ATK Định Hoá - Trung tâm Thủ đô kháng chiến trong căn cứ địa Việt
Bắc gắn liền với sự lãnh đạo của Trung ƣơng Đảng, Chủ tịch Hồ Chí
Minh, Chính phủ, Bộ Tổng tƣ lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam ngày
nay đã trở thành khu di tích đặc biệt quan trọng. Các di tích lịch sử thuộc
ATK Định Hoá, cùng với hệ thống di tích thuộc " Chiến khu Việt Bắc" đã được
Chính phủ đánh giá" là quần thể di tích quan trọng bậc nhất của dân tộc Việt
Nam trong thế kỷ XX".
Hệ thống di tích lịch sử cách mạng, kháng chiến thuộc ATK Định Hoá là
di sản văn hoá quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là địa chỉ đỏ trong
công tác giáo dục lịch sử, giáo dục truyền thống yêu nước và cách mạng cho
các thế hệ hôm nay và mai sau. Chính vì vậy, việc đầu tư phục hồi, bảo tồn và
tôn tạo Khu Di tích lịch sử ATK Định Hoá là góp phần giữ gìn và phát huy giá
trị các di sản văn hoá, góp phần xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, phát huy tác dụng của Khu Di tích trong việc
giáo dục truyền thống yêu nước cho nhân dân các dân tộc.
Trong những năm gần đây, Khu Di tích lịch sử ATK Định Hoá đã và
đang được Nhà nước đầu tư, các Bộ, ngành Trung ương giúp đỡ, tôn tạo. Vùng
trung tâm ATK Định Hoá đã được đầu tư phát triển kinh tế, xã hội, làm thay
đổi diện mạo của vùng chiến khu xưa. Để Khu Di tích lịch sử ATK Định Hoá
thực sự trở thành một Khu Di tích đặc biệt quan trọng, xứng đáng với vị thế
của nó trong lịch sử cách mạng dân tộc, thu hút đông đảo đồng bào cả nước và
bạn bè quốc tế tới tham quan du lịch thì bên cạnh việc đầu tư tôn tạo các di tích
với quy mô lớn, cần có sự đầu tư chiều sâu theo mô hình " Cụm di tích lịch sử -du lịch - văn hoá".
110 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 4680 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn An toàn khu định hoá trong căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1]. Bằng sự nỗ lực của mình, đến năm học 1953 - 1954, Định Hoá đã
xây dựng được hệ thống giáo dục phổ thông từ cấp I đến cấp II, đáp ứng nhu
cầu học tập của con em đồng bào các dân tộc trong huyện. Nhờ đó, trình độ
văn hoá của các dân tộc trong huyện được nâng dần lên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
69
Chính quyền kháng chiến cùng với cơ sở y tế các cấp trong huyện có
nhiều cố gắng trong việc chăm lo sức khoẻ cho nhân dân. Thực hiện phương
châm “phòng bệnh là chính”, cuộc vận động nếp sống vệ sinh với phong trào
“ba sạch” (ăn sạch, uống sạch, ở sạch) phát triển rộng khắp trong toàn huyện.
Việc chữa bệnh được chú trọng, khi bị bệnh, ốm đau, bà con đã biết dùng
thuốc để chữa bệnh. Hiện tượng “cúng ma”, “cầu ma” giảm dần. Hệ thống y
tế cơ sở được xây dựng cùng với đội ngũ cán bộ y tế ngày càng phát triển; ý
thức phòng bệnh, chữa bệnh của nhân dân ngày càng được nâng cao. Nhờ đó
trong suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp, trên địa bàn huyện Định Hoá
không có bệnh dịch nào xẩy ra.
Cuộc vận động thực hiện đời sống mới được tiến hành sâu rộng trong
nhân dân. Đảng bộ huyện lãnh đạo các đoàn thể quần chúng vận động đồng
bào các dân tộc ra sức xoá bỏ các tệ nạn cờ bạc, nghiện hút, mê tín dị đoan…
do hậu quả của chế độ cũ để lại. Tại các làng, xã, thôn, bản, cuộc sống mới
lành mạnh được xây dựng và ngày càng phát triển. Phong trào văn hoá, văn
nghệ, công tác thông tin tuyên truyền trong vùng ATK được chính quyền địa
phương hết sức chú trọng, đem lại cho nhân dân đời sống tinh thần phong
phú, sôi nổi và lành mạnh.
Chế độ dân chủ mới đã đem lại cho nhân dân các dân tộc huyện Định
Hoá các quyền tự do, dân chủ trên nhiều lĩnh vực, làm thay đổi hẳn bộ mặt xã
hội của một huyện miền núi vốn bị coi là vùng “ma thiêng nước độc”, lạc hậu
vào loại nhất nhì tỉnh Thái Nguyên dưới thời Pháp thuộc. Chính quyền dân
chủ nhân dân ở Định Hoá thực sự là của dân, vì dân, khối đoàn kết dân tộc
được ngày càng củng cố. Đó chính là những nhân tố quan trọng bảo đảm cho
ATK Định Hoá - trung tâm thủ đô kháng chiến tồn tại vững chắc trong những
năm kháng chiến chống thực dân Pháp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
70
3.3. AN TOÀN KHU ĐỊNH HOÁ LÀ MỘT TRONG NHỮNG NƠI XÁC LẬP
CÁC MỐI QUAN HỆ NGOẠI GIAO
Trong giai đoạn từ cuối năm 1945 đến đầu năm 1950, trước khi nhận
được sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, nhân dân Việt Nam đã kiên
cường chiến đấu trong vòng vây của chủ nghĩa đế quốc và đã giành được
những thắng lợi quan trọng. Trước Chiến dịch Biên giới, Việt Nam đã vượt
qua thời kỳ khó khăn nhất, đánh bại âm mưu chiến lược đánh nhanh thắng
nhanh của thực dân Pháp; công cuộc kháng chiến, kiến quốc từng bước phát
triển toàn diện và vững chắc.
Cũng cần phải thấy rằng, trong bốn năm đầu toàn quốc kháng chiến
(1946 - 1949) chúng ta ở một vị trí địa - chính trị cực kỳ bất lợi. Phía Bắc,
Trung Hoa dân quốc do Quốc dân đảng kiểm soát. Đến năm 1946, Đảng cộng
sản Trung Quốc đã có các vùng giải phóng rộng lớn nhưng đang phải chống
lại cuộc tiến công trên qui mô toàn quốc của quân Tưởng. Ở phía Tây và Tây
Nam, Chính phủ Hoàng gia của cả hai vương quốc Lào và Campuchia đều
theo Pháp. Về phía đông là biển và ta cũng không thể kiểm soát được cảng
nào trong số ba cảng lớn: Sài Gòn, Hải Phòng, Đà Nẵng. Chúng ta hoàn toàn
ở thế bị bao vây tứ phía, không liên lạc được với lực lượng hoà bình, dân chủ
thế giới. Bên ngoài chỉ hiểu cuộc kháng chiến của ta do những tin Việt Nam
thông tấn xã và Đài Tiếng nói Việt Nam phát bằng những phương tiện viễn
thông cũ của Pháp để lại.
Do đó, phá vòng vây để mở rộng quan hệ, tranh thủ thêm bạn bè, nêu rõ
lập trường chính nghĩa của nhân dân ta và tố cáo tội ác của thực dân Pháp là
một vấn đề chiến lược về mặt quân sự, chính trị và ngoại giao.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
71
Ngay từ những năm đầu kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính
phủ Việt Nam đã hết sức tranh thủ sự ủng hộ quốc tế, nhằm sớm đưa cuộc
kháng chiến của dân tộc thoát ra khỏi thế bị bao vây, phong toả.
Là trung tâm của ATK Trung ương trong căn cứ địa kháng chiến Việt
Bắc, tại ATK Định Hoá đã diễn ra nhiều hoạt động ngoại giao của Chủ tịch
Hồ Chí Minh và những nhà lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Sau cuộc gặp gỡ, trao đổi với Pôn Muýt, đại diện Cao uỷ Pháp ở Đông
Dương tại thị xã Thái Nguyên, từ ngày 20 - 5 - 1947, Hồ Chủ tịch đã đến ở
và làm việc tại ATK Định Hoá.
Ngày 21 - 5 - 1947, tại ATK Định Hoá, Hồ Chủ tịch đã tuyên bố: “Chỉ
cần Chính phủ Pháp công nhận độc lập và thống nhất của nước Việt Nam thì
chiến sự sẽ chấm dứt tức khắc và tất cả các vấn đề khác sẽ giải quyết dễ dàng.
