất quen thuộc trong thơ Mông truyền thống.
Phương thức biểu đạt chủ yếu trong thơ Mông là phương thức tạo hình, lấy
việc phản ánh hiện thực làm chính, thiếu đi sức gợi và sự lắng đọng cần thiết
để người đọc phải suy ngẫm, chiêm nghiệm.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
92
Về mặt nghệ thuật, thơ Mông hiện đại đã có được những ưu điểm nhất
định. Đó là những thành công cần được ghi nhận. Trước hết, thơ Mông đã tạo
ra được một giọng điệu riêng biệt, mang đặc trưng của thơ miền núi, gần gũi
với thơ dân tộc thiểu số nói chung nhưng vẫn giữ lại cho mình những nét bản
sắc riêng. Từ kết cấu các bài thơ, câu thơ, đến cách lựa chọn hình ảnh và cách
diễn đạt có một ranh giới khu biệt, tuy không phải lúc nào cũng được phân
định rõ ràng song vẫn có thể nhận ra. Thơ Mông hiện đại đã thể hiện được
cách nghĩ, cách cảm của người miền núi, bằng lối tư duy trực quan hình ảnh,
bằng cách diễn đạt đậm đặc chất dân tộc và miền núi. Điều quan trọng là
những tác giả thơ người Mông đã biết lựa chọn, chắt lọc những hình ảnh, biểu
tượng và ngôn ngữ quen thuộc với thiên nhiên, con người và cuộc sống của
dân tộc mình. Trong thơ Mông hiện đại, có sự kết hợp giữa truyền thống và
hiện đại. Điều đó được thể hiện qua việc tiếp thu, kế thừa những giá trị của
thơ ca truyền thống và việc không ngừng tìm tòi, khám phá, sáng tạo, tích cực
đổi mới cho thơ để bắt nhịp và hoà nhập với cuộc sống hiện đại. Những biểu
hiện của các giá trị truyền thống và hiện đại tạo nên tính thống nhất, hài hoà
cho thơ Mông. Ở đó tính truyền thống được bảo lưu, tính hiện đại được tiếp
nhận, đây là yếu tố để thơ Mông hiện đại tồn tại như một cá tính riêng giàu
bản sắc.
Tuy nhiên, thơ Mông còn bộc lộ những hạn chế nhất định, khó tránh
khỏi do đặc điểm tâm lí và khả năng, trình độ nhận thức của dân tộc cũng như
của từng cá nhân mỗi nhà thơ. Đó là tính đơn giản, đơn nghĩa trong phản ánh
hiện thực và diễn đạt thơ, sự lặp lại những yếu tố cả về nội dung, cả về hình
thức nghệ thuật làm cho thơ Mông đôi khi trở nên cũ kĩ, sáo mòn. Thơ hiện
đại Mông thiên về tả, kể nhiều hơn gợi, chưa đặt ra được và gợi lên những
vấn đề lớn lao của hiện thực; thiếu tính khái quát tính đa nghĩa vốn rất cần
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
93
thiết của thơ hiện đại. Một số bài thơ còn gượng ép trong cách nghĩ, cách viết,
bộc lộ những non kém cả về mặt nội dung biểu hiện và hình thức nghệ thuật.
“Dân tộc thiểu số hay đa số, nhà văn đều bình đẳng trước nghệ thuật”
(Cao Duy Sơn).
Trên hành trình đến với những giá trị đích thực của thơ ca, các nhà thơ
dân tộc Mông đã có những cố gắng không mệt mỏi bằng đam mê và sáng tạo
để đưa thơ hiện đại dân tộc Mông lên một tầm cao mới, với một vị thế mới
trong nền thơ các dân tộc thiểu số nói riêng và thơ ca Việt Nam hiện đại nói
chung, đưa tiếng nói thơ ca của người Mông chan hoà vào tiếng nói thơ ca
của các dân tộc anh em khác. Trong nỗ lực đó, thơ Mông hiện đại thể hiện
được những đặc trưng trong tư duy nghệ thuật, biểu hiện ở ngôn ngữ, hình
ảnh thơ, ở cấu trúc thơ,ở cách tư duy và biểu đạt.
