Luận văn Hình tượng tác giả trong truyện ngắn của Nguyễn Khải thời kỳ đổi mới

Trong truyện ngắn Người của nghề, người trần thuật chăm chú, quan sát từ bên ngoài, để câu chuyện dàn trải ra với những chi tiết chân thực , tỉ mỉ, cụ thể tới mức người đọc có cảm giác được tận mắt chứng kiến sự thực đó . Người trần thuật đã sử dụng bút pháp hiện thực tỉnh táo để "điềm nhiên" hướng "ống kính" vào từng chi tiết vụn vặt làm mất dần cái giản dị tốt đẹp của một người phụ nữ nông thôn như bà Tuất. Từ giọng nói "lịch thiệp giả dối (.) uốn éo, cười gượng gạo, thớ lợ". Cách ăn mặc thì "áo cổ bẻ, tay áo có khuy cài, quần thâm đũng cao" nhưng lại để "răng đen " [19,tr.288]. Chỉ bằng một vài chi tiết rất nhỏ, nhà văn đã khéo léo phô bày cái "nghịch lý" trong vai diễn của bà Tuất. Cách miêu tả của tác giả càng khách quan bao nhiêu, người đọc càng thấy nổi rõ sự lố bịch của nhân vật bấy nhiêu. Miêu tả Tú, tác giả nhận ra anh "trí tuệ sáng láng, hành động táo bạo, nói năng sắc bén trong thế giới vật chất còn khi bước sang thế giới trừu tượng, thế giới của triết học, thì sự có mặt của anh luôn thừa" [19,tr.287 ]. Để cho câu chuyện có tính khách quan hơn nữa, người trần thuật đặt hai nhân vật của mình dưới sự phán xét của những nhân vật khác trong truyện. Với bà Tuất đó là trong sự quan sát của chính cô con d âu, thái độ coi thường của Liên, trong nỗi khổ tâm của Dũng -người phải dàn hoà sự hiểu lầm giữa nàng dâu và mẹ chồng. Còn Tú, mọi ưu điểm và khuyết điểm của anh được nhìn nhận, đánh giá qua ánh mắt, thái độ của bạn bè đồng ngh i ệp.

pdf121 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2932 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hình tượng tác giả trong truyện ngắn của Nguyễn Khải thời kỳ đổi mới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hần làm nên vẻ đẹp, sự rực rỡ của đất kinh kỳ: "Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội hãy mượn gió mà bay lên cho đất kinh kỳ chói sáng những ánh vàng" [19,tr.265]. Đặc biệt, giọng điệu chiêm nghiệm, triết lý được tác giả sử dụng khi viết về thế hệ trẻ. Đây là lớp người mới xuất hiện trong buổi giao thời. Thế hệ trẻ hôm nay khác xa với những chàng trai những năm 1960 như Huân, Nam, Quang, Doãn... Họ sống bằng thực tế, bằng những tính toán cụ thể về cái được, cái mất chứ không mộng mơ, cao vời như thế hệ cha anh. Nhà văn rất có thiện cảm với những người trẻ tuổi vừa làm ăn giỏi, vừa chừng mực trong quan hệ với đồng tiền, lại có cái tâm trong sáng, lương thiện. Đó là Nghĩa (Người của ngày xưa) làm kinh doanh giữa chốn thương trường mà vẫn giữ cái tâm thiện: "việc không sạch không làm, người không sạch không chơi". Đó là Định (Cái thời lãng mạn) một mẫu người thanh niên của thời đại mới, biết làm giàu cho mình, cho xã hội bằng lao động, sáng tạo chân chính. Tuy nhiên, trong số những người trẻ tuổi được nhà văn đề cập tới cũng có những người để lại trong tác giả những hoài nghi về phẩm chất đạo đức. Cơ chế thị trường khiến cho những giá trị tưởng như bền vững lại bị lung lay. Nhà văn nhận ra sự biến đổi của thời thế khi những giá trị cũ bị đảo lộn, ông chiêm nghiệm: "Trong đám họ, thằng nào ngày nhỏ học giỏi, sống ngoan và hiền lúc vào đời cũng chỉ làm được một anh nhân viên quèn trong các cơ quan nhà nước, sống bằng tiền lương và tiền thưởng. Còn thằng nào học hành dang dở, có máu trộm cướp từ bé (...) thì bây giờ sang trọng quý phái từ đầu đến chân thuộc tầng lớp thượng lưu của Hà Nội. Có tiền là thay đổi lý lịch diện mạo Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 93 cái một" [21,tr.65]. Lớp trẻ hôm nay: "Họ tôn sùng cái khôn ngoan, cái gian xảo, cái lì lợm của thế hệ họ, vì đó là những đức tính cần thiết để kiếm được nhiều tiền" [21,tr.65]. "Cái nhân nghĩa, cái danh dự là chuyện của ngày xưa, thời các cụ nghe nói là có chứ chưa hẳn đã có. Nếu là có thật thì các danh dự ấy đã được đóng khung treo một dãy trên tường rồi và nên quên nó đi" [21,tr.65]. Lớp trẻ sống: "Không cần biết đến cái danh dự, cái tín nghĩa là gì. Sống thế thì cộng đồng nguy to, không nguy lúc này cũng nguy lúc khác" [21,tr.73]. Người kể chuyện đã bộc lộ ý kiến về cái thời hôm nay, thời kinh tế thị trường là thời của lớp trẻ: "Đám trẻ bây giờ chúng nó kiếm tiền quyết liệt lắm. lạnh lùng, tàn nhẫn hơn bọn em nhiều và không vì một ai cả, không thương một ai cả. Có tiền để trở thành người mạnh, thành ông chủ, chúng bảo thế. Mỗt thời cái cách dùng đồng tiền lại một khác..." [30,tr.378]. Vai trò của đồng tiền trong xã hội kinh tế thị trường đã được một nhân vật trong Chúng tôi và bọn hắn phát biểu: "Danh nghĩa là thế còn thực chất vẫn là tiền chỉ huy. Đồng tiền lớn chỉ huy đồng tiền bé. Chúng cháu chỉ có một ông chủ thôi, đó là thị trường, mà quy luật của thị trường thì bất biến nên dễ ứng xử lắm" [30,tr.350]. Đôi khi người kể chuyện đúc kết một kinh nghiệm trong cuộc sống: "Đồng tiền do may mắn mà có, do đổi thay mà có, rất dễ là mầm mống của nhiều tai hoạ. Vì người có tiền chưa học cách tôn trọng đồng tiền, sai khiến đồng tiền". Bởi vậy, nhà văn đã phải cay đắng đưa ra triết lý: "Chân lý vĩnh cửu như không còn nữa. Hay dở, tốt xấu, thành bại đều được đáng giá theo những tiêu chuẩn bây giờ. Tiêu chuẩn của mọi tiêu chuẩn bây giờ là tiền. Nó là bản vị của mọi giá trị" [16,tr.10]. Trong giọng điệu trần thuật của Nguyễn Khải nổi bật lên giọng điệu chiêm nghiệm, triết lý của nhân vật người kể chuyện đóng vai trò là nhà văn, nhà báo (Sống ở đời), là chú Khải (Đã từng có những ngày vui), là ông Khải (Cái thời lãng mạn)... cùng với nhiều chi tiết tiểu sử (Một giọt nắng nhạt) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 94 bộc lộ nhu cầu của một nhà văn muốn nói về mình, muốn coi mình là đối tượng của văn chương. Đó còn là một nhà văn "vừa biết lắng nghe, thán phục, đồng thời cũng biết bợp tai thiên hạ. Người ấy biết tự thú, biết khiêm nhường, đặc biệt biết rõ chỗ non kém của mình" [4]. Giọng điệu chiêm nghiệm cá nhân của người kể như muốn đúc kết một vấn đề của thời vận, nhân sinh sau một thời gian dài tự nghiệm: "Mới biết thời thế đã đổi thay, một đời người là ngắn ngủi. Đã ngắn lại còn những giấc mộng hão huyền, những tham vọng vớ vẩn, những việc làm vô ích và buồn cười" [14,tr.181]. Và ông không khỏi không cảm thấy ngậm ngùi nuối tiếc: "Lúc khôn ra, hiểu ra, tỉnh ra thì già mất rồi, làm lại không được nên buồn, buồn và giận, giận mình là chính chứ không giận đời" [16, tr.169]. Nhà văn chiêm nghiệm về cái