Các quyền lợi kinh tế và văn hoá của Pháp ở Việt Nam sẽ được tôn trọng.”
Ngày 25 - 5 - 1947, Hồ Chủ tịch gửi thư đến nhân dân Pháp, thông báo
cho họ biết về cuộc hội kiến với Pôn Muýt, chỉ ra rằng bọn quân phiệt thực
dân Pháp mù quáng trước những thắng lợi tạm thời đã ngăn cản Việt Nam và
Pháp gần gũi nhau, chúng phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về việc chiến tranh
tiếp diễn. Chúng “đã buộc chúng tôi phải tiếp tục chiến đấu, chúng tôi sẽ
chiến đấu đến cùng”. Người kêu gọi nhân dân Pháp “Hãy giúp chúng tôi cứu
lấy tính mạng bao nhiêu thanh niên Pháp và Việt, cứu lấy tình thân thiện giữa
hai dân tộc và cứu lấy khối liên hiệp Pháp” [43, tr.358-362].
Trong năm 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thường vụ Trung ương
Đảng tiếp phái viên của Chu Ân Lai, tại xã Phú Đình (Định Hoá) bàn về sự
phối hợp chiến đấu giúp đỡ lẫn nhau giữa Quân đội cách mạng hai nước. Sau
đó, vào tháng 4 - 1949, lãnh đạo phong trào du kích Quảng Tây (Trung Quốc)
đề nghị Quân đội Việt Nam phối hợp chiến đấu, giúp đỡ quân Giải phóng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
72
Trung Quốc đánh quân Tưởng để xây dựng một khu giải phóng ở vùng Ung -
Long - Khâm liền với biên giới Đông - Bắc của nước ta.
Được sự đồng ý của Trung ương Đảng, ngày 23 - 4 - 1949, Bộ Tổng tư
lệnh giao nhiệm vụ cho Bộ Tư lệnh Liên khu I giúp Quân Giải phóng Trung
Quốc xây dựng một khu giải phóng ở vùng Ung - Long - Khâm. Bộ chỉ huy
chiến dịch được thành lập, lấy danh hiệu là Bộ Tư lệnh khu Thập Vạn Đại
Sơn. Suốt năm tháng trời chiến đấu trên đất bạn, trong điều kiện vô cùng gian
khổ, thiếu thốn, bộ đội Việt Nam đã cùng Quân Giải phóng và du kích khu
Thập Vạn Đại Sơn tiêu diệt nhiều sinh lực địch, mở rộng và củng cố vững
chắc vùng căn cứ. Chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn kết thúc thắng lợi, bộ đội
Việt Nam được lệnh rút về nước “Để lại ấn tượng tốt đẹp trong nhân dân địa
phương về tinh thần quốc tế của một quân đội cách mạng” [30, tr.349].
Sau ngày cách mạng Trung Quốc thành công, trong bối cảnh tình hình quốc
tế có những chuyển biến thuận lợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng
và Chính phủ Việt Nam đẩy mạnh hơn nữa công tác ngoại giao và tuyên truyền
quốc tế, nhằm làm cho nhân dân thế giới, trước hết là nhân dân các nước xã hội
chủ nghĩa hiểu rõ, ủng hộ và giúp đỡ Việt Nam toàn diện hơn.
Ngày 14 tháng 1 năm 1950, từ ATK, thay mặt Chính phủ kháng chiến,
Chủ tịch Hồ Chí Minh công bố Tuyên bố của Chính phủ nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà gửi Chính phủ các nước trên thế giới. Bản Tuyên bố nêu rõ:
“Trải qua mấy năm kháng chiến, nước Việt Nam từng được nhân dân toàn thế
giới đồng tình ủng hộ. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tuyên bố với
Chính phủ các nước trên thế giới rằng: Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà là Chính phủ hợp pháp duy nhất của toàn thể nhân dân Việt Nam. Căn cứ
trên quyền lợi chung, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẵn sàng đặt
quan hệ ngoại giao với Chính phủ nước nào tôn trọng quyền bình đẳng, chủ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
73
quyền lãnh thổ và chủ quyền quốc gia của nước Việt Nam, để cùng nhau bảo
vệ hoà bình và xây đắp dân chủ thế giới”. [44, tr.334-335].
Đầu năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh rời ATK Định Hoá, lên đường đi
thăm Trung Quốc và Liên Xô, hội đàm với các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản
Trung Quốc và Liên Xô. Tại Mátxcơva, Người còn gặp gỡ đại diện Đảng
cộng sản Pháp và nhiều tổ chức quốc tế để tranh thủ sự ủng hộ của các lực
lượng tiến bộ trên thế giới đối với cuộc chiến đấu chính nghĩa của nhân dân
Việt Nam.
Hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong chuyến đi này đã tăng thêm
sự hiểu biết của các nước anh em với Việt Nam, thắt chặt tình đoàn kết chiến
đấu tranh thủ sự chi viện quốc tế, tạo thêm thuận lợi cho cuộc kháng chiến
của nhân dân Việt Nam. Từ đó, cuộc kháng chiến của nhân dân ta tiếp nhận
được sự chi viện ngày càng lớn của lực lượng cách mạng thế giới, nhất là của
nhân dân Trung Quốc.
Đảng Cộng sản Trung Quốc và Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân
Trung Hoa đã cử một số cố vấn sang Việt Nam, thường xuyên làm việc tại
ATK, giúp đỡ Chính phủ ta về các mặt chính trị, quân sự, kinh tế, tài chính.
Sau chuyến thăm hữu nghị Trung Quốc và Liên Xô, tháng 4 - 1950, tại
ATK Định Hoá, Chủ tịch Hồ Chí Minh đón tiếp đồng chí Lêôphighe, Uỷ
viên Trung ương Đảng Cộng sản Pháp, đại biểu Quốc hội, Thư ký Đoàn
Thanh niên Cộng sản Pháp sang thăm Việt Nam để tìm hiểu cuộc kháng
chiến của nhân dân Việt Nam và thắt chặt tình đoàn kết chiến đấu, tình hữu
nghị giữa nhân dân hai nước. Trong cuộc tiếp xúc với đồng chí Lêôphighe,
Hồ Chủ tịch đã tỏ rõ lời hoan nghênh phong trào phản đối chiến tranh ở Việt
Nam của nhân dân Pháp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
74
Được trực tiếp trao đổi với Chủ tịch Hồ Chí Minh tại ATK Định Hoá và
hiểu rõ hơn về cuộc chiến tranh của Pháp ở Việt Nam, khi trở về Pháp, đồng
chí Lêôphighe đã viết cuốn: “Tôi từ Việt Nam tự do về”. Cuốn sách đã làm
cho nhân dân Pháp hiểu rõ thêm về cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam
và tăng thêm sự đồng tình, ủng hộ với Việt Nam. Đó là sự cống hiến quý báu
vào việc tuyên truyền quốc tế, giành sự hiểu biết và đồng tình ủng hộ của các
lực lượng hoà bình thế giới đối với cuộc kháng chiến của ta.
Từ sau khi đồng chí Lêôphighe sang thăm Việt Nam và sau khi các đoàn
thể dân chủ Pháp tuyên bố ý định đứng ra làm trung gian giải quyết hoà bình
cuộc chiến tranh Pháp - Việt, ta đã tăng cường phối hợp đấu tranh mạnh hơn
giữa chiến trường Việt Nam và dư luận Pháp.
Mùa hè năm 1950, tại nơi ở và làm việc trong ATK Định Hoá, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã tiếp cố vấn công an Trung Quốc được cử sang giúp đỡ và
trao đổi kinh nghiệm với công an Việt Nam về công tác bảo vệ căn cứ địa,
bảo vệ An toàn khu, bảo vệ Trung ương Đảng và lãnh tụ. Sau đó, Người còn
tiếp đại diện các đoàn cố vấn Trung Quốc, đặc biệt là đoàn cố vấn quân sự
sang giúp cách mạng Việt Nam theo đề nghị của Hồ Chủ tịch trong chuyến
thăm Trung Quốc đầu năm 1950.
Tháng 6 - 1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đón tiếp Chủ tịch Xu - va- nu -
vông tại ATK Định Hoá, tăng cường tình đoàn kết và phối hợp chiến đấu
chống kẻ thù chung giữa nhân dân Việt Nam, Lào nói riêng và nhân dân ba
nước Đông Dương nói chung.