Thơ Mông hiện đại là một thứ thơ chân mộc, giản dị. Ngôn ngữ thơ giàu
hình ảnh và nhạc điệu. Cấu trúc thơ vừa chịu ảnh hưởng của cấu trúc thơ ca
truyền thống dân tộc Mông, vừa phát triển theo xu hướng cấu trúc mang tính
nghệ thuật cao của thơ hiện đại. Lối tư duy biểu đạt vừa gần gũi với cách
nghĩ, cách cảm, cách thể hiện của người dân tộc thiểu số, vừa bộc lộ rõ đặc
trưng bản sắc của dân tộc Mông. Các nhà thơ Mông đã không ngừng sáng tạo,
tự đổi mới cho thơ, làm cho thơ Mông ngày càng tiệm cận những chuẩn mực
khắt khe về giá trị nghệ thuật của thơ ca đương đại.
Mặc dù còn bộc lộ những hạn chế nhất định do những yếu tố khách
quan và chủ quan chi phối khả năng nhận thức và sáng tạo nghệ thuật, thơ ca
hiện đại Mông cũng đã bước đầu khắc hoạ được bức tranh thiên nhiên, con
người và cuộc sống đa sắc và độc đáo của dân tộc Mông, khắc hoạ được diện
mạo và bức chân dung tinh thần của dân tộc Mông - một dân tộc còn ẩn chứa
bao điều kỳ diệu trong tâm hồn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
94
PHẦN KẾT LUẬN
Trong nền thơ Việt Nam hiện đại, thơ ca Mông như một bông hoa nở
muộn, nhưng cũng đã góp mặt và toả hương, một thứ hương độc đáo và
quyến rũ giữa vườn hoa thơ ca muôn màu sắc của dân tộc.
Dân tộc Mông với chiều dài lịch sử khởi đầu bằng một “Vương quốc
Miêu”, trải qua những cuộc thiên di đầy nước mắt và máu trước khi đến Việt
Nam, cùng với điều kiện sống khắc nghiệt đã sản sinh ra một nền văn hoá
Mông rất độc đáo, mang đậm dấu ấn miền núi cao. Thơ ca dân gian Mông là
kho tàng văn hoá đặc sắc phản ánh chân thực và sinh động cuộc sống của dân
tộc Mông, tồn tại như một món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời sống
của đồng bào. Đó vừa là cơ sở, vừa là một trong những yếu tố quyết định cho
sự hình thành và phát triển của thơ ca hiện đại Mông.
Thơ ca hiện đại dân tộc Mông xuất hiện muộn hơn so với thơ ca hiện đại
của một số dân tộc thiểu số anh em khác như Tày, Thái, Mường, Chăm…
nhưng cũng đã đạt được một số thành tựu nhất định. Trước hết, thơ Mông
hiện đại đã khắc hoạ được một cách khá sâu sắc và toàn diện bức tranh thiên
nhiên vừa khắc nghiệt dữ dội, vừa thơ mộng trữ tình của dân tộc Mông. Thiên
nhiên - hoàn cảnh sống của người Mông mang những nét đặc trưng: Đó là
chót vót những đỉnh núi cao hùng vĩ và hoang sơ, khí hậu khắc nghiệt, thiếu
nước, thậm chí có nơi còn hiếm hoi cả đất. Bù lại, thiên nhiên trên núi cao của
người Mông cũng không thiếu sự thơ mộng đến lãng mạn: vẻ trầm tĩnh thâm
u của đá, vẻ rực rỡ muôn sắc màu của hoa lá, cỏ cây; vẻ sinh động đến náo
nhiệt của chim muông. Ở đó, người Mông sống dường như vừa lệ thuộc vào
hoàn cảnh, vừa tìm mọi cách để chế ngự hoàn cảnh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
95
Hình ảnh con người và cuộc sống trong thơ ca hiện đại Mông hiện lên
với những dáng vẻ độc đáo và đặc sắc. Đó là những con người đầy bản lĩnh
và cá tính: Vừa chân thật giản dị, vừa mạnh mẽ quyết liệt; chân thật đến hồn