lẽ được, mất ở đời: "Có điều được cái gan góc thì mất cái mộng mơ. được cái trải đời lại hoá ra lì lợm. Khôn lên tức là ít tin đi, vẫn là mất, mất to" [12,tr.46]. Khi Nguyễn Khải có dịp gặp lại những nhân vật của mình hôm xưa khoẻ mạnh, đẹp đẽ, tự tin lúc nào cũng bừng bừng nhiệt huyết, muốn khẳng định vai trò làm chủ trong tương lai, mà nay, trong sự đổi mới của cơ chế thị trường, họ đã trở thành những "Anh hùng bĩ vận" thì ông mới cảm thấy hết sự biến đổi của cuộc đời. Trong truyện ngắn Cái thời lãng mạn, khi gặp lại anh Khang - người được tác giả gửi gắm rất nhiều niềm say mê của mình trước kia, nay là: "một ông bủ 50 tuổi xấp xỉ với tuổi bủ Sen, bủ Kiều năm xưa với những đứa con trứng gà, trứng vịt (...) với ông bố mới sáng ra đã cởi trần, đầu hói, bụng vú nhăn nhúm vừa ngồi vừa nói chuyện (...) chốc chốc (...) lại hò hét con cái". Nhà văn đã xót xa, chiêm nghiệm: "Hôm xưa chúng tôi nói chuyện đạo, bữa nay gặp lại toàn nói chuyện đời, một đời người đến là trầm luân khổ ải, nhưng không thể chết được, vì cái gan góc của người ta cũng không cùng." [16,tr.195]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 95 Trung thực với mình, chân thành bày tỏ những suy nghĩ riêng của mình, diễn đạt nhu cầu đổi mới của văn học, của xã hội. Nguyễn Khải cũng như các nhà văn khác khi nhìn lại các sáng tác của mình trước kia đã nhận ra đâu là giá trị đích thực. Một nhân vật của Nguyễn Minh Châu nói: "Dám tước bỏ đi hết mọi cái phù phiếm, những lớp bề ngoài vô bổ, tất cả những gì lấp lánh có thể dối mình và lừa người khác" để "tìm lại được mình" (Sắm vai). Còn nhân vật người kể chuyện của Nguyễn Khải "tự thú": "Đọc lại những trang viết của tôi một thời mà tiếc cho những năm tháng đã sống vất vả, sống nguy hiểm, sống hào hùng, rút lại chỉ còn là những bài báo nhạt nhẽo, không có một chi tiết nào là thật, không có một khung cảnh nào day dứt gợi nhớ, không có một gương mặt nào cám dỗ, ám ảnh" [14, tr.634]. Giọng điệu chiêm nghiệm, triết lý là giọng điệu chủ âm của truyện ngắn Nguyễn Khải thời kỳ đổi mới. Giọng điệu ấy được rút ra từ chính những trải nghiệm của nhà văn và của nhân vật. Vì vậy mà nó có sức hấp dẫn và lôi cuốn người đọc. 3.2. Sự tự thể hiện của tác giả thành hình tượng "Hình tượng tác giả là một phạm trù thể hiện cách tự ý thức của tác giả về vai trò xã hội và văn học của mình trong tác phẩm, một vai trò được người đọc chờ đợi" [5,tr.100]. Có nghĩa là trong tác phẩm văn chương bao giờ cũng có sự thể hiện hình tượng tác giả như là một sự tự ý thức của nhà văn về vai trò chủ thể tư tưởng khi quan sát, miêu tả sự vật hiện tượng, đánh giá cuộc sống. Hình thức tự thể hiện của hình tượng tác giả thường là thông qua nhân vật Người kể chuyện ở ngôi thứ ba - người quan sát, hoặc thông qua nhân vật Tôi trong tác phẩm. Các nhà nghiên cứu, phê bình văn học đã nhận thấy trong các sáng tác của Nguyễn Khải, nhà văn thường đứng ở nhiều góc độ, bình diện để kể và tả. Không chỉ kể bằng giọng của mình, bằng lời của người dẫn chuyện, tác giả Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 96 còn biến hoá thành nhiều giọng điệu phong phú khác nhau tạo nên sự đa thanh trong tác phẩm. Đọc truyện Nguyễn Khải ta thường được tiếp xúc với nhân vật người kể chuyện. Người kể chuyện khi thì là nhân vật chính kể lại câu chuyện của chính mình, lấy mình ra làm đối tượng để suy ngẫm, khi thì là nhân vật phụ trong vai trò người tổ chức, dẫn chuyện để cho nhân vật chính tự kể về mình, hoặc trực tiếp kể lại câu chuyện của nhân vật chính. Nhân vật Người kể chuyện trực tiếp tham dự vào câu chuyện ở nhiều vị trí linh hoạt, để phù hợp với mục đích kể chuyện và chiêm nghiệm của tác giả. Trong truyện ngắn Nguyễn Khải thời kỳ đầu, hình thức trần thuật phổ biến là trần thuật ngôi thứ ba - trần thuật khách quan. Ỏ đó, giữa nhà văn và nhân vật luôn tồn tại một khoảng cách. Nhà văn là người biết hết mọi điều, và dẫn dắt nhân vật, chèo lái câu chuyện theo ý của mình. Sau 1975, con người sử thi mất đi vị trí độc tôn, thay vào đó là con người đời tư thế sự. Miêu tả con người như nó vốn có, không lý tưởng thần thánh hoá nó là nét nổi bật trong quan niệm về con người của Nguyễn Khải (nói riêng) và của văn xuôi sau 1975 (nói chung). Song hành với sự chuyển biến của văn học, mạch trần thuật trong truyện ngắn của Nguyễn Khải có sự đổi mới mạnh mẽ. Trong những trang viết của ông, người ta thấy hiện lên chân dung của người nghệ sĩ ngôn từ, lúc thì ở nhân vật người kể chuyện ngôi thứ ba, lúc lại thấy ở nhân vật xưng Tôi, lúc lại thấy sự nhập giọng với nhân vật ở suy nghĩ, độc thoại. Nói cách khác, ở thời kỳ đổi mới, hình tượng tác giả trong truyện ngắn Nguyễn Khải xuất hiện đa dạng, phong phú và có chiều sâu hơn hẳn. Chủ thể trần thuật ở ngôi thứ ba ít dần đi, thay vào đó là nhà văn thể hiện cái Tôi của mình trong tác phẩm, khiến hình thức kể chuyện ở ngôi thứ nhất trở nên nổi bật. Trong hơn 70 truyện ngắn của Nguyễn Khải sau 1975, chúng tôi thấy có khoảng 60 truyện ngắn xuất hiện nhân vật người kể chuyện hữu hình trong tư cách nhân vật xưng Tôi. Thể hiện cái Tôi của mình trong Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 97 tác phẩm, Nguyễn Khải đã ý thức về sự trải nghiệm của chính mình, ông muốn lên tiếng, giãi bày, đối thoại với bạn đọc về mọi vấn đề trong cuộc sống với một mong muốn "khám phá thế giới bí ẩn, đầy bất trắc và bất thường bên trong mỗi con người, bên trong bản - thể - người" [1]. Sau đây, chúng tôi sẽ lần lượt đi khảo sát hình thức tự thể hiện của hình tượng tác giả ở các ngôi kể thứ ba và thứ nhất. 3.2.1. Lối trần thuật ở ngôi thứ ba Trước Nguyễn Khải đã có rất nhiều nhà văn sử dụng phương thức trần thuật ở ngôi thứ ba - phương thức trần thuật khách quan và ẩn sau nó là hình tượng tác giả. Ưu điểm của phương thức trần thuật này là: "Nó không chỉ tái hiện cái được kể mà còn tái hiện người kể. Nó mang dấu ấn về cách nói, cách cảm thụ thế giới và cuối cùng là những tư chất trí tuệ và tình cảm của người trần thuật" [35,tr.89-90]. Mỗi nhà văn khi sử dụng phương pháp trần thuật này đều để lại dấu ấn của mình: một Ngô Tất Tố nghiêm túc tỉnh táo; một Nguyễn Công Hoan hóm hỉnh tinh quái; một Nam Cao dửng dưng lạnh lùng; một Nguyên Hồng xót xa, đau đớn; một Nguyễn Tuân dềnh dàng nhưng tự tin, bình tĩnh... Đến Nguyễn Khải, qua phương thức trần thuật khách quan, người ta thấy hiện lên chân dung một tác giả thâm trầm, chiêm nghiệm triết lý sâu sắc. Ở một số truyện ngắn, Nguyễn Khải