Cũng từ ATK Định Hoá, Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí của
Người đã viết nhiều bài báo gửi đăng trên các tạp chí nước ngoài. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã gửi điện mừng Ấn Độ và Pakixtan tuyên bố độc lập; gửi điện tỏ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
75
rõ sự đồng tình và ủng hộ cuộc kháng chiến của nhân dân Inđônêxia; điện trả
lời Chi bộ Đảng Xã hội Pháp ở Sài Gòn và báo Mỹ International News
service về những vấn đề liên quan đến Việt Nam.
Trong thời gian ở ATK Định Hoá, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp đoàn
điện ảnh Liên Xô và nhà đạo diễn nổi tiếng Cácmen, nhiều nhà ngoại giao,
nhà báo quốc tế và bày tỏ khát vọng hoà bình, quyết tâm chiến đấu đến thắng
lợi của nhân dân Việt Nam. Qua đó, báo chí và dư luận các nước ngày càng
quan tâm ủng hộ mạnh mẽ cuộc kháng chiến của ta, tố cáo sự xâm lược và
gây chiến của các đế quốc Pháp, Mỹ.
Những hoạt động ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Trung ương
Đảng và Chính phủ tại ATK Định Hoá - Trung tâm thủ đô kháng chiến trong
căn cứ địa Việt Bắc đã làm cho nhân dân thế giới ngày càng hiểu rõ sự nghiệp
kháng chiến chính nghĩa của nhân dân ta; tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ
và giúp đỡ về tinh thần ,vật chất cho cuộc kháng chiến, nâng cao địa vị quốc
tế của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
3.4. ATK ĐỊNH HOÁ LÀM TRÕN VAI TRÕ HẬU PHƢƠNG KHÁNG CHIẾN.
Là một địa phương nằm ở trung tâm căn cứ địa Việt Bắc, nhân dân các
dân tộc Định Hoá luôn ý thức sâu sắc về vai trò, trách nhiệm của mình đối với
sự nghiệp kháng chiến của dân tộc.
Ngay từ những ngày đầu toàn quốc kháng chiến, đồng bào các dân tộc
Định Hoá giàu truyền thống cách mạng đã không tiếc công, của, đóng góp
hàng chục vạn ngày công, hàng triệu cây tre, nứa, lá, gỗ… để xây dựng nơi ở
và làm việc của các cơ quan Trung ương, xây dựng kho tàng… Khi chưa kịp
xây dựng lán trại, đồng bào Định Hoá sẵn sàng nhường nhà của mình làm trụ
sở cơ quan, nơi ở cho cán bộ hoặc làm kho của Nhà nước trong suốt thời kỳ
kháng chiến. Nhà cụ Vi, cụ Học (xã Bình Thành), nhà bà Phùng Thị Vân, nhà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
76
ông Nông Đình Lập (xã Điềm Mặc) đã vinh dự được đón các đồng chí lãnh
đạo về ở và làm việc, cơ quan Trung ương Đảng làm trụ sở. Tại xã Điềm
Mặc, nhà ông Ma Đình Tương đã được đón Hồ Chủ tịch khi Người từ làng
Xảo (xã Hợp Thành, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang) sang ATK Định
Hoá; nhà ông Nông Đình Lăng ở bản Bắc là nơi ở của đồng chí Tôn Đức
Thắng; nhà ông Ma Khánh Bình là nơi đóng cơ quan Tổng bộ Việt Minh…
Là một huyện miền núi, kinh tế còn nhiều khó khăn, lại thường xuyên bị
thiên tai tàn phá, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Định Hoá đã có nhiều biện
pháp tích cực tăng gia sản xuất để không ngừng tăng cường tiềm lực kinh tế,
cung cấp lương thực, thực phẩm phục vụ các cơ quan đầu não kháng chiến và
các đơn vị đóng quân trên địa bàn huyện.
Sau Chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947, địch chiếm đóng một số cứ
điểm dọc Đường số 3. Nguồn cung cấp lương thực, thực phẩm ở các tỉnh
miền xuôi bị địch phong toả, đường bộ bị phá hoại, đường sông bị máy bay
địch săn đuổi thuyền bè chở gạo, muối lên Thái Nguyên rất khó khăn, giá cả
thị trường tăng vọt. Tình trạng khan hiếm lương thực ở thị trường đã đẩy cán
bộ, công nhân, bộ đội ở ATK Định Hoá vào hoàn cảnh thiếu ăn.
Để khắc phục tình trạng trên, Huyện uỷ Định Hoá đã kịp thời đề ra nhiều
biện pháp huy động cấp tốc lương thực, thực phẩm cung cấp cho các cơ quan
Trung ương, Chính phủ và quân đội đóng tại ATK Định Hoá. Mặc dù phải
trải qua cuộc chiến đấu ác liệt những ngày cuối năm 1947, mùa màng bị tàn
phá trong những trận càn quét của quân Pháp, nhưng nhờ thực hiện “vườn
không nhà trống”, cất giấu lương thực tốt, nên ngay sau khi phong trào “Toàn
dân đóng góp lương thực, thực phẩm” được phát động, nhân dân toàn huyện
đã tích cực hưởng ứng. Ngoài việc đóng thóc công lương, điền thổ, các đoàn
thể Cứu quốc còn có sáng kiến lập “Hũ gạo nuôi quân”. Nhờ đó, số thóc huy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
77
động trong nửa đầu năm 1948 được hàng trăm tấn, góp phần giải quyết khó
khăn về lương thực đối với các cơ quan Trung ương, Chính phủ và quân đội ở
Định Hoá.
Năm 1949, hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Bán thóc
khao quân”, nhân dân Định Hoá đã bán cho Nhà nước 63 tấn thóc. Năm 1950,
quán triệt Chị thị “Hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị, chuyển mạnh sang tổng
phản công”, Định Hoá đã đóng góp cho kháng chiến gần 570 tấn thóc, trong
đó có 72 tấn thóc khao quân.
Phong trào “Nhân dân đỡ đầu địa phương quân” do Chính phủ phát động
được nhân dân Định Hoá hăng hái tham gia. Nhiều bà mẹ nhận nuôi đỡ đầu
vợ, con cán bộ. Nhiều gia đình năm nào cũng đón bộ đội, cán bộ về ăn tết.
Nhiều nơi, bà con ủng hộ bộ đội ruộng đất, nông cụ, trâu bò để tăng gia tự túc
lúa gạo. Nhân dân còn góp tiền để bộ đội mua sắm trang bị, vũ khí. Kết quả
của phong trào này, toàn huyện đã ủng hộ bộ đội địa phương 52 mẫu ruộng,
hai con trâu và 380.000 đồng.
Bước sang năm 1954, hướng về Chiến dịch Điện Biên Phủ với khẩu hiệu
“Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng”, “Tất cả cho Chiến dịch Điện
Biên Phủ”, nhân dân các dân tộc huyện Định Hoá đóng góp hàng trăm tấn
thóc gạo, hàng chục tấn thịt, góp phần giúp bộ đội ngoài mặt trận ăn no đánh
thắng quân thù.
Bên cạnh việc đóng góp của cải cho kháng chiến, nhân dân huyện Định
Hoá còn tích cực tham gia các đợt làm đường, sửa đường; các đợt đi dân công
phục vụ tiền tuyến, sửa chữa, xây dựng nhà ở, cơ quan, kho tàng tại ATK.
Sau Chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947, nhiều nhà ở, lán trại của các
cơ quan Trung ương, đơn vị quân đội bị hư hỏng, nhu cầu cho kháng chiến
ngày một lớn, các cơ quan được mở rộng, tăng thêm nhân viên, thêm phương
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
78
tiện làm việc, nhiều cơ quan mới được thành lập, nhiều kho tàng cần được xây
dựng, do đó cần phải có một số lượng lớn dân công. Tuy nhiên, để đảm bảo
an toàn, tuyệt đối bí mật nơi cơ quan đầu não kháng chiến, không thể huy
động dân công ở nơi khác đến. Dân công của 9 xã Sơn Phú, Phú Đình, Bình
Thành, Điềm Mặc, Thanh Định, Đồng Thịnh, Bình Yên, Định Biên, Bảo Linh
(huyện Định Hoá) đã được huy động và đảm đương nhiệm vụ trên.