nhiên, mạnh mẽ đến táo bạo, dũng cảm đến liều lĩnh, phóng túng đến ngang
tàng, cốt cách như dao chém đá, ý chí như những ngọn núi cao. Khi yêu, yêu
đến nồng nàn đam mê, khi ghét, ghét đến tận cùng xương tuỷ. Cuộc sống của
người Mông trong xã hội cũ thường xuyên du canh du cư như những thử
thách khắc nghiệt của số phận. Cuộc sống đó đã thay da đổi thịt từ khi có
Đảng, có Cách mạng. Người Mông được “ăn bền nơi, ở bền nơi” để mà
“trồng chè đầy núi, trồng rừng xanh rờn”… Đời sống văn hoá tinh thần của
người Mông cũng đã bước đầu được phản ánh trong thơ ca hiện đại Mông với
sự thi vị vốn có của nó. Những phong tục tập quán, những lễ hội “gầu xống”,
“gầu tào”, những cuộc hát “gầu plềnh”, những sinh hoạt „văn hoá chợ”…là
những nét đặc trưng mang đậm bản sắc dân tộc Mông. Hình ảnh những chàng
trai Mông ngây ngất trong men tình men rượu với những điệu múa khèn
nghiêng ngả đất trời; những cô gái Mông tươi tắn trong những bộ váy áo thổ
cẩm như những bông hoa rực rỡ đắm say hương sắc núi rừng, tình tứ và đam
mê trong những giaii điệu réo rắt, véo von của tiếng đàn môi, kèn lá; những
cụ già cởi mở tâm tình bên nồi “thắng cố"... là bức tranh sinh động về cuộc
sống của người Mông. Bên cạnh đó, những hủ tục lạc hậu đôi khi còn rơi rớt
lại là hệ luỵ của đói nghèo và niềm tin ngây thơ cũng đã được các tác giả
Mông phản ánh trong thơ ca với một thái độ gay gắt, quyết liệt, đồng thời như
một sự cảnh tỉnh cho đồng bào mình, dân tộc mình biết đi đúng con đường
thoát khỏi đói nghèo, tăm tối.
Thơ ca dân tộc Mông thời kỳ hiện đại tương đối phong phú về nội
dung và cũng khá đặc sắc về nghệ thuật. Cách sử dụng những từ ngữ, hình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
96
ảnh chân mộc, giản dị; sự tiếp thu và vận dụng sáng tạo ngôn ngữ, hình ảnh
của thơ ca truyền thống cùng với xu hướng tìm tòi, khám phá, thể nghiệm,
cách tân trong tư duy và biểu hiện, tạo cho thơ Mông vừa mang đậm cốt
cách truyền thống, vừa có được những đặc trưng nghệ thuật của thơ hiện
đại, tiệm cận và bước đầu bắt nhịp, chan hoà vào dòng chảy chung của đời
sống thơ ca đương đại.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, thơ ca Mông thời kỳ
hiện đại cũng có một số những hạn chế nhất định: Đó là đội ngũ sáng tác còn
mỏng và không đồng đều; nội dung phản ánh còn chưa thật sự phong phú và
toàn diện; những phong tục tập quán, đời sống tinh thần, đời sống tâm linh...
của dân tộc Mông chưa được chuyển tải vào thơ ca như sự phong phú và thi vị
vốn có của nó. những sinh hoạt cộng đồng mang đậm nét bản sắc dân tộc chưa
được các nhà thơ quan tâm đề cập đúng mức. Mặt khác, tư duy nghệ thuật
trong thơ ca dân tộc Mông thời kỳ hiện đại còn chịu ảnh hưởng nặng nề của thơ
ca truyền thống; chưa định hình được phong cách, cá tính của các nhà thơ một
cách rõ rệt; chưa có được những tác phẩm thật sự có giá trị đối với thơ ca dân
tộc thiểu số nói riêng cũng như thơ ca Việt Nam hiện đại nói chung.