sử dụng nhân vật "người kể vô hình" đứng ở ngôi thứ ba, không xuất hiện trực tiếp trong tác phẩm, nhưng Người kể chuyện này lại giữ vai trò tổ chức mọi đường dây sự kiện. Sử dụng quan điểm trần thuật khách quan tạo cho nhà văn và nhân vật có khoảng cách, tiện lợi cho việc quan sát đối tượng mà nhà văn cần miêu tả Dễ nhận ra hình thức trần thuật này nhất chính là ở cách mở đầu tác phẩm - một cách mở đầu hoàn toàn khách quan. Mở đầu truyện ngắn Một thời gió bụi tác giả viết: "Năm 55 tuổi, Tú người phụ trách văn nghệ của tờ báo ngành xin nghỉ hưu..." [30,tr.262]. Mở đầu Cặp vợ chồng ở chân động Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 98 Từ Thức: "Còn cách động Từ Thức khoảng vài trăm mét, có một ngôi nhà lợp ngói trong một vùng tre cây mới..." [30,tr.282]. Mở đầu Người của nghề: "Tú về khu tập thể bãi Nghĩa Dung được hai năm thì bà Tuất mới ở quê ra bế cháu nội" [30,tr.405]. Đấy là cách giới thiệu truyện bắt đầu từ điểm nhìn bên ngoài. Sử dụng cách giới thiệu này, dường như tác giả muốn cho câu chuyện thật sự khách quan. Trong truyện ngắn Người của nghề, người trần thuật chăm chú, quan sát từ bên ngoài, để câu chuyện dàn trải ra với những chi tiết chân thực , tỉ mỉ, cụ thể tới mức người đọc có cảm giác được tận mắt chứng kiến sự thực đó . Người trần thuật đã sử dụng bút pháp hiện thực tỉnh táo để "điềm nhiên" hướng "ống kính" vào từng chi tiết vụn vặt làm mất dần cái giản dị tốt đẹp của một người phụ nữ nông thôn như bà Tuất. Từ giọng nói "lịch thiệp giả dối (...) uốn éo, cười gượng gạo, thớ lợ". Cách ăn mặc thì "áo cổ bẻ, tay áo có khuy cài, quần thâm đũng cao" nhưng lại để "răng đen" [19,tr.288]. Chỉ bằng một vài chi tiết rất nhỏ, nhà văn đã khéo léo phô bày cái "nghịch lý" trong vai diễn của bà Tuất. Cách miêu tả của tác giả càng khách quan bao nhiêu, người đọc càng thấy nổi rõ sự lố bịch của nhân vật bấy nhiêu. Miêu tả Tú, tác giả nhận ra anh "trí tuệ sáng láng, hành động táo bạo, nói năng sắc bén trong thế giới vật chất còn khi bước sang thế giới trừu tượng, thế giới của triết học, thì sự có mặt của anh luôn thừa" [19,tr.287]. Để cho câu chuyện có tính khách quan hơn nữa, người trần thuật đặt hai nhân vật của mình dưới sự phán xét của những nhân vật khác trong truyện. Với bà Tuất đó là trong sự quan sát của chính cô con dâu, thái độ coi thường của Liên, trong nỗi khổ tâm của Dũng - người phải dàn hoà sự hiểu lầm giữa nàng dâu và mẹ chồng... Còn Tú, mọi ưu điểm và khuyết điểm của anh được nhìn nhận, đánh giá qua ánh mắt, thái độ của bạn bè đồng nghiệp. Tác giả như đứng lẫn cùng các nhân vật để quan sát Tú. Đó là sự ái ngại đến mức khổ tâm của những người duyệt bài, trong cái Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 99 nhìn, giọng nói, cử chỉ xem thường của một cây bút trẻ, rồi còn sự bối rối, khó xử của ông tổng biên tập về vai trò nhà báo bất đắc dĩ của Tú. Tất cả được hiện ra trong lời kể khách quan tỉnh táo của nhà văn. Bằng cách kể khách quan, kết hợp với lời văn vừa hài hước vừa trang nghiêm của người từng trải, tác giả đã hướng người đọc vào bản thân sự việc để từ đó có thể rút ra bài học thấm thía: Đừng đánh mất cái tôi trong ảo tưởng, mỗi con người phải có một nghề, hãy đam mê, sống chết vì nó, dù cho đó là công việc bình thường nhất, nếu thực sự yêu mến nó, trân trọng nó thì tài năng, nhân cách sẽ được nhân lên gấp bội. Và sự thành công hay thất bại, đáng trọng hay đáng cười đều bắt đầu từ sự lựa chọn đúng - sai của mỗi con người. Trong truyện ngắn Đàn bà, mạch truyện gần như không có một lời phẩm bình nào về cuộc sống bi kịch của gia đình Lưu. Người trần thuật quan sát từ bên ngoài, miêu tả với những chi tiết chân thực, tỉ mỉ: "Căn hộ của vợ chồng trẻ ấy không có tiếng cười, không có cả tiếng nói. Chồng về rất khuya cũng chỉ nghe có tiếng mở cửa rồi tiếng dội nước, không thấy bật dèn, cũng không nghe ai hỏi ai (...). Họ chỉ nói với nhau khi có bạn bè tới thăm hoặc trước mặt hàng xóm. Con bé đã lên năm, đi mẫu giáo rất ngoan, đến giờ đón con mà bố mẹ chưa về thì bác hàng xóm đón (...) nũng nịu với các anh chị, hỏi han cười đùa như mọi đứa trẻ khác. Nhưng ở với bố mẹ (...) cả ngày không nói, cười cũng không, mắt nhìn lấm lét như là sợ" [19,tr.398]. Bằng sự điềm nhiên của người trần thuật, ông đã thực sự phát hiện ra "tảng băng chìm" đang ẩn sâu trong cuộc sống vợ chồng Lưu. Nhà văn miêu tả tâm trạng đau đớn, thất vọng của Lưu khi cuộc hôn nhân đổ vỡ, điều này dẫn đến suy nghĩ có phần bi quan lệch lạc của anh ta về phụ nữ. Nhưng cuộc chạm trán bất ngờ, đầy kịch tính giữa anh và người vợ của tên giang hồ Tích híp đã làm anh thức tỉnh. Và trong anh xuất hiện một cách đánh giá khác hơn về nhân cách con người. Anh chợt nhận ra "ánh mắt Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 100 mừng rỡ và biết ơn" của người phụ nữ và câu hỏi đầy ngạc nhiên nghi ngờ của Lưu về việc "một cái thúc của anh vào ngực thằng thanh niên cũng phải há miệng buông tay, huống hồ..." lại là người phụ nữ teo tóp, nhỏ bé. Chính sự điềm tĩnh đến thản nhiên của người mẹ khi cậu con trai đi học về và trước sự thắc mắc về tiếng "ầm ầm như có đánh nhau" của hàng xóm khiến Lưu bàng hoàng. Sự tức giận của anh đã chuyển sang thán phục đến mức kinh ngạc: "lời nói dịu dàng, cung cách con nhà gia giáo mà chịu làm vợ một thằng tướng cướp ư ? Vợ con như thế, trời ưu đãi đến thế mà không chịu làm người đàng hoàng thật là uổng quá, là một thằng đàn ông ngu quá. Cũng như đã có những con đàn bà hết sức ngu" (Đàn bà). Sự bình tĩnh đến kỳ lạ của người phụ nữ trước biến cố lớn lao của gia đình là vì lẽ gì ? Con người gầy gò ấy lấy đâu ra sức mạnh kỳ diệu đến như vậy cả về sức lực lẫn tinh thần ? Sức mạnh đó chính là vì hạnh phúc gia đình, nhất là vì tương lai của đứa con. Nó sẽ thất vọng biết bao khi biết rằng bố nó là một tên lưu manh và sự nhục nhã, đau khổ sẽ càng tăng lên gấp bội nếu bố nó bị bắn chết. Trong vai trò của một "vị thần" biết hết, các nhân vật được trần thuật từ ngôi thứ ba, Nguyễn Khải luôn tạo ra khoảng cách cần có để câu chuyện mang tính khách quan. Trần thuật khách quan, Nguyễn Khải thường miêu tả hiện thực ở thời hiện tại, câu chuyện của ông là những gì đang diễn ra, là những mảnh đời nhỏ bé xung quanh chúng ta. Tác phẩm của ông là những thông tin về đời sống con người trong sự đổi mới của đất nước. Mỗi truyện là một mảng hiện thực sống động, một xã hội thu nhỏ đã được nhà văn đưa lên trang viết để cùng người đọc suy ngẫm và chiêm