Nhằm khôi phục mạng lưới giao thông sau đợt tấn công, càn quét của
quân Pháp vào Định Hoá cuối năm 1947, ngay từ đầu năm 1948, Huyện uỷ
Định Hoá đã phát động toàn dân tham gia sửa chữa cầu, đường. Đông đảo cán
bộ, nhân dân xung phong ra mặt trận, đào đắp hàng nghìn mét khối đất, đá,
khai thác và vận chuyển hàng chục mét khối gỗ, hoàn thành việc sửa chữa
toàn bộ các tuyến đường nội hạt để phục vụ vận chuyển nội bộ ATK, bao gồm
20 km đường Chợ Chu - Km 31 Quốc lộ 3, 18 km đường Quán Vuông - Phú
Minh; sửa chữa và làm thêm 11 cầu, cống. Nhân dân địa phương cũng làm
mới 2 km đường rải đá từ thị trấn Chợ Chu đi nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ,
không kể hàng chục km đường nhánh.
Năm 1948, toàn huyện đã huy động hàng vạn ngày công phục vụ ATK
và sửa chữa cầu, đường. Riêng năm 1950, thực hiện “Chuẩn bị chuyển mạnh
sang Tổng phản công”, Định Hoá đã đóng góp 22.000 lượt người cho chiến
dịch cầu, đường và đã thành lập 18 tổ gồm 200 người ở 9 xã có đường giao
thông chính đi qua, sẵn sàng ứng cứu cầu, đường do địch đánh phá hoặc lũ lụt
làm hư hỏng. Những tổ này đã tồn tại và hoạt động cho đến tháng 7 - 1954.
Sự đóng góp của nhân dân Định Hoá trong việc khôi phục mạng lưới
giao thông đã bảo đảm được yêu cầu vận chuyển lương thực, thực phẩm, hàng
hoá vào ATK và vận tải vũ khí, trang bị, lương thực, thực phẩm từ hậu
phương ra tiền tuyến.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
79
Ngày 6 - 12 - 1953, tại ATK Định Hoá, Bộ Chính trị họp dưới sự chủ toạ
của Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ. Thực
hiện chỉ thị của Hồ Chủ tịch “Chiến dịch này là một chiến dịch rất quan trọng
không những về quân sự mà cả về chính trị, không những đối với trong nước
mà đối với quốc tế", toàn Đảng, toàn quân, toàn dân tập trung hoàn thành cho kỳ
được. Cả nước dồn ra mặt trận. Huyện uỷ Định Hoá động viên toàn dân ra tiền
tuyến. Ngoài 5.951 lượt dân công phục vụ tại ATK, đầu năm 1954, huyện còn huy
động một lực lượng lớn, thành lập nhiều đoàn dân công hoả tuyến tham gia phục
vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ. Tổng kết chiến dịch, đoàn dân công hoả tuyến của
huyện được Hội đồng Cung cấp Trung ương tặng cờ danh dự, được Chính phủ
tặng Huân chương Chiến công hạng Ba.
Là hậu phương của cuộc kháng chiến, Định Hoá đã tích cực tổ chức xây
dựng lực lượng dân quân, du kích, bộ đội địa phương phối hợp cùng bộ đội
chủ lực chiến đấu bảo vệ quê hương, đồng thời chi viện sức người cho các
mặt trận. Toàn huyện đã có 3000 thanh niên tham gia các đơn vị chủ lực của
Bộ, của Liên khu. Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, huyện Định Hoá có 675
cán bộ, chiến sĩ trực tiếp tham gia chiến đấu.
Đặc biệt, Định Hoá với nhiều loại địa hình, lại là vùng hậu phương an
toàn, có khả năng huy động sức người, sức của, đã là nơi diễn ra nhiều cuộc
luyện quân, nhiều lần diễn tập của các binh đoàn chủ lực trước ngày xuất
phát, đi tới những trận đánh lớn trong Đông xuân 1953 - 1954.
Những đóng góp của quân và dân Định Hoá trong 9 năm kháng chiến
chống thực dân Pháp so với cả nước tuy còn nhỏ bé, nhưng trong điều kiện
của một huyện miền núi, dân cư thưa thớt, kinh tế tự cấp tự túc thì mới thấy
được những đóng góp, hy sinh đó quả là to lớn cả về sức người, sức của, góp
phần xứng đáng vào thắng lợi chung của toàn dân tộc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
80
Tóm lại, trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, Việt Bắc là căn
cứ địa của cả nước. Tại đây, một số huyện thuộc các tỉnh Bắc Kạn, Thái
Nguyên, Tuyên Quang được chọn làm nơi đặt các cơ quan đầu não để lãnh
đạo sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc trong cả nước, trở thành An toàn khu
(ATK) của Trung ương. Với đầy đủ các yếu tố địa lợi và nhân hoà, được các
cơ quan tuyệt mật đặt bản doanh, Định Hoá đã trở thành bộ phận quan trọng
nhất trong ATK Trung ương. Chính tại nơi đây, nhiều quyết sách quan trọng
của Trung ương được phát đi trong cả nước, soi sáng cho toàn Đảng, toàn
quân và toàn dân tiến hành cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi. ATK Định Hoá
chính là trung tâm của Thủ đô kháng chiến trong căn cứ địa Việt Bắc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
81
KẾT LUẬN
1. ATK Định Hoá khẳng định rõ hơn tầm nhìn chiến lƣợc của Trung ƣơng
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà vừa mới ra đời đã phải đứng trước
một tình thế cực kì khó khăn. Dù đã có hơn một năm bảo vệ và xây dựng,
nhưng khó khăn đối với Nhà nước Cách mạng non trẻ vẫn còn chồng chất,
nhiều vấn đề xã hội chưa giải quyết được bao nhiêu; nội bộ nhân dân chưa
phải đã hoàn toàn thuộc về chế độ mới; trong nước không phải nơi nào cũng
an toàn.
Trong khi đó, chiến sự ngày càng lan rộng. Lực lượng địch mạnh hơn
hẳn ta. Chúng đã lần lượt chiếm được những vùng rộng lớn, bao gồm các
thành phố, các đường giao quan trọng. Nhưng ở Việt Bắc lúc bấy giờ, nhiều
nơi vẫn chưa có chiến sự lan tới. Riêng Chiến khu I, "có bốn tỉnh: Phúc, Thái,
Bắc, Cao là khu an toàn mà là khu căn cứ địa cho toàn quốc, chưa có địch
trực tiếp"[8, tr.14].
Những năm đầu toàn quốc kháng chiến (1946 - 1950), lực lượng kháng
chiến của nhân dân ta nằm trong tình trạng bị đế quốc bao vây bốn bề. Hai
nước Lào và Campuchia đã bị thực dân Pháp xâm lược và thống trị trở lại.
Trung Quốc lúc đó tuy vẫn do quân Tưởng kiểm soát, nhưng là nước vốn có
quan hệ mật thiết với cách mạng nước ta. Hơn nữa, phong trào cách mạng của
nhân dân Trung Quốc do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo đang trên đà
phát triển mạnh mẽ. Việc quét sạch quân Tưởng ra khỏi lục địa Trung Quốc
chỉ còn là vấn đề thời gian không xa.
Sau khi cách mạng Trung Quốc thành công (10 - 1949), nước Cộng hoà
nhân dân Trung Hoa ra đời, đặc biệt từ sau chiến thắng Biên giới Thu - Đông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
82
1950 của quân và dân ta, căn cứ địa Việt Bắc thoát khỏi tình trạng bị địch bao
vây phong toả. Quan hệ quốc tế của lực lượng kháng chiến được mở rộng, tạo
thế đứng vững chắc cho ATK Trung ương. Cũng từ lúc này, Việc Bắc là cửa
ngõ tiếp nhận sự viện trợ quốc tế. Do đó, việc lựa chọn và xây dựng ATK
Trung ương ở Việt Bắc trong hoàn cảnh lịch sử lúc đó, xét về phương diện
đối ngoại, thông thương quốc tế, rõ ràng là có lợi hơn bất cứ nơi nào khác trên
đất nước ta.
Định Hoá cùng với Chợ Đồn, Sơn Dương và Yên Sơn là những huyện
tiếp giáp nhau, nằm sâu trong căn cứ địa Việt Bắc. Đây là một khu vực vừa
kín đáo, vừa an toàn, vừa dễ dàng xuống miền trung du Bắc Bộ, lại thuận lợi
liên lạc với quốc tế.