Từ việc nêu ra những đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của thơ ca dân
tộc Mông thời kỳ hiện đại, chúng tôi mạnh dạn đưa ra ý kiến, kiến nghị của cá
nhân về việc giữ gìn và phát huy các giá trị của thơ ca Mông nói riêng và bản
sắc văn hoá Mông nói chung. Đó là: Xu thế toàn cầu hoá và hội nhập Quốc tế
đang diễn ra với một nhịp độ ngày càng nhanh, chi phối và làm biến đổi ngày
càng lớn đời sống vật chất và tinh thần của tất cả các dân tộc. Hiện tượng giao
thoa văn hoá, “xâm lăng” văn hoá ngày càng phổ biến cả về chiều sâu và bề
rộng. Trong bối cảnh đó, việc phản ánh kịp thời những biến động trong đời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
97
sống vật chất, tinh thần của người Mông là một thách thức lớn đối với những
nhà thơ Mông. Thơ Mông hiện đại khó có thể biểu hiện được những vấn đề
lớn lao của cuộc sống đặt ra, càng không thể là công cụ để chuyển tải tư
tưởng, tình cảm của đồng bào dân tộc Mông. Tiếng nói chung của cả dân tộc
đang ngày càng bị mờ nhoè trong tiếng nói riêng của cá nhân mỗi nhà thơ.
Vấn đề đặt ra đối với thơ dân tộc Mông hiện nay là vừa phải bắt nhịp được
với đời sống thơ ca đương đại, có những sáng tác có giá trị so với mặt bằng
thơ ca chung của cả nước, vừa phải giữ gìn và phát huy những giá trị truyền
thống mang tính bản sắc của dân tộc Mông, tức là phải có được (hay đạt tới)
một thứ thơ vừa truyền thống vừa hiện đại. Trước tiên, nó phải thật sự là hoa
trong vườn hoa thơ ca của các dân tộc Việt Nam nhưng đồng thời phải là một
thứ hoa lạ, độc đáo về màu sắc và hương thơm. Tuy nhiên, xu hướng tiếp thu
cái mới, biểu hiện cái mới trong tư duy nghệ thuật của các tác giả Mông lại
gắn liền với việc thoát ly những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc, làm
cho thơ Mông hiện đại có xu hướng “Kinh hoá” trong lối tư duy và biểu đạt.
Để khắc phục tình trạng này, theo chúng tôi, trước hết phải có những chính
sách và biện pháp nhằm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ tác giả thơ người Mông,
nhất là giới trẻ. Quan tâm phát hiện những học sinh người Mông có năng
khiếu để bồi dưỡng. Bên cạnh đó, các Hội Văn học Nghệ thuật Trung ương và
Địa phương cần tăng cường tổ chức các đợt tham quan, học tập, giao lưu văn
học nghệ thuật, mở các trại sáng tác cho những văn nghệ sĩ người Mông,
khuyến khích các tác giả người Mông cũng như các tác giả dân tộc khác viết
về cuộc sống của người Mông. Xuất bản và phổ biến các sáng tác văn học
nghệ thuật, sáng tác thơ ca của các tác giả Mông nhằm tạo điều kiện cho thơ
ca Mông đến được với độc giả cả nước. Ngoài ra, vấn đề quan trọng là phải
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
98
cải tạo, khôi phục và thiết lập môi trường sinh hoạt, diễn xướng nhằm bảo lưu
các giá trị văn hoá, văn học dân gian vốn rất phong phú và độc đáo của người
Mông. Việc giữ gìn và phát triển triển tiếng nói và chữ viết của dân tộc Mông
cũng là những vấn đề can hệ đến sự phát triển của văn hoá Mông nói chung,
của văn học Mông và thơ ca Mông nói riêng.