nghiệm. Phổ biến hơn và ở đó cũng thể hiện đầy đủ hơn khả năng chiếm lĩnh thế giới nghệ thuật, quan niệm về con người của Nguyễn Khải là những truyện mà ông hoàn toàn thâm nhập vào nhân vật của mình: Người trần thuật đã di Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 101 chuyển điểm nhìn trần thuật vào bên trong nhân vật để tái hiện thế giới tâm hồn của họ. Khi có sự thâm nhập của chủ thể trần thuật vào trong các nhân vật của mình "khoảng cách giữa người trần thuật và nhân vật, trên thực tế bị thủ tiêu, điểm nhìn của cả hai phía đều hoà làm một ... Nhân vật mà người trần thuật ghé vào được miêu tả dường như từ bên trong "cần phải dời chỗ vào nhân vật"" [35, tr.91]. Nam Cao là nhà văn đã vận dụng rất tài tình quan điểm trần thuật này, chính nó làm nên đặc sắc trong truyện ngắn Nam Cao. Điểm nhìn khách quan bên ngoài được chuyển vào nội tâm nhân vật, buộc nhân vật phải nói lên ý nghĩ của mình. Trong truyện ngắn Nguyễn Khải, người trần thuật ở đây không phải là nhân vật Tôi trực tiếp kể chuyện mà "ẩn sau nhân vật" để phản ánh hiện thực và mô tả tâm lý nhân vật một cách sắc sảo và sinh động. Đặt điểm nhìn từ bên trong nội tâm nhân vật, Nguyễn Khải đã tái hiện dòng ý thức của ông Trắc (Lạc Thời) trong ngôn ngữ nửa trực tiếp. Bắt đầu từ điểm nhìn khách quan nhưng tác giả ít khi giữ được khách quan tuyệt đối mà nhập vào nhân vật để khắc hoạ những dòng độc thoại nội tâm của ông Trắc về những vấn đề nhức nhối trong đời sống nhân sinh. Vì sao: những người hôm qua còn là bạn bè, còn có tình thân nay lại coi nhau như người xa lạ ? Cảm giác bị "bỏ quên" cứ xoáy sâu vào lòng ông Trắc. Cái đẹp đẽ còn lưu lại, vương vấn chút tình đời mà ông cố níu giữ là "cái thời xưa", "cái thời gian nan nhưng bạn bè ấm cúng vì không ai nỡ để mình và gia đình bị đói dẫu rằng ở một cái tỉnh luôn đói". Mà "cái thời ấy mới cách đây mấy năm chứ mấy, có ai nỡ đối xử với ông như cái ngày vừa rồi, một ngày thật buồn" [19,tr.351]. Lời văn vừa chứa đựng sự tủi hờn của một người "lạc thời" vừa là lời suy tư, cảm thông của chính tác giả. Nhà văn đã nhập thân vào nhân vật nói hộ những suy nghĩ của ông Trắc: "Tôi, vâng chính tôi, một thằng nhà báo già thiếu tài năng nhưng không thiếu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 102 tâm huyết (...) Nhưng họ đã quên tôi rồi. Tôi ngồi sờ sờ ở đây mà họ vẫn muốn quên, một lời mời cho tử tế cũng chả có. Mà quen biết tôi, bầu bạn với tôi, các vị ấy chẳng được một chút lợi lộc gì. Tôi không có tiền lại không có danh, có khi còn gây phiền. Nhưng tôi có tấm lòng trung thực (...) chỉ tiếc cái tấm lòng ấy không thể bày lên bàn tiệc mà nhắm rượu. Bây giờ người ta chỉ nhắm rượu với cái lợi, cái danh thôi, với người sang hoặc người có tiền thôi. Tôi nói thế có đúng không các vị? Buồn nhỉ? Tôi buồn quá các người ơi!" [19.tr.355-356]. Ngòi bút uyển chuyển linh hoạt của nhà văn đã kết hợp khéo léo giữa ngôn ngữ độc thoại nội tâm và ngôn ngữ tác giả, sự hoà trộn tinh vi đến mức người đọc khó lòng nhận biết nhân vật đang nói hay nhà văn đang nói. Như vậy, dù người kể vẫn ở ngôi thứ ba nhưng đến đây hoàn toàn nhập vào nhân vật để nó kể, suy nghĩ bằng ngôi thứ nhất. Nhờ sự kết hợp tài tình này, chân dung tính cách nhân vật và tư tưởng tác phẩm được khắc hoạ rõ nét. Mở đầu chuyện ngắn Ông cháu, cái nhìn khách quan giúp người đọc có thể hình dung phần nào cảnh ngộ éo le của nhân vật. Người trần thuật đã phác hoạ đôi nét về cuộc sống của hai ông cháu trong những ngày tha phương cầu thực. Dõi theo mạch trần thuật, chúng ta có thể nhìn thấy điểm nhìn từ bên ngoài ở phần đầu câu chuyện đã di chuyển vào bên trong nhân vật nhằm tái hiện lại cuộc đời cay đắng, nhọc nhằn của một con người đã bị số phận "đùa giỡn" ."Trời bắt ông khoẻ để hầu vợ và chôn vợ, để hầu con và chôn con". Nhìn câu văn bề ngoài đó là ngôn ngữ người trần thuật, nhưng nội dung thông báo lại là của nhân vật. Lúc nào trong ông cũng vang lên câu hỏi như cứa thêm vào trái tim vốn đã tan nát của ông: "Tại sao ông lại khoẻ thế mà con ông lại bệnh tật thế ? Tại sao ông không chết mà con ông lại chết để vợ con nó chịu cảnh goá bụa sớm? Tại sao ông lại nghèo thế, con chết rồi, nhà cửa tan tành, vợ con nó biết trông cậy vào đâu" [19,tr.315]. Đây là lời người trần Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 103 thuật nói về nhân vật hay là lời tự vấn lương tâm của chính nhân vật ? Câu văn chứa đựng nhiều ý nghĩa, vừa là tâm trạng đau đớn đến tột cùng của người cha, vừa là niềm thương cảm của tác giả gửi gắm vào trong câu văn, hay nói đúng hơn là sự hoá thân của Nguyễn Khải vào nhân vật của mình để lột tả những diễn biến nội tâm đang giằng xé của một trái tim yêu thương và nhân hậu. Ngòi bút Nguyễn Khải khi thì đứng tách ra quan sát các nhân vật trong thái độ, hành vi đối với nhau, khi lại nhập hẳn vào nhân vật trong ý nghĩ, trong tình cảm để bình xét, để phân tích. Nguyễn Khải đã đưa lại một hiệu quả đặc sắc cho lối trần thuật vốn thông dụng và cổ điển này. 3.2.2. Lối trần thuật ở ngôi thứ nhất M.Gorki đã từng nói: "Trong tiểu thuyết hay truyện, những con người được tác giả thể hiện đều hành động với sự giúp đỡ của tác giả. Tác giả luôn ở bên cạnh họ, mách cho người đọc biết rõ phải hiểu họ thế nào, giải thích cho người đọc hiểu những ý nghĩ thầm kín, những động cơ bí ẩn phía sau các nhân vật được miêu tả, tô đậm thêm cho tâm trạng họ bằng những đoạn miêu tả thiên nhiên, trình bày hoàn cảnh và nói chung là luôn giật dây cho họ thực hiện những mục đích của mình, điều khiển một cách tự do và nhiều khi rất khéo léo mặc dù người đọc không nhận thấy những hành động, những lời nói, những việc làm, những mối tương quan của họ" [5,tr.247]. Trong truyện ngắn thời kỳ đổi mới, Nguyễn Khải không dừng lại ở việc trần thuật khách quan những sự việc, sự kiện mà còn hoá thân vào nhân vật, trở thành một nhân vật Tôi nào đó trong tác phẩm để quan sát và miêu tả, kể chuyện theo cách nhìn và quan điểm cá nhân. Trong truyện ngắn Nguyễn Khải, nhân vật người kể chuyện xưng Tôi xuất hiện khá nhiều. Không phải kiểu nhân vật đặc biệt do nhà văn sáng tạo ra (ví dụ như người điên trong Nhật kí người điên của Lỗ Tấn), nhân vật người kể chuyện trong sáng tác Nguyễn Khải phần nhiều là Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 104 hình tượng của chính tác giả. Tất nhiên không nên đồng nhất hoàn toàn nhân vật người kể chuyện dạng này với con người thật của tác giả ngoài đời. Nguyễn Khải nhập vai cái Tôi này