Trong đó, Định Hoá " là một bộ phận của khu giải phóng cũ", vừa có địa
lợi vừa có nhân hoà. Đây là nơi dựa vào chân núi Hồng, tiến có thể công, lui có
thể giữ, có thể toả đi khắp vùng biên giới, xuống đồng bằng, giao thông liên lạc
tương đối thuận tiện để giữ vững mối liên hệ giữa Trung ương và các địa
phương, nơi có cơ sở chính trị vững chắc, đồng bào luôn hướng về cách mạng,
tin tưởng tuyệt đối ở Đảng và Chính phủ, kinh tế có thể tự cung tự cấp" [10,
tr.15].
Trải qua thời kì đấu tranh giành chính quyền, trình độ giác ngộ chính trị
và khả năng cách mạng của nhân dân các dân tộc được nâng lên. Đồng bào
nơi đây một lòng gắn bó với Đảng, với cách mạng, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ
thành quả cách mạng, bảo vệ cuộc đời độc lập, tự do. Trước khi bước vào
cuộc kháng chiến toàn quốc, các đoàn thể quần chúng ở huyện Định Hoá đã
hình thành, thu hút đông đảo nhân dân tham gia. Chính quyền các cấp được
củng cố, lực lượng vũ trang và bán vũ trang đã được phát triển ở nhiều nơi.
Đồng bào các dân tộc Việt Bắc nói chung, huyện Định Hoá nói riêng, có đủ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
83
điều kiện chủ quan và khách quan để trở thành nơi đứng chân an toàn cho các
cơ quan đầu não trong suốt thời kì kháng chiến.
Việt Bắc nói chung và huyện Định Hoá nói riêng có địa thế hiểm trở, có
lòng dân cách mạng kiên cường. Với vị trí chiến lược tiến khả dĩ công, thoái
khả dĩ thủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng đã sớm nhìn thấy các
thế mạnh nhân hoà và địa lợi của khu vực này, nên đã chọn làm nơi xây dựng
ATK của Trung ương. Chọn ATK Trung ương ở Việt Bắc nói chung và Định
Hoá nói riêng chính là chọn nơi an toàn nhất, chắc chắn nhất cho cơ quan đầu
não tồn tại và lãnh đạo cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi. Sự thất bại hoàn toàn
của thực dân Pháp trong cuộc tấn công lên căn cứ Việt Bắc Thu - Đông 1947
hòng chụp bắt cơ quan đầu não kháng chiến là thực tế khẳng định việc lựa chọn
và xây dựng ATK ở khu vực này là hoàn toàn xác đáng.
Sự ra đời của ATK Định Hoá trong căn cứ địa Việt Bắc là kết quả của
một sự lựa chọn đúng đắn, sáng suốt, dự kiến được xu thế phát triển của tình
hình lúc đó.
2. ATK Định Hoá trong căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc là một sáng tạo
của Đảng ta trong kháng chiến chống thực dân Pháp.
Trong khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng, vấn đề bảo toàn cơ quan
lãnh đạo đầu não là một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng. Muốn vậy, cần phải
chọn một nơi thực sự an toàn cho cơ quan đầu não đứng chân để lãnh đạo
phong trào cách mạng toàn quốc. Trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm
của dân tộc, ông cha ta đã từng biết lập căn cứ địa làm nơi đặt bản doanh,
chiêu mộ binh sĩ, phát triển lực lượng.
Ngay từ thế kỷ VI, Triệu Quang Phục dựa vào đầm Dạ Trạch (Khoái
Châu, Hưng Yên) làm nơi đứng chân, tiến hành chiến tranh du kích đánh đuổi
quân Lương, giải phóng đất nước. Trong thế kỉ XV, Lê Lợi - Nguyễn Trãi đã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
84
lấy vùng đất Lam Sơn ( Thọ Xuân, Thanh Hoá ) làm căn cứ địa, chiêu mộ
nghĩa quân, phát triển lực lượng, đánh đuổi giặc Minh, giành lại độc lập cho
dân tộc." Căn cứ Lam Sơn đã mang đầy đủ các nhân tố: Địa - quân sự, Địa -
chính trị, Địa - kinh tế, Địa - văn hoá" [10, tr.57].
Tới thời Cận đại, phong trào kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân
dân ta liên tiếp nổ ra. Việc xây dựng căn cứ địa trở thành một nhân tố căn bản
không thể thiếu của các cuộc khởi nghĩa chống Pháp.
Khởi nghĩa Trương Định có căn cứ Tân An - Gò Công. Nguyễn Trung
Trực lập căn cứ ở Hòn Chông. Phạm Bành và Đinh Công Tráng xây dựng căn
cứ phòng thủ ở Ba Đình. Nguyễn Thiện Thuật xây dựng căn cứ ở Bãi Sậy.
Phan Đình Phùng dựa vào địa thế hiểm trở của núi rừng các tỉnh Thanh Hoá,
Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình để xây dựng thành bốn căn cứ lớn, trong đó
căn cứ Vụ Quang (phía Tây Hương Khê) là căn cứ lớn nhất của nghĩa quân.
Đặc biệt, với việc thành lập căn cứ ở rừng núi vùng Yên Thế rộng lớn để tiến
hành chiến tranh du kích, cuộc khởi nghĩa do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo đã
kéo dài trong 30 năm, gây cho thực dân Pháp nhiều tổn thất và nỗi kinh
hoàng.
Dù ở mức độ khác nhau, nhưng việc xây dựng căn cứ địa trong các cuộc
khởi nghĩa chống thực dân Pháp thời cận đại đều là sự kế thừa và phát huy
truyền thống căn cứ địa Lam Sơn, coi trọng cả bốn nhân tố, trong đó "Địa -
quân sự" và "Địa - chính trị" được đặt lên hàng đầu. Tuy vậy, việc xây dựng
ATK trong căn cứ địa là chưa có. Ngay trong khởi nghĩa Lam Sơn, khởi nghĩa
Yên Thế, mặc dù diễn ra trong thời gian dài và có căn cứ rộng lớn, cũng chưa
bao giờ ông cha ta nghĩ đến xây dựng an toàn khu trong căn cứ địa" [10,
tr.58]. Trong trường hợp đó, căn cứ địa cũng là ATK, yếu tố " Địa - quân sự"
và "Địa - chính trị" đều được coi trọng ngang nhau.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
85
Trong điều kiện lịch sử mới, lại phải đối chọi với một kẻ thù có nhiều
kinh nghiệm cai trị và đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân ta, có trình
độ tác chiến và trang bị kỹ thuật vượt trội chúng ta một khoảng cách có tính
thời đại, từ thực tiễn lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã sáng tạo một phương
thức mới độc đáo để bảo toàn cơ quan đầu não, đó là xây dựng các ATK.
Trong cuộc vận động Cách mạng tháng Tám, chúng ta có cả một hệ
thống căn cứ địa rộng khắp đất nước. Từ hai căn cứ địa ban đầu là Bắc Sơn -
Võ Nhai, Cao Bằng, đến tháng 6 - 1945, chúng ta đã thành lập được Khu Giải
phóng rộng lớn gồm 6 tỉnh (Cao - Bắc - Lạng - Thái - Tuyên - Hà). Nhiều nơi
cũng lập được các chiến khu.
Cùng với hệ thống căn cứ địa, trong Cách mạng tháng Tám, tại Bắc Bộ chúng
ta đã xây dựng được hai Khu an toàn (ATK) của Trung ương và Xứ uỷ Bắc Kỳ,
nhưng lại nằm trên những địa bàn riêng biệt, bên ngoài khu vực căn cứ địa.
ATK I bao gồm hơn một nửa vùng ngoại thành Hà Nội, nằm hai bên bờ
sông Hồng. Đây là nơi đóng các cơ quan Trung ương Đảng và các cơ quan
của Xứ uỷ Bắc Kỳ trong thời kỳ chuẩn bị giành chính quyền. ATK II được
xây dựng trên vùng đất rộng hai bên bờ sông Cầu, bao gồm hầu hết các xã
trong huyện Hiệp Hoà (tỉnh Bắc Giang), một số xã thuộc hai huyện Phổ Yên
và Phú Bình (tỉnh Thái Nguyên). Đây là nơi đóng và hoạt động của Trung
ương Đảng và Xứ uỷ Bắc kỳ trong những năm 1943 - 1945.