Việc nghiên cứu thơ ca dân tộc Mông (bao gồm cả thơ ca dân gian và
thơ ca hiện đại) dưới góc độ văn hoá thông qua việc khảo sát những mô típ,
những biểu tượng ngôn ngữ cũng là những vấn đề hết sức lý thú đòi hỏi một
hướng tiếp cận, nghiên cứu qui mô và nghiêm túc. Bởi đó cũng chính là một
trong những yếu tố mang tính bản sắc riêng của dân tộc Mông mà chúng ta
cần gìn giữ và phát triển. Vấn đề đó đang đặt ra và chờ đợi giải quyết trong
những nghiên cứu tiếp sau.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
99
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Văn An (2007), Nét đẹp văn hoá trong thơ văn và ngôn ngữ
dân tộc, Nxb Hội Nhà văn.
2. Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (2007), Nhà văn Việt Nam hiện
đại, Hội nhà văn Việt Nam.
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Tài liệu tập huấn giáo viên dạy tiếng
Mông cho cán bộ công chức công tác ở vùng dân tộc Mông
4. Nguyễn Phan Cảnh (2006), Ngôn ngữ thơ, Nxb Văn học
5. Nông Quốc Chấn (1998), Tuyển tập văn học dân tộc & miền núi, Nxb
Giáo dục
6. Nông Quốc Chấn (1995), Văn học các dân tộc thiểu số Việt nam, Nxb
Văn hoá dân tộc
7. Nguyễn Văn Chỉnh chủ biên (1996), Từ điển Việt - Mông, Nxb Văn
hoá dân tộc
8. Đại học Thái Nguyên - Trường đại học Sư phạm (2005), Kỷ yếu hội
thảo khoa học, Bảo tồn và phát triển ngôn ngữ, văn hoá dân tộc
Mông, Hà Giang.
9. Đại học Thái Nguyên - Trường đại học Sư phạm (2005), Kỷ yếu hội
thảo khoa học, Bảo tồn và phát triển ngôn ngữ, văn hoá dân tộc
Cao Lan, Mông, Tuyên Quang.
10. Nguyễn Tấn Đắc (2005), Văn hoá Đông Nam Á, Nxb Đại học Quốc
gia thành phố Hồ Chí Minh
11. Nguyễn Anh Đào (2007), Chàng trai Mông họ Mã và xứ sở Mường
Tiên, Tạp chí Văn hoá các dân tộc, số 11
12. Gia Dũng biên soạn (2000), Tuyển tập thơ các dân tộc thiểu số Việt
Nam thế kỷ XX, Nxb Văn hoá dân tộc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
100
13. Nguyễn Đăng Duy (2002), Văn hoá học Việt Nam, Nxb Văn hoá thông tin
14. Trần Trí Dõi (1999), Nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số Việt
Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội
15. Giàng Seo Gà (2004), Tang ca (Kruôz cê) của người Mông Sa Pa,
Nxb Văn hoá dân tộc
16. Lê Sĩ Giáo chủ biên (2005), Dân tộc học đại cương, Nxb Giáo dục
17. Hùng Thị Hà (2003) Thơ ca dân gian HMông, Luận văn thạc sĩ khoa
học Ngữ văn, Trường Đại học
18. Nguyễn Văn Hiệu (2005), Dân tộc Mông ở Việt Nam, HMông-
mienstudy.net
19. Lê Như Hoa chủ biên, Văn hoá ứng xử các dân tộc Việt Nam, Nxb
Văn hoá Thông tin.
20. Lưu Kim Hoa (2007), Giữ gìn, pháy huy bản sắc Văn hoá dân tộc,
cùng nhau phấn đấu và phát triển, Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ
Việt Nam (số11)
21. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (1996), Văn hoá dân tộc trong
quá trình mở cửa ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia
22. Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam (1999), Văn
học các dân tộc - Từ một diễn đàn, Nxb Văn hoá Dân tộc
23. Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam (2003), Nhà
văn các dân tộc thiểu số - Đời và Văn, Nxb Văn hoá Dân tộc
24. Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Lào Cai (1997), Thơ Lào Cai 1991 - 1995
25. Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam (2007), Văn
học nghệ thuật các dân tộc thiểu số thời kỳ đổi mới, Nxb Văn hoá
Dân tộc.
26. Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam (2007), Từ Đại
hội đến Đại hội
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
101
27. Đỗ Huy (2002), Cơ sở triết học của Văn hoá Nghệ thuật Việt Nam,
Viện Văn hoá, Nxb Văn hoá - Thông tin.
28. Nguyễn Chí Huyên, Hùng Hoa Toàn, Lương Văn Bảo, Nguồn gốc lịch
sử tộc người vùng biên giới phía Bắc Việt Nam, Nxb Khoa học -
Xã hội
29. Đỗ Thị Thu Huyền (2008), Thơ ca Tày hiện đại qua một số gương mặt
tiêu biểu, Tạp chí Nghiên cứu Văn học (số 5)
30. Hà Lâm Kỳ (2007), Minh Khương và tác phẩm sưu tầm, dịch nghiên
cứu văn hoá Mông, Hội Văn học nghệ thuật Yên Bái.
31. Hùng Đại Kỳ (2006), Cây khèn trong đời sống ở bản làng HMông,
Tạp chí Dân tộc và thời đại, số 88
32. Mã A Lềnh (2002), Mã A Lềnh thơ, Nxb Văn hoá dân tộc
33. Mã A Lềnh (1999), Tần ngần trước văn chương, Hội Văn học nghệ
thuật tỉnh Lào Cai
34. Mã A Lềnh (1995), Bên Suối Nậm Mơ, Nxb Văn hoá Dân tộc
35. Đinh Liên (2002), Phương ngôn tục ngữ Thái - Kinh nghiệm sống của
người miền núi, Tạp chí Văn hoá dân tộc (số 3)
36. Lã Văn Lô, Đặng Nghiêm Vạn (1968), Sơ lược giới thiệu nhóm dân
tộc Tày - Nùng - Thái ở Việt Nam, Nxb Khoa học - Xã hội
37. Nguyễn Văn Lộc chủ biên (2006), Báo cáo tổng hợp nghiên cứu bảo
tồn và phát triển ngôn ngữ văn hoá một số dân tộc thiểu số ở Việt
Bắc, Đề tài độc lập cấp Nhà nước, Mã số ĐTĐL - 2004/27
38. Đỗ Đức Lợi (2002), Tập tục chu kì đời người của các tộc người, ngôn
ngữ Mông - Dao ở Việt Nam, Nxb Văn hoá Dân tộc
39. Trường Lưu, Hùng Đình Quí (1998), Người Mông ở Hà Giang, Sở
Văn hoá thông tin Hà Giang
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
102
40. La Quán Miên (1999), Con đường bản Đôn, Nxb Nghệ An
41. Nhiều tác giả (1996), Văn hoá truyền thống dân tộc Tày, Nùng, Nxb
Văn hoá Dân tộc
42. Ma Trường Nguyên (2007), Bắc cầu vồng thăm nhau, Nxb Hội Nhà văn
43. Ma Trường Nguyên (2006), Vài ý nghĩ tản mạn về thơ và bản sắc dân
tộc trong thơ, Báo Văn nghệ Thái Nguyên (số 22)
44. Vi Hồng Nhân (2004), Văn hoá các dân tộc- Từ một góc nhìn. Nxb
Văn hoá Dân tộc
45. Võ Quang Nhơn (1983), Văn hoá các dân tộc ít người ở Việt Nam.
Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp
46. Lò Cao Nhum (1996), Rượu núi. Nxb Văn hoá Dân tộc
47. Phạm Hồng Quang (2002), Giáo dục bản sắc văn hoá dân tộc cho sinh
viên sư phạm, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội
48. Hùng Đình Quý (1993), Người Mông nhớ Bác Hồ, Nxb Văn hoá dân tộc.
49. Hùng Đình Quý (1994), Văn hoá truyền thống các dân tộc ở Hà
Giang, Sở Văn hoá thông tin Hà Giang
50. Hùng Đình Quý (2001), Dân ca Mông Hà Giang (Tập 1), Sở Văn hoá
thông tin Hà Giang
51. Hùng Đình Quý (2002), Dân ca Mông Hà Giang (Tập 2), Sở Văn hoá
thông tin Hà Giang
52. Hùng Đình Quý (2003), Dân ca Mông Hà Giang (Tập 3), Sở Văn hoá
thông tin Hà Giang
53. Hùng Đình Quý (1998), Chỉ vì quá yêu, Nxb Văn hoá dân tộc
54. Hoàng Quyết, Tuấn Dũng (1994), Văn hoá truyền thống các dân tộc ở
Việt Bắc, Nxb Văn hoá dân tộc.