một cách thật đa dạng, sinh động, khi thì với tư cách người chứng kiến, xác nhận (Đàn ông, Phía khuất mặt người, Một bàn tay và chín bàn tay, Lãng tử, Chuyện tình của mỗi người), khi khác là người trong cuộc, tự nếm trải giãi bày (Người ngu, Mẹ và bà ngoại, Một chiều mùa đông, Chút phấn của đời). Với sự nhập vai này, nhà văn đi sâu vào thế giới nội tâm của nhân vật để phân tích và phát hiện vấn đề. Với cái Tôi riêng tư, nhân vật được soi chiếu ở nhiều góc cạnh và nhờ đó được tự do bình luận, bày tỏ quan điểm theo ý nghĩ chủ quan của mình. Sử dụng lối trần thuật theo ngôi thứ nhất, cái Tôi trong truyện ngắn Nguyễn Khải thường được thể hiện ở hai dạng: 3.2.2.1."Tôi" là nhân chứng, là người quan sát kể lại câu chuyện Với tư cách người chứng kiến, người kể chuyện xuất hiện trong truyện ngắn ngay từ đầu. "Tôi về xã Đồng Tiến là do sự rủ rê của một người bạn" (Cái thời lãng mạn), "Mỗi lần ra Hà Nội tôi thường dùng bữa ở quán cơm nhìn sang bãi xe khách Bến Nứa" (Chuyện tình của mỗi người), "Chúng tôi gọi cô là cô Hiền, là chị em đôi con dì ruột với mẹ già tôi" (Một người Hà Nội)... Đấy là cách mở đầu quen thuộc từ điểm nhìn trần thuật của nhân vật người kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Khải thời kỳ Đổi mới. Cùng với sự mở đầu như vậy, câu chuyện được dẫn dắt theo mạch kể của người kể chuyện. Bởi nội dung kể là những sự việc, sự kiện đã từng xảy ra và nhân vật được kể là người thân, bạn bè, đồng nghiệp, xóm giềng của người kể chuyện nên câu chuyện cũng được soi chiếu từ nhiều phía, dưới nhiều góc độ, từ quá khứ đến hiện tại và từ hiện tại trở về quá khứ. Trong vai một người hàng xóm, Nguyễn Khải đã kể tỉ mỉ cuộc sống của chị Vách (Đời khổ), từ sự phục tùng tuyệt đối của chị đối với ông chồng vô tích sự, sự chăm lo hết lòng, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 105 hết sức cho cái gia đình vốn không lấy gì làm bé nhỏ lắm và trên hết dưới mắt tác giả, chị là người đàn bà "vô lo, vô nghĩ". Dõi theo từng đoạn đời chị Vách, người kể luôn luôn ngạc nhiên và cũng khâm phục sức chịu đựng, hy sinh vì người khác của chị. Đứng ở một vị trí quan sát vô cùng tiện lợi - một người hàng xóm, người kể có thể nhận thấy rõ ràng mọi sự kiện trong cuộc đời chị Vách, và cuộc sống riêng tư của chị đã được nhân vật Tôi miêu tả bằng giọng kể chân thực khách quan. Ẩn sau lời văn ấy là sự chua xót, thương cảm của người kể về nỗi khổ đeo đẳng suốt cuộc đời chị Vách. Và nỗi xót thương đối với nhân vật đã đồng vọng trong lời bình luận của Tôi: "Vâng tại chị cả, trăm tội, ngàn tội phải đổ lên đầu chị nếu ông chồng siêu đẳng của chị còn sống thì chúng nó đâu đến nỗi (...) chính tôi cũng muốn bật khóc". Truyện Nắng chiều với những chi tiết, hình ảnh giản dị, người kể đã giúp người đọc hình dung cái ngọt ngào của hạnh phúc muộn mằn của những người "xế bóng". Cả cuộc đời chị Bơ phải chịu thiệt thòi, thiếu thốn tình cảm. Một người đàn bà tưởng con dòng cháu giống hoá ra cả đời hầu hạ các em, các cháu, về già mới có chút hạnh phúc riêng. Tái hiện cuộc đời chị Bơ, lời kể ẩn chứa nhiều xót xa thương cảm, nhưng cũng có niềm vui, sự xúc động trước tình cảm mọi người dành cho chị. Niềm hạnh phúc đến với chị, theo người kể, một phần là do "mãnh lực tình yêu" của các cụ "không tiêu xài phung phí lúc thiếu thời" và một phần quan trọng là "ở cái tâm tốt của con người". Qua cuộc đời, số phận và niềm hạnh phúc của người chị họ, người kể dường như muốn khái quát lên thành vấn đề có ý nghĩa triết lý nhân sinh về hạnh phúc, tình yêu, sự bất tử của nó cũng như mối quan hệ giữa nó với chữ " tâm" của con người". Nổi bật trong các truyện ngắn của Nguyễn Khải ở những truyện thuộc dạng này là giọng điệu ngợi ca, trân trọng và kính phục đối với các nhân vật của mình. Từ bà cô trong Nếp nhà, cô Hiền (Một người Hà Nội )... hay một Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 106 nghệ nhân ở làng, đến những con người lăn lộn với thương trường hôm qua như Hiền (Tiền) và hôm nay như Lộc (Chúng tôi và bọn hắn)... Người nào cũng đẹp, cũng có một nhân cách, tuy nhân cách của mỗi người một khác theo cách ứng xử trước thời thế, nhưng họ đều là tấm gương về mặt này hay mặt kia. Tất cả các nhân vật đều sống động như trong cuộc sống thực. Chọn phương pháp kể chuyện ở ngôi thứ nhất, nhà văn có điều kiện bày tỏ tình cảm của mình một cách chân thành nhất, đồng thời vẫn tái hiện được những nhân cách cao đẹp. Ở truyện ngắn Cặp vợ chồng dưới chân động Từ Thức, nhân vật Tôi đến thăm gia đình Toàn. Với lòng cảm thông, khâm phục trước cuộc sống của một anh thương binh mù và người vợ tần tảo, và một niềm xúc động trước bản lĩnh sống của họ, người kể đã có những câu văn hết sức chân thành, xúc động: "Tôi bưng bát cơm gạo xấu lên mà lòng cứ ngậm ngùi. Những người quá giàu lòng tự trọng, lại có tính hay xấu hổ là sống gian truân lắm. Nhưng không có những con người gàn dở ấy, những số phận ít gặp may ấy thì cuộc đời nhạt nhẽo biết chừng nào" [19,tr.283]. Có khi tác giả là người trần thuật ban đầu nhưng sau đó tham gia vào cốt truyện, gia nhập vào những cảnh ngộ để nói lên tiếng nói của người nếm trải như truyện Hai ông già ở Đồng Tháp Mười. Hai con người hoàn toàn xa lạ, nay do thời thế họ gặp nhau và dựa vào nhau để có chỗ đứng trong cuộc sống. Nhưng Nguyễn Khải không dừng lại miêu tả tỉ mỉ những biến cố trong cuộc đời họ mà chỉ dừng lại miêu tả tâm lý, tinh thần của con người trước tai hoạ. Ông Hai trải qua bi quan tuyệt vọng đã có lúc nghĩ đến cái chết nhưng nhờ có tình cảm đùm bọc, yêu thương của con người, cuộc sống của ông dần dần hồi sinh trở lại. Một con ngưòi từng biết "cái mặn chát của một kiếp người" nay đã phải ứa nước mắt "vì cái khắc nghiệt của đời cũng có mà cái bao dung của đời cũng có". Còn niềm tin của ông Ba Quốc Hội là công lao của ông dù được Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 107 công nhận hay không, ông không cần nói ra, miễn sao khi gặp mọi người lương tâm ông được thanh thản "không phải ngượng nghịu, xấu hổ" là được. Trực tiếp đối thoại cùng nhân vật, người kể đã phát hiện ra tiềm lực tinh thần của con người: "Cái tiềm lực của ông già lớn thật, người mạnh như thế cứ rẽ sóng, rẽ gió mà đi, có tai hoạ rủi ro nào dám bén mảng" [19,tr.215]. Sâu sắc hơn là tình cảm người kể chuyện đối với con người và cuộc đời: "Một gương mặt rạng rỡ, tự tin, một gương mặt nhẫn nhục chịu đựng, hai gương mặt của một kiếp người sao khéo gặp nhau để gợi nên một niềm vui, một niềm tin mà chỉ lúc đứng tuổi mới nhận ra cái ý nghĩa thâm trầm của nó" [19,tr.223]. 