Do nằm trên những địa bàn riêng biệt, thậm chí cách xa nhau, giữa các
khu căn cứ địa với các ATK có mối liên hệ thông qua những đường dây liên
lạc bí mật. Như vậy, các ATK trong Cách mạng tháng Tám không có “vành
đai” căn cứ địa bên ngoài che chắn, bảo vệ. Do đó, tính chất an toàn của các
ATK bị hạn chế, dễ bị địch tấn công.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Việt Bắc là căn cứ địa chủ yếu
của cả nước. Trong căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc, một số huyện thuộc ba
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
86
tỉnh Thái Nguyên, Tuyên Quang, Bắc Kạn được chọn làm địa bàn đặt cá cơ
quan đầu não. Như vậy, ATK Trung ương được xây dựng ngay trong lòng căn
cứ địa kháng chiến Việt Bắc. ATK Trung ương không tồn tại độc lập, tách
biệt với căn cứ địa, mà là hạt nhân bên trong căn cứ địa. Căn cứ địa Việt Bắc
là "vành đai" bên ngoài che chắn, bảo vệ cho ATK.Tại Trung tâm An toàn
khu Trung ương trong căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc, Định Hoá là ATK
tuyệt mật, " là nơi bảo đảm an toàn cho Chủ tịch Hồ Chí Minh và cơ quan đầu
não của Đảng và Chính phủ về sống và chỉ đạo sự nghiệp kháng chiến kiến
quốc của toàn dân ta. Cũng chính tại nơi đây những quyết sách lớn của Đảng
về hai nhiệm vụ chiến lược đã ra đời dẫn quân dân ta đi từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác" [10, tr.16].
Sáng tạo của Đảng không những ở cách thức xây dựng, mà còn ở cả nội
dung xây dựng ATK. Nếu ATK Trung ương trong Cách mạng tháng Tám chú
trọng xây dựng cơ sở chính trị, thì ATK Định Hoá trong căn cứ địa kháng
chiến Việt Bắc được xây dựng toàn diện, bao gồm cả chính trị, kinh tế, quân
sự, văn hoá, giáo dục, y tế...Nhờ đó, Định Hoá trong căn cứ địa kháng chiến
Việt Bắc thực sự trở thành khu vực an toàn của các cơ quan đầu não trong
suốt thời kỳ toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp.
3. Sự tồn tại vững chắc và vai trò to lớn của ATK Định Hoá trong suốt
những năm kháng chiến chống thực dân Pháp là một minh chứng cho tinh
thần và khả năng cách mạng của nhân dân các dân tộc Định Hoá.
Trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, huyện Định
Hoá cùng với các huyện Sơn Dương, Yên Sơn (Tuyên Quang), Chợ Đồn (Bắc
Kạn) đã vinh dự được Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chọn làm
Trung tâm ATK trong căn cứ địa Việt Bắc. Định Hoá trở thành nơi đứng chân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
87
thường xuyên, lâu dài của các cơ quan đầu não, nhiều kho tàng, nhiều nhà máy
quan trọng của Trung ương Đảng, Chính phủ và Quân đội.
Nhận thức rõ vị trí của quê hương trong căn cứ địa Việt Băc, nhân dân
các dân tộc Định Hoá phát huy truyền thống yêu nước, đã hăng hái tham gia
cách mạng, tổ chức xây dựng lực lượng vũ trang địa phương phối hợp với bộ
đội chủ lực chiến đấu đẩy lùi nhiều đợt càn quét của địch, bảo vệ an toàn tuyệt
đối Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh, linh hồn của cuộc
kháng chiến. Trong chiến đấu, nhiều cán bộ, chiến sĩ bộ đội địa phương và dân
quân, du kích đã nêu cao tấm gương kiên quyết hy sinh để bảo vệ an toàn cơ
quan đầu não kháng chiến. Hàng vạn người, từ cụ già đến em nhỏ ở tất cả 24 xã
của Định Hoá đều là tai, mắt bảo vệ ATK, làm tốt công tác bảo mật, phòng
gian, thực hiện triệt để khẩu hiệu "Ba không", làm vô hiệu hoá hoàn toàn các
hoạt động trinh sát, do thám, phá hoại của kẻ địch. Các lực lượng vũ trang nhân
dân huyện Định Hoá đã làm tốt công tác tuần tra, canh gác, bảo vệ trật tự, an
ninh trên địa bàn, kịp thời phát hiện, ngăn chặn và trừng trị bọn Việt gian, gián
điệp, biệt kích phá hoại ATK. Do đó, mọi hoạt động, sự đi lại của Chủ tịch Hồ
Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Chính phủ hoàn toàn được giữ kín
không phải vài ba tháng, mà nhiều năm cho đến kháng chiến thắng lợi.
Là chủ nhân một huyện miền núi với nền kinh tế tự cung, tự cấp, nhân
dân các dân tộc Định Hoá đã nỗ lực khắc phục mọi khó khăn, đẩy mạnh sản
xuất lương thực, thực phẩm, thực hành tiết kiệm, vừa đảm bảo cuộc sống của
mình, vừa cung cấp cho các cơ quan kháng chiến đóng trên địa bàn huyện và
làm tròn nghĩa vụ chi viện cho tiền tuyến.
Trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, đồng bào các dân tộc
huyện Định Hoá đã đóng góp cho kháng chiến hàng ngàn tấn thóc và ủng hộ
các cơ quan Trung ương hàng vạn tàu lá cọ, hàng vạn tấn củi cho xưởng quân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
88
giới để sản xuất vũ khí, hàng vạn cây tre, gỗ để làm nhà cho các cơ quan.
Nhiều hộ gia đình đã sẵn sàng nhường nhà cho bộ đội ở, chăm sóc, nuôi dưỡng
thương binh...Nhờ có sự giúp đỡ về mọi mặt và bảo vệ an toàn của quân và dân
Định Hoá, các cơ quan đầu não kháng chiến, các đồng chí lãnh đạo cao cấp của
Đảng, Chính phủ và Quân đội có điều kiện thuận lợi để tập trung lãnh đạo, chỉ
đạo cuộc kháng chiến, kiến quốc của dân tộc đi đến thắng lợi.
Có thể nói, trong suốt thời kỳ kháng chiến chống Pháp, quân và dân Định
Hoá đã phát huy cao độ truyền thống yêu nước, tinh thần và khả năng cách
mạng to lớn của mình, làm tròn vai trò của một ATK Trung ương trong căn cứ
địa Việt Bắc. Sự tồn tại vững chắc của ATK Định Hoá trước những cuộc tấn
công, càn quét, lùng sục của kẻ thù trong Thu - Đông 1947 và trong những năm
tháng còn lại của cuộc kháng chiến chống Pháp là một minh chứng cho tinh
thần và khả năng cách mạng của nhân dân các dân tộc huyện Định Hoá.
4. Thành công của việc xây dựng ATK Trung ƣơng ở Định Hoá trong
những năm kháng chiến chống Pháp cho thấy sự cần thiết phải dựa vào
dân, xây dựng căn cứ, hậu phƣơng vững chắc trong lòng dân. Lấy dân làm
gốc chính là quan điểm cơ bản trong quá trình xây dựng và bảo vệ ATK. Dựa
vào dân, bám chắc vào dân được coi là một nguyên tắc, một điều kiện tiên
quyết bảo đảm sự tồn tại vững chắc của ATK, bởi vì nhân dân sống ngay trong
lòng căn cứ, là lực lượng chủ yếu trong quá trình xây dựng và bảo vệ ATK.
Chính vì vậy, ngoài công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng trong
nhân dân, phải hết sức coi trọng mối quan hệ đoàn kết chặt chẽ giữa cơ quan,
đơn vị với nhân dân địa phương, nghiêm chỉnh thực hiện chính sách dân tộc
của Đảng và kỷ luật trong quan hệ với dân, quan tâm giúp đỡ một cách thiết
thực đến việc tổ chức đời sống mọi mặt của nhân dân các dân tộc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
89
5. ATK Định Hoá - Trung tâm Thủ đô kháng chiến trong căn cứ địa Việt
Bắc gắn liền với sự lãnh đạo của Trung ƣơng Đảng, Chủ tịch Hồ Chí
Minh, Chính phủ, Bộ Tổng tƣ lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam ngày
nay đã trở thành khu di tích đặc biệt quan trọng. Các di tích lịch sử thuộc
ATK Định Hoá, cùng với hệ thống di tích thuộc " Chiến khu Việt Bắc" đã được
Chính phủ đánh giá" là quần thể di tích quan trọng bậc nhất của dân tộc Việt
Nam trong thế kỷ XX".