55. Đặng Đức Siêu (2003), Nhà văn hoá cổ truyền phương Đông, Nxb Giáo dục.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
103
56. Trần Hữu Sơn (2005), Xây dựng đời sống văn hoá ở vùng cao, Nxb
Văn hoá dân tộc.
57. Trần Hữu Sơn (1996), Văn hoá HMông, Nxb Văn hoá dân tộc
58. Lò Ngân Sủn (2002), Vấn đề đặt ra với các nhà thơ dân tộc thiểu số
(Hoa văn thổ cẩm tập 3), Nxb văn hoá dân tộc.
59. Hà Công Tài, Nguyễn Thị Thanh Lưu, Đỗ Thị Thu Huyền (2007), Thơ
dân tộc ít người giai đoạn 10 năm cuối thế kỷ XX - Truyền thống
và hiện đại, đề tài cấp Viện 2007, Viện Văn học Hà Nội
60. Vũ Minh Tâm (2004), Bản sắc văn hoá dân tộc- Một cách tiếp cận,
Tạp chí Dân tộc và Thời đại (số 47)
61. Nguyễn Năng Tân chủ biên (1996), HMôngz ntơưn, Nxb Giáo dục
62. Lê Ngọc Thắng, Lê Bá Nam (1994), Bản sắc văn hoá các dân tộc ở
Việt nam, Nxb Văn hoá dân tộc
63. Doãn Thanh (1984), Dân ca HMông, Nxb Văn học
64. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb Giáo dục
65. Dương Thuấn (2000), Nét mới của văn học dân tộc và miền núi, Tạp chí
Văn hoá các dân tộc (số 7).
66. Lâm Tiến (1995), Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại,
Nxb Văn hoá dân tộc.
67. Lâm Tiến (2007), Mấy suy nghĩ về lí luận phê bình văn học các dân
tộc thiểu số, Diễn đàn văn nghệ Việt Nam, số 155.
68. Lâm Tiến (1999), Về một mảng văn học dân tộc, Nxb Văn hoá dân tộc
69. Lâm Tiến (2002), Văn học và miền núi, Nxb Văn hoá dân tộc
70. Lâm Tiến (2007), Mấy suy nghĩ về lí luận phê bình Văn học các dân
tộc thiểu số, Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam (số135)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
104
71. Vũ Thị Vân, Trần Thị Việt Trung (2007), Nghiên cứu một số đặc điểm
riêng của thơ ca dân tộc Thái thời kì hiện đại, Tạp chí Khoa học
và Công nghệ, Đại học Thái Nguyên, số 43.
72. Triệu Kim Văn (2002), Bản sắc dân tộc - nỗi lo của người cầm bút,
Tạp chí Văn hoá các dân tộc.
73. Triệu Kim Văn (1999), Lá tìm nhau, Nxb
74. Triệu Kim Văn (2002), Lửa của mồ côi, Nxb
75. Triệu Kim Văn (1994), Mùa sa nhân, Nxb
76. Cư Hoà Vần, Hoàng Nam (1994), Dân tộc Mông ở Việt Nam, Nxb
Văn hoá dân tộc.
77. Chế Lan Viên (1984), Tâm hồn và tiếng hát HMông, Lời giới thiệu
cuốn „Dân ca Mông”, Nxb Văn học
78. Viện Thông tin khoa học xã hội (2002), Nghiên cứu ngôn ngữ các dân
tộc thiểu số ở Việt Nam từ những năm 90, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
105
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA THƠ CA DÂN TỘC MÔNG THỜI KỲ HIỆN ĐẠI (TỪ 1945 ĐẾN NAY).pdf