3.2.2.2. "Tôi" là nhân vật chính tự kể về mình Sáng tác theo kiểu trần thuật này là cái Tôi tự bộc bạch tâm tư tình cảm của mình, chủ thể trần thuật được "nhân vật hoá" trực tiếp làm người kể chuyện, kể lại chuyện của chính mình. Cái Tôi của người kể chuyện nhiều khi trùng hợp với các sự kiện đời sống và tâm tư tình cảm của bản thân nhà văn. Nhưng cũng có khi chỉ để thể hiện "cái ngoài mình", một hiện thực cuộc sống được "khúc xạ qua lăng kính của nhà văn". Và khi đó cái Tôi không hoàn toàn đồng nhất với số phận, tính cách của nhà văn. Kiểu trần thuật này được thể hiện qua các tác phẩm: Một giọt nắng nhạt, Nghề văn cũng lắm công phu, Chút phấn của đời, Anh hùng bĩ vận... Những sáng tác trên đều là "hình thức trần thuật có tính bộc lộ chủ quan và mang sắc thái cảm xúc cao độ" [33,tr.150]. Người trần thuật ở đây hoàn toàn nhập vào nhân vật để quan sát, giãi bày, tự mổ xẻ, phân tích nội tâm của mình. Tác giả là người hướng vào diễn biến tâm lý bên trong của cái Tôi đang ở vai trò người kể chuyện. Chuyện được kể theo trình tự thời gian, với lối nói dung dị, chân dung người kể chuyện dần dần hiện ra trước mắt độc giả với những nét dáng và phẩm chất cụ thể. Người vợ- người mẹ trong Chút phấn của đời tự thuật lại câu chuyện Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 108 với một sự tự ý thức về bản thân cao độ. Đó là một người phụ nữ tuổi ngoài 40 mà vẫn đẹp, vẫn đầy sức thu hút và chinh phục người khác phái. Người phụ nữ ấy có quyền mơ ước một cuộc sống cao sang và hoàn toàn có thể thực hiện được niềm mơ ước ấy. Thế nhưng, không chạy theo những ảo tưởng xa xôi. người đàn bà đẹp đã ý thức về vị thế của mình, ý thức được quy luật của sự "cho" và "nhận" trong cuộc sống. Nhập vai vào nhân vật, thể hiện nội tâm đầy phức tạp của người phụ nữ đẹp chấp nhận cuộc đời làm vợ, làm mẹ bình thường với biết bao vất vả, người kể chuyện đã thể hiện sự cảm thông, chia sẻ, thấu hiểu mọi cung bậc tình cảm và tâm hồn nhân vật. Lời tâm sự của nhân vật trong trang sách ta nghe như lời chuyện trò, giãi bày của một người bạn ở ngoài cuộc đời: "Tôi vẫn vui chứ! Nhưng là niềm vui của sự cho, của hy sinh, nó là chút phấn của đời giúp mình sống yên ổn những năm còn lại. Ở hoàn cảnh tôi, ở lứa tuổi tôi còn mong được nhận để bù lại nhiều năm đã thiếu tức là tìm niềm vui trên gai nhọn. Tôi còn có nhiều máu đâu để hy vọng hồi sinh. Đó là một bí mật nho nhỏ tôi muốn giữ riêng cho tới khi chết" (Chút phấn của đời). Trong truyện ngắn Nguyễn Khải thời kỳ đổi mới "có một người kể chuyện đóng vai tác giả là nhà văn, nhà báo, là "Chú Khải", "Ông Khải..." cùng với rất nhiều chi tiết tiểu sử như biểu hiện nhu cầu nhà văn muốn nói về mình, muốn coi mình là đối tượng của văn chương" [4,tr.141]. Trong lời Tự bạch, nhà văn đã từng tâm sự: "Nếu một truyện ngắn hoặc một cuốn tuểu thuyết chỉ có chuyện của người không có chuyện của mình thì mạng sống của nó không thể dài hơn một bài báo (...) Mọi truyện ngắn và tiểu thuyết của tôi, nói cho cùng đều là tôi cả hoặc có thể là tôi, nên có những truyện được viết cách đây đã trên dưới bốn chục năm, nay đọc lại vẫn đem lại cho tôi nhũng cảm nghĩ bây giờ, những xúc động bây giờ" [26,tr.421]. Tâm lý chung của độc giả là đã tin thì dễ yêu. Khi nhà văn đem chính chuyện đời mình, người Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 109 thân của mình ra mà kể, chờ đợi một lời khuyên bảo, phán xét từ phía người nghe thì giữa độc giả và tác giả tự nhiên thiết lập mối quan hệ tâm tình bè bạn. Tâm lý đó rất thuận lợi để tiếp nhận thái độ yêu ghét của người kể thể hiện qua giọng kể nói riêng và tác phẩm nói chung. Người ta thấy, "Nguyễn Khải hay viết về bản thân mình, một lối hồi ký, tự truyện" (Nguyễn Đăng Mạnh). Và trong thế giới nghệ thuật của ông, người ta thường thấy có bóng dáng ông, hình mẫu lí tưởng của ông hay bóng dáng những người dì, người mẹ, bóng dáng những kỷ niệm ngọt ngào và cay đắng của tuổi thơ ông. Ông khai thác triệt để vào cái kho kinh nghiệm riêng, vốn trải nghiệm riêng của mình để viết nên nhiều truyện ngắn mang tính chất hồi ức. Cầm bút viết văn, Nguyễn Khải nghĩ: "Tôi đã gặp lại chính tôi, gặp lại những người thân thiết của tôi để có dịp nhìn lại, ngẫm lại" con người và cuộc đời (Hồi ức). Đó là những câu chuyện rất thật, rất chân thành, rất xúc động, bởi "mọi truyện ngắn và tiểu thuyết của tôi, nói cho cùng đều là tôi cả hoặc có thể là tôi". Nhà văn chỉ có thể đặt bút viết nếu "được chạm vào việc và những cảnh ngộ có thật trong cuộc sống" và "tôi chỉ mượn cái vỏ, cái xác của người này, người kia, còn cái hồn phải là của chính mình" [19, tr6-7]. Đem cuộc đời của mình ra viết với một sự thành thực như 'lộn trái" bản thân, truyện ngắn Nguyễn Khải nhiều lúc giống như tự truyện. Ở những truyện ngắn này, người kể chuyện thường đống vai nhân vật "Tôi", là "Ông Khải", "Chú Khải" với rất nhiều chi tiết tự truyện. Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy nhân vật này xuất hiện trong truyện ngắn Nguyễn Khải một cách khá dày đặc, phổ biến và chiếm tới 2/3 số lượng truyện ngắn của ông. Nếu xâu chuỗi các sự kiện mà các nhân vật kể trong truyện ngắn thì ta nhận ra bóng dáng, tiểu sử, những mốc thời gian trong cuộc đời của bản thân nhà văn. Chẳng hạn những ngày tháng ông cùng mẹ và em trai về sơ tán ở Hưng Yên, những ngày tháng sống ở bãi Phúc xá, phố Đỗ Hữu Vị, gia nhập đội dân quân Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 110 tự vệ... Nguyễn Khải rất có ý thức trong việc xây dựng cái "Tôi" tự hoạ này. Trong nhiều truyện của ông, cái nổi bật không phải là những tình tiết li kì hay những nhân vật khác lạ, mà chủ yếu xoay quanh những suy ngẫm, thái độ, tình cảm hay cách đánh giá của cái "Tôi" - nhà văn về cuộc sống và con người. Ở truyện ngắn Một giọt nắng nhạt người ta thấy Nguyễn Khải đã đưa tất cả cuộc đời lai lịch riêng lên trang giấy, cái "cánh cửa bị đóng chặt" (theo cách nói của nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn) đã được mở toang ra. Tác giả đem đời tư của mình viết nên những dòng tự truyện hấp dẫn. Mạch trần thuật trong Một giọt nắng nhạt luôn được nối tiếp, đan xen giữa quá khứ và hiện tại. Nhân vật Tôi sau những gì mà tuổi ấu thơ của mình từng nếm trải, đã ý thức để vượt lên chính mình. Toàn truyện là "những lời thiết tha thầm kín, những hồi ức về một cái tôi đau khổ, tự trình bày cuộc đời riêng" của