Hệ thống di tích lịch sử cách mạng, kháng chiến thuộc ATK Định Hoá là
di sản văn hoá quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là địa chỉ đỏ trong
công tác giáo dục lịch sử, giáo dục truyền thống yêu nước và cách mạng cho
các thế hệ hôm nay và mai sau. Chính vì vậy, việc đầu tư phục hồi, bảo tồn và
tôn tạo Khu Di tích lịch sử ATK Định Hoá là góp phần giữ gìn và phát huy giá
trị các di sản văn hoá, góp phần xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, phát huy tác dụng của Khu Di tích trong việc
giáo dục truyền thống yêu nước cho nhân dân các dân tộc.
Trong những năm gần đây, Khu Di tích lịch sử ATK Định Hoá đã và
đang được Nhà nước đầu tư, các Bộ, ngành Trung ương giúp đỡ, tôn tạo. Vùng
trung tâm ATK Định Hoá đã được đầu tư phát triển kinh tế, xã hội, làm thay
đổi diện mạo của vùng chiến khu xưa. Để Khu Di tích lịch sử ATK Định Hoá
thực sự trở thành một Khu Di tích đặc biệt quan trọng, xứng đáng với vị thế
của nó trong lịch sử cách mạng dân tộc, thu hút đông đảo đồng bào cả nước và
bạn bè quốc tế tới tham quan du lịch thì bên cạnh việc đầu tư tôn tạo các di tích
với quy mô lớn, cần có sự đầu tư chiều sâu theo mô hình " Cụm di tích lịch sử -
du lịch - văn hoá".
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
90
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh (1995), Tổng kết cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp - Thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên (2003), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái
Nguyên, tập 1 (1936 - 1965), Công ty in Thái Nguyên.
3. Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên (2007), Bác Hồ với Thái Nguyên
- Thái Nguyên với Bác Hồ, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội.
4. Ban chấp hành Huyện uỷ Định Hoá (2000), Lịch sử Đảng bộ huyện Định
Hoá (1930 - 2000), Nhà máy in Quân đội.
5. Ban NCLSĐ Bắc Thái (1987), Bắc Thái trong căn cứ địa Việt Bắc, XN in
Thái Nguyên.
6. Ban chỉ huy Quân sự tỉnh Thái Nguyên (2004), Lịch sử lực lượng vũ trang
nhân dân tỉnh Thái Nguyên, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
7. Ban NCLSĐ Khu tự trị Việt Bắc (1970), Văn kiện Đảng bộ Liên khu Việt
Bắc, tập 1.
8. Ban NCLSĐ Khu tự trị Việt Bắc (1970), Văn kiện Đảng bộ Kiên khu Việt
Bắc, tập 2.
9. Ban Chỉ huy quân sự Huyện Định Hoá (2007), Huyện Định Hoá - Lịch sử
kháng chiến chống xâm lược và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc (1945 - 2000),
Công ty Cổ phần in Thái Nguyên.
10. Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ tỉnh Thái Nguyên (2004), Hồ Chí Minh với việc
xây dựng ATK Định Hoá trong căn cứ địa Việt Bắc, Kỷ yếu Hội thảo
khoa học, Công ty in Thái Nguyên.
11. Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Bắc Thái (1990), Bắc Thái lịch sử kháng chiến
chống thực dân Pháp (1945 - 1954), Nhà máy in Quân đội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
91
12. Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Thái Nguyên (1998), Thái Nguyên trong chiến
thắng Việt Bắc Thu - Đông 1947, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Nhà máy
in Quân đội.
13. Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Thái Nguyên (1992), Thái Nguyên lịch sử đấu
tranh cách mạng và kháng chiến chống Pháp (1941 - 1954), Xí nghiệp
in Bắc Thái.
14. Bộ Tư lệnh Quân khu I (1990), Tổng kết chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ
quân sự của Liên khu Việt Bắc trong kháng chiến chống thực dân
Pháp (1945 - 1954), tập 1, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
15. Bộ Tư lệnh Quân khu I (1991), Tổng kết chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ
quân sự của Liên khu Việt Bắc trong kháng chiến chống thực dân
Pháp (1945 - 1954), tập 2, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
16. Bộ Tư lệnh Quân khu I (1991), Tổng kết chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ
quân sự của Liên khu Việt Bắc trong kháng chiến chống thực dân
Pháp (1945 - 1954), tập 3, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
17. Bộ Tư lệnh Quân khu I (1991), Một số trận đánh trên chiến trường Việt
Bắc (1945 - 1954), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
18. Bộ Quốc Phòng, Bộ Tư lệnh Quân khu I, Bộ Tư lệnh Quân khu II, Viện
Lịch sử Quân sự Việt Nam (2008), Chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông
1947 - Vai trò căn cứ địa và bước ngoặt của cuộc kháng chiến, Nxb
Quân đội nhân dân, Hà Nội.
19. Các báo cáo, văn kiện các kỳ Đại hội Đảng bộ huyện Định Hoá, lưu tại văn
phòng Tỉnh uỷ Thái Nguyên và Văn phòng Huyện uỷ Định Hoá.
20. Các báo cáo của Uỷ ban hành chính huyện, của Ban Chỉ huy Huyện đội
huyện Định Hoá, lưu tại Trung tâm Lưu trữ Uỷ ban nhân dân tỉnh Thái
Nguyên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
92
21. Trường Chinh (1965), Kháng chiến nhất định thắng lợi, Nxb Quân đội
nhân dân, Hà Nội.
22. Các báo cáo của Ban chỉ huy Quân sự huyện Định Hoá, lưu tại Ban Chỉ
huy Quân sự huyện Định Hoá và Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Thái Nguyên.
23. Đảng bộ huyện Định Hoá (1995), Định Hoá 50 năm đấu tranh xây dựng và
trưởng thành, Kho lưu trữ Huyện uỷ huyện Định Hoá.
24. Đảng bộ huyện Định Hoá (1997), Lịch sử ATK Định Hoá trong kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954), Nhà máy in Quân
đội.
25. Đảng bộ huyện Định Hoá (2001), Lịch sử Đảng bộ huyện Định Hoá (1930 -
2000), Nhà máy in Quân đội.
26. Đảng uỷ Thị trấn Chợ Chu (2001), Lịch sử Đảng bộ Thị trấn Chợ Chu
(1946 - 2000), Xí nghiệp in Bắc Thái.
27. Đảng uỷ BCH Quân sự tỉnh Bắc Kạn (2001), Bắc Kạn lịch sử kháng chiến
chống thực dân Pháp (1945 - 1954), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
28. Trần Bá Đệ (2002), Lịch sử Việt Nam từ 1858 đến nay (in lần thứ 3), Nxb
Đại học Quốc Gia, Hà Nội.
29. Philip Đơvile (1993), Pari - Sài Gòn - Hà Nội, Nxb Hồ Chí Minh.
30. Võ Nguyên Giáp (1995), Chiến đấu trong vòng vây, Nxb Quân đội nhân
dân, Hà Nội.
31. Võ Nguyên Giáp (1977), Những chặng đường lịch sử, Nxb Văn học, Hà
Nội.
32. Võ Nguyên Giáp (1991), Đường tới Điện Biên Phủ, Nxb Quân đội nhân
dân, Hà Nội.
33. Võ Nguyên Giáp (2001), Điện Biên Phủ điểm hẹn lịch sử, Nxb Quân đội
nhân dân, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
93
34. Võ Nguyên Giáp (1997), Tư tưởng Hồ Chí Minh và Con đường Cách mạng
Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
35. Lê Mậu Hãn (1995), Đảng Cộng sản Việt Nam, Các Đại hội và Hội nghị
Trung ương, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
36. Lê Văn Hiến (1995), Nhật ký của một Bộ trưởng, tập I, Nxb Đà Nẵng.
37. Lê Văn Hiến (1995), Nhật ký của một Bộ trưởng, tập II, Nxb Đà Nẵng.
38. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2000), Chiến thắng đường số 4
và Chiến dịch Biên giới, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Xí nghiệp In Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
39. Huyện uỷ - UBND huyện Định Hoá (1996), Báo cáo thành tích của quân
và dân huyện Định Hoá đề nghị tuyên dương " Đơn vị anh hùng lực
lượng vũ trang", Kho lưu trữ Huyện uỷ Định Hoá.
40. Hoàng Ngọc La (1995), Căn cứ địa Việt Bắc (1940 - 1945), Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
41. Vũ Tự Lập (1968), Địa lý Việt Bắc, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
42. Nguyễn Đình Lễ (1998), Lịch sử Việt Nam (từ nguồn gốc đến nay), Nxb
Đại học Quốc Gia, Hà Nội.
43. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập IV, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
44. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập V, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
45. Nguyễn Xuân Minh (1996), ATK Trung ương ở Việt Bắc trong kháng
chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), Luận án Phó Tiến sĩ Khoa
học Lịch sử, Đại học Quốc Gia, Hà Nội.
46. Nguyễn Xuân Minh (2006), Căn cứ địa ATK Việt Bắc - Một sáng tạo
trong kháng chiến chống thực dân Pháp, (Tạp chí Lịch sử Quân sự) số
180, tháng 9 năm 1995).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
94
47. Trịnh Nhu và Trinh Mưu, An toàn khu II và Hội nghị Quân sự Cách mạng
Bắc Kì - Sự chuẩn bị lực lượng tích cực và chủ động cho Cách mạng
tháng Tám (Tạp chí Cộng sản, số 11, tháng 9 năm 1995).
48. Nxb Việt Bắc (1971), Bác Hồ với Việt Bắc.
49. Nxb Công an nhân dân (1985), Những năm tháng bên Bác (chiến sĩ cảnh
vệ kể về Bác), Hà Nội.
50. Nxb Chính trị Quốc gia (1994), Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, tập IV,
Hà Nội.
51. Nxb Chính trị Quốc gia (1995), Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, tập V,
Hà Nội.
52. Nxb Lý luận Chính trị (2007), Bác Hồ với Thái Nguyên, Thái Nguyên với
Bác Hồ, Hà Nội.
53. Nxb Quân đội nhân dân (2008), Lịch sử cuộc kháng chiến chống Pháp,
Hà Nội.
54. Nxb Quân đội nhân dân (1980), Việt Bắc 30 năm chiến tranh Cách mạng
(1945 - 1975), tập 1, Hà Nội.
55. Nxb Quân đội nhân dân (1976), Văn kiện Quân sự của Đảng, Hà Nội.
56. Nxb Sự thật (1986), Văn kiện của Đảng về kháng chiến chống Pháp, tập
1, Hà Nội.
57. Nxb Sự thật (1986), Văn kiện của Đảng về kháng chiến chống Pháp, tập
2, Hà Nội.
58. Nxb Sự thật (1980), Hồ Chí Minh tuyển tập, Hà Nội.
59. Nxb Sự thật (1987), Trường Chinh tuyển tập (1937-1954), Hà Nội.
60. Nxb Sự Thật ( 1987), Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Sự nghiệp kinh
tế và văn hoá 1945-1960, Hà Nội.
61. Nxb Sự thật (1969), Văn kiện Đảng (từ 25-11-1945 đến 31-12-1947), Hà
Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
95
62. Nxb Thanh niên (1980), Theo chân Bác đi kháng chiến, Hà Nội.
63. Nguồn tư liệu khảo sát điền dã, nhân chứng lịch sử.
64. Anh Quân (1974), Theo chân Bác đi chiến dịch, Nxb Văn học Giải phóng,
Hà Nội.
65. Sở Văn hoá - Thông tin Thái Nguyên (2003), Thái Nguyên Đất và Người,
Công ty in Thái Nguyên.
66. Sở Văn hoá - Thông tin Thái Nguyên (2006), Từ ATK Thái Nguyên đến
chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, Công ty Cổ phần in Thái Nguyên.
67. Vi Văn Thiện, Về xây dựng căn cứ địa - Hậu phương trong kháng chiến
chống Pháp (Tạp chí Lịch sử quân sự, số 18 tháng 6 năm 1987).
68. Tỉnh bộ Việt Minh Thái Nguyên (1949), Việt Minh Thái Nguyên 1941 -
1949, Ty Thông tin Thái Nguyên.
69. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1974), Hậu phương chiến tranh nhân
dân Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
70. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1994), Lịch sử cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp (1945 - 1954), Nxb Sự thật, Hà Nội.
71.Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2008), Chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông
1947 - Vai trò căn cứ địa và bước ngoặt của cuộc kháng chiến, Nxb Quân đội
nhân dân, Hà Nội.
72. Viện Sử học (1997), Nửa thế kỷ nhìn lại ngày toàn quốc kháng chiến
19/12/1946 - 19/12/1996, Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
96
PHỤ LỤC
Chủ tịch Hồ Chí Minh ở ATK Định Hoá (1947)
[ẢNH TƯ LIỆU]
Bác Hồ trên đƣờng công tác ở chiến khu Việt Bắc
[ẢNH TƯ LIỆU NHÀ TRƯNG BÀY ATK ĐỊNH HOÁ]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
97
Lán Khau Tý, Hồ Chủ tịch đặt cơ quan đầu tiên (20/5/1947)
tại Điềm Mặc, ATK Định Hoá.
[ẢNH ĐỒNG KHẮC THỌ]
Di tích Nhà sàn Tổng Bí thƣ Trƣờng Chinh và Văn phòng T.Ƣ Đảng ở
Nà Mòn, Phú Đình, Định Hoá
[ẢNH ĐỒNG KHẮC THỌ]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
98
Di tích nơi ở, làm việc của Phó Thủ tƣớng Phạm Văn Đồng
ở đồi Thẩm Khen, xã Phú Đình, huyện Định Hoá.
[ẢNH ĐỒNG KHẮC THỌ]
Di tích nơi ở làm việc của Đại tƣớng Võ Nguyên Giáp và văn phòng Bộ
Tổng tƣ lệnh (1949 - 1954) ở đồi Đỏn My, Bảo Linh, Định Hoá.
[ẢNH ĐỒNG KHẮC THỌ]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
99
Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Nguyễn Lƣơng Bằng (hàng đầu bên
phải), đồng chí Trần Đăng Ninh, và đồng chí Trƣờng Chinh, Hoàng
Quốc Việt, Lê Văn Lƣơng, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp ở Nà Mòn,
xã Phú Đình, ATK Định Hoá 1951.
[ẢNH TƯ LIỆU NHÀ TRƯNG BÀY ATK ĐỊNH HOÁ]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
100
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Nguyễn Chí
Thanh, Tổng Bí thƣ Trƣờng Chinh, Phó Thủ tƣớng Phạm Văn Đồng
tại ATK Định Hoá.
[ẢNH TƯ LIỆU NHÀ TRƯNG BÀY ATK ĐỊNH HOÁ]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
101
Tổng Bí thƣ Trƣờng Chinh (thứ 3 bên trái) và Uỷ viên Thƣờng vụ
Trung ƣơng Đảng Hoàng Quốc Việt thăm nhà máy Quân giới ở ATK Định Hoá.
[ẢNH TƯ LIỆU]
Cán bộ, phóng viên Báo Sự thật ở nhà dân
ở Quảng Nạp (Bình Thành) ATK Định Hoá.
[ẢNH TƯ LIỆU]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
102
Chủ tịch Hồ Chí Minh trao đổi công tác của Hội đồng Chính phủ
với Phó Thủ tƣớng Phạm Văn Đồng ở ATK Định Hoá
[ẢNH TƯ LIỆU]
Ngày 6/12/1953 tại Tỉn Keo, xã Phú Đình, ATK Định Hoá, Hồ Chủ tịch
chủ toạ hội nghị Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ.
[ẢNH TƯ LIỆU NHÀ TRƯNG BẦY ATK ĐỊNH HOÁ]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
103
Chủ tịch Xu-va-nu-vông và Chủ tịch Hồ Chí Minh
tại ATK Định Hoá.
[ẢNH TƯ LIỆU NHÀ TRƯNG BẦY ATK ĐỊNH HOÁ]
Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Lê Văn Lƣơng và Lêôphighe
thành viên Ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Pháp, bí thƣ đoàn thanh niên
dân chủ, nghị sĩ Quốc hội Pháp tại Điềm Mặc, ATK Định Hoá.
[ẢNH TƯ LIỆU NHÀ TRƯNG BẦY ATK ĐỊNH HOÁ]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
104
Nhà tƣởng niệm Bác Hồ, khu di tích lịch sử
ATK Định Hoá, Thái Nguyên
[ẢNH ĐỒNG KHẮC THỌ]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
105
Nhà trƣng bày ATK Định Hoá
[ẢNH ĐỒNG KHẮC THỌ]
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- AN TOÀN KHU ĐỊNH HOÁ TRONG CĂN CỨ ĐỊA KHÁNG CHIẾN VIỆT BẮC.pdf