mình. Tuổi thơ của Tôi in đậm nỗi khổ đau của một cậu bé vốn khờ khạo, vụng về, lại là con của một người vợ lẽ, nhưng bị chồng hắt hủi, ghẻ lạnh nên cuộc sống cơ cực phải chạy ăn từng bữa. Đó là cuộc sống ê chề, nhục nhã đến nỗi vài chục năm sau khi nhớ lại, tác giả vẫn còn thấy "ớn rợn": "Con chẳng ra con, đầy tớ chẳng ra đầy tớ, bỏ đi không được, cứ nhẫn nhục trơ tráo mà sống" [15,tr.510]. Dòng tự truyện của nhân vật xoay quanh thời thơ ấu gian khổ, đắng cay, có lẽ không có một nỗi khổ nào mà nhân vật không phải trải qua, nhất là khi bị nghi là ăn cắp và bị đuổi ra khỏi nhà... Tôi quay trở về với mẹ và em trong một thân hình ghẻ lở, ốm yếu và cuộc sống bi đát đến mức cả ba mẹ con nghĩ đến chuyện cùng nhau tự tử... Tất cả được tái hiện một cách chân thực qua lời tự truyện của người kể. Cuộc sống, như người kể từng khẳng định: "Cái khổ cũng có giới hạn của nó, khổ quá người ta có thể chết, mà đã chết là hết cả mọi chuyện, hết lo, hết sợ, hết nhục, hết cả đói" [15,tr.550]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 111 Tôi trong Nghề văn cũng lắm công phu đã kể về bước đầu "chập chững" đến với văn học, dần dần qua trau dồi, rèn luyện đã trở nên vững vàng, gắn bó với nó đến mức "dù nghề bạc đãi tôi, hành hạ tôi dù là thế tôi vẫn tự nhủ quyết không bỏ" [15,tr.666]. Nhân vật Tôi trong truyện không có sự giằng xé nội tâm, dằn vặt, mổ xẻ tâm lý như người hoạ sĩ trong truyện ngắn Bức tranh (Nguyễn Minh Châu) mà chỉ là lời kể, dẫn dắt người đọc đến với những kỷ niệm vui buồn trong nghề viết văn của mình. Trong văn học thời kỳ đổi mới, nhà văn Nguyễn Minh Châu cũng hay sử dụng lối trần thuật ở ngôi thứ nhất. Nhân vật Tôi của Nguyễn Minh Châu cũng thường là nhân vật trí thức làm nghề viết văn, viết báo. Nhưng ở Nguyễn Khải, "nhân vật Người kể chuyện hữu hình mang dáng dấp cái tôi tự hoạ đầy ý thức của nhà văn" đậm nét hơn. Và đó "là một sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của Nguyễn Khải về kiểu con người tự ý thức trong văn học, đặc biệt là văn học thời kỳ Đổi mới" [29,tr.190]. Trên một vài phương diện có thể nói, kiểu chân dung tự hoạ của Nguyễn Khải có những điểm tương đồng với kiểu chân dung tự hoạ của Nam Cao ở khát vọng nhận thức và nhu cầu giãi bày, chiêm nghiệm. Trong sáng tác của Nguyễn Khải, các điểm nhìn trần thuật được nhà văn lựa chọn rất phù hợp với từng kiểu loại nhân vật để gửi gắm tình cảm, tư tưởng và ý đồ nghệ thuật của mình. Các điểm nhìn trần thuật này, một mặt, tạo nên chiều sâu cho bối cảnh, cho nhân vật, mặt khác góp phần quan trọng vào việc tạo ra giọng điệu. Tuy nhiên, "dù có xuất hiện hay không xuất hiện nhân vật Người kể chuyện (hữu hình hay vô hình), người đọc vẫn thấy ám ảnh bóng dáng và tư tưởng của hình tượng tác giả - nhà văn Nguyễn Khải" [29,tr.192]. Đúng như ý kiến của nghiên cứu Vương Trí Nhàn: "Trong những trường hợp thành công nhất của mình, Nguyễn Khải hiện ra như một người kể chuyện thông minh, la cà khắp nơi chia sẻ với mọi người mọi vui buồn khi quan sát việc đời. Đó là một phong cách vừa dân dã, vừa hiện đại" [31,tr.120]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 112 KẾT LUẬN Với hơn nửa thế kỷ sáng tạo nghệ thuật, Nguyễn Khải đã thể hiện một tài năng, một cá tính sáng tạo của một nhà văn có phong cách. Ông vẫn khiêm tốn tự cho cuộc đời mình chỉ là "một giọt nắng nhạt", chỉ là cuộc đời viết văn của một công chức, nhưng thực ra đó là cuộc đời của một con người không ngừng hướng tới sáng tạo và tự hoàn thiện mình. Những công trình nghệ thuật của Nguyễn Khải đã khẳng định vị trí và đóng góp lớn lao của ông trong sự phát triển của nền văn chương Việt Nam thời hiện đại. Luận văn Hình tượng tác giả trong truyện ngắn của Nguyễn Khải thời kỳ đổi mới là một đóng góp nhỏ bé của chúng tôi vào tiến trình tìm hiểu các giá trị của sáng tác Nguyễn Khải. Qua việc nghiên cứu hình tượng tác giả trong truyện ngắn Nguyễn Khải thời kỳ đổi mới, chúng tôi có thể rút ra một số kết luận sau đây: 1. Truyện ngắn của Nguyễn Khải thời kỳ đổi mới đã thực sự được bạn đọc mến mộ. Truyện ngắn của ông đã nắm bắt và thể hiện bao đổi thay của con người, của cuộc sống trong thời kỳ đổi mới của đất nước. Ngòi bút sắc sảo, đầy "chất văn xuôi" của nhà văn luôn hấp dẫn đối với độc giả vì họ tìm thấy "cái mình cần" trong chiêm nghiệm của một tác giả luôn bám sát từng bước đi của đời sống xã hội và quan tâm đặc biệt tới số phận con người trước những thay đổi của lịch sử. 2. Trong những truyện ngắn thời kỳ đổi mới của Nguyễn Khải, hình tượng tác giả được thể hiện trong cách khai thác, khám phá sự vật, con người ở rất nhiều chiều thông qua một nhãn quan sắc sảo. Cái nhìn về con người, về cuộc đời không còn giản đơn, một chiều, "chỉ nhìn thấy cái nửa mà ai cũng thấy" như trước nữa mà giờ đây là một cái nhìn đầy trăn trở, suy nghiệm, đa chiều, vận động theo hướng đi gần hơn với cuộc sống. Chính vì vậy, cái nhìn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 113 nghệ thuật của nhà văn về con người và cuộc đời trở nên đa dạng, phong phú và sâu sắc hơn: vừa hiện thực tỉnh táo, vừa sắc sảo tinh tế lại vừa giàu tính phân tích. 3. Cảm hứng nghiên cứu, khám phá chiêm nghiệm đời sống đã chi phối giọng điệu trong tác phẩm của nhà văn, một giọng điệu trần thuật đa thanh, phức điệu, mang đậm chất tiểu thuyết: chia sẻ với nỗi niềm của con người trước cuộc đời; hài hước, hóm hỉnh, thâm trầm trong lối diễn đạt; tranh biện để kiếm tìm, chân lý đời sống; chiêm nghiệm, triết lý về một vấn đề, một hiện tượng nào đó trong cuộc đời... 4. Đến thời kỳ đổi mới, lối trần thuật của nhà văn có nhiều biến đổi, từ cái nhìn khách quan gần như tuyệt đối nay chuyển sang cái nhìn chủ quan. Nhà văn không đứng ngoài quan sát miêu tả nhân vật một cách lạnh lùng mà thâm nhập sâu hơn vào thế giới nội tâm nhân vật, thăm dò khám phá chiều sâu bí ẩn trong đời sống tinh thần con người. Nhân vật người kể chuyện là sáng tạo độc đáo nhất của Nguyễn Khải. Hình tượng người kể chuyện ngôi thứ nhất có tham dự là nhà văn, nhà báo có khi mang tên là Kh, là Khải với rất nhiều yếu tố tiểu sử cũng là một nét mới trong truyện ngắn Nguyễn Khải. Ở đây, ta thấy hiện lên một người kể thông minh, chịu đi, chịu tìm tòi, hay nhận xét, la cà khắp nơi, chia sẻ với mọi người mọi suy nghĩ, vui buồn khi quan sát việc đời.. Sự xuất hiện của một người kể từng trải, hiểu đời, hiểu người, với những triết lý thông minh, sắc sảo trong truyện ngắn Nguyễn Khải luôn cuốn hút bạn đọc. Bởi người kể hôm nay không phải là người truyền phán chân lý mà chủ yếu kích thích bạn đọc cùng bàn bạc tìm kiếm chân lý đời sống. Mong muốn đối thoại chính là biểu hiện của mối quan hệ bình đẳng giữa nhà văn và bạn đọc. 5. Bóng dáng và tư tưởng của hình tượng tác giả - nhà văn Nguyễn Khải hiện lên rõ nét trong truyện ngắn của ông thời kỳ đổi mới. Người đọc thấy: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 114 "Ông đang mải miết đi giữa dòng đời xuôi ngược, chăm chú nhìn ngắm con người và cuộc sống xung quanh, thỉnh thoảng dừng lại khen người này một câu, bình luận về sự việc kia một chút, rồi tự giễu mình, nhạo đời, cứ tưng tửng đùa mà thật ra ông đã phát hiện ra bao điều nghiêm túc về nhân sinh và thế sự. Ông nhìn đi rồi ông nhìn lại, ông chiêm nghiệm rồi ông triết lý" [29,tr.192]. Đó là một con người nhìn cuộc sống và con người với cái nhìn nhiều chiều, trong nhiều mối quan hệ, một cái nhìn mang tính toàn vẹn của Nguyễn Khải. 6. Trải qua hơn nửa thế kỷ cầm bút, Nguyễn Khải đã để lại một dấu ấn riêng qua những truyện ngắn viết cuối thế kỷ XX. Mỗi trang văn của ông là một trang đời của người cầm bút suốt đời không thôi trăn trở, nghĩ suy, mả i mê kiếm tìm sự thật ở bề sâu của cuộc sống. Những trang đời không một chút hổ thẹn với danh dự và danh phận của người cầm bút, bởi lẽ đi qua những năm tháng cuộc đời, ông đã sống và viết như một người chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng, đã đem ngòi bút của mình trọn đời cống hiến cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc, của nhân dân. Cuối cùng, chúng tôi xin lấy lời nhận xét của Vương Trí Nhàn làm lời kết cho luận án của mình: "Muốn hiểu con người thời đại với tất cả cái hay cái dở của họ, nhất là muốn hiểu cách nghĩ của họ, đời sống tinh thần của họ phải đọc Nguyễn Khải" [32]. Đó là lời khẳng định vị trí quan trọng của Nguyễn Khải trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 115 THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Vũ Tuấn Anh (1994), "Đổi mới văn học vì sự phát triển", Tạp chí Văn học, (4). 2. Lại Nguyên Ân (1984), "Văn học và phê bình", Nguyễn Khải về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục. 3. M. Bakhtin (1993), Những vấn đề về thi pháp Đôxtôiepxki, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 4. Nguyễn Thị Bình (1998), "Nguyễn Khải và tư duy tiểu thuyết", Văn học, (7). 5. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1997), Từ điển thuật ngữ Văn học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 6. Hà Nội trong mắt tôi (1998), Nxb Hà Nội. 7. Đông Hoài (1983), Nhận thức và thẩm định, Nxb Văn học, Hà Nội. 8. Nguyễn Văn Hạnh (2002), "Vài ý kiến về tác phẩm của Nguyễn Khải", Nguyễn Khải về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục. 9. Đoàn Trọng Huy (1990), "Vài đặc điểm phong cách nghệ thuật Nguyễn Khải", Nguyễn Khải về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục. 10. M.B. Khrapchenco (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học, Nxb Tác phẩm mới, Hội nhà văn Việt Nam. 11. M.B. Khrapchenco (2002), Những vấn đề lý luận và phương pháp luận nghiên cứu khoa học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 12. Nguyễn Khải (1996), Truyện ngắn chọn lọc, Nxb Hội nhà văn, H. 13. Nguyễn Khải (1996), Tuyển tập Nguyễn Khải, Tập I, Nxb Văn học, Hà Nội. 14. Nguyễn Khải (1996), Tuyển tập Nguyễn Khải, Tập III, Nxb Văn học, Hà Nội. 15. Nguyễn Khải (1996), Tuyển tập Nguyễn Khải, Nxb Văn học, Hà Nội. 16. Nguyễn Khải (1997), Một thời gió bụi, tập truyện ngắn, Nxb Lao động. 17. Nguyễn Khải (1999), Chuyện nghề, Nxb Hội nhà văn, H. 18. Nguyễn Khải (1999), Tuyển tập tiểu thuyết, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 116 19. Nguyễn Khải (1999), Tuyển tập truyện ngắn, Nxb Văn học. 20. Nguyễn Khải (2001), Sống ở đời, Tập truyện ngắn, Nxb Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh. 21. Nguyễn Khải (2002), Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Khải (tuyển chọn), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 22. Phương Lựu, Trần Đình Sử, Lê Ngọc Trà (1986), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 23. Nguyễn Đăng Mạnh, Lại Nguyên Ân, Trần Đình Sử, Nguyễn Thảo (1987), Một thời văn học mới, H. 24. Nguyễn Đăng Mạnh (1982), Hai cuốn tiểu thuyết gần đây,Tác phẩm mới. 25. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 26. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), "Nguyễn Khải - Đời người đời văn", Nguyễn Khải về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục. 27. Tuyết Nga (2004), Phong cách văn xuôi Nguyễn Khải, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 28. Chu Nga (2002), "Điểm nhìn ngòi bút hiện thực Nguyễn Khải", Nguyễn Khải về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục. 29. Đào Thuỷ Nguyên (2008), Phương pháp tiếp cận sáng tác của Nguyễn Khải trong giảng dạy Văn học Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục. 30. Vương Trí Nhàn (1996), Tuyển tập Nguyễn Khải (tuyển chọn và giới thiệu), tập 3, Nxb Văn học, H. 31. Vương Trí Nhàn (1996), "Nguyễn Khải trong sự vận động của văn học cách mạng từ sau 1945", Nguyễn Khải về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục. 32. Vương Trí Nhàn (1996), Lời giới thiệu tuyển tập Nguyễn Khải, tập 1, Nxb Văn học, H. 33. Nhiều tác giả (1984), Từ điển Văn học, tập II, Nxb Khoa học xã hội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 117 34. Nhiều tác giả (1996), 50 năm Văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 35. G.N. Pôspêlôv (1985), Dẫn luận nghiên cứu văn học, tập 1, 2, Nxb Giáo dục. 36. Trần Đình Sử (1996), Lý luận và phê bình Văn học, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 37. Trần Đình Sử (1998), Giáo trình dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục. 38. Nguyễn Hữu Sơn (1999), "Đọc truyện ngắn và tạp văn của Nguyễn Khải", Nguyễn Khải về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục. 39. Bích Thu (1997), "Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Khải những năm 80 đến nay", Nguyễn Khải về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục. 40. Bích Thu (1998), Theo dòng Văn học, Nxb Khoa học Xã hội, H. 41. Hà Công Tài, Phan Diễm Phương (2002), Nguyễn Khải về tác gia và tác phẩm (Tuyển chọn và giới thiệu), Nxb Giáo dục.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLuận văn- Hình tượng tác giả trong truyện ngắn của Nguyễn Khải thời kỳ đổi mới..pdf