Luận án Thể loại tùy bút trong văn học Việt Nam từ 1930 đến 1975

1. Tùy bút là m ột thể loại văn xuôi góp phần quan trọng làm nên sự phong phú, đa dạng của văn học Việt Nam hiện đại. Với những nét độc đáo về loại hình và đặc trưng nghệ thuật, tùy bút tồn tại như một đối tượng thẩm mỹ vừa lung linh kỳ ảo vừa gần gũi, gợi cảm, luôn có sức hấp dẫn và mời gọi sự khám phá, đồng sáng tạo. Là một thể loại văn xuôi phái sinh từ ký, tùy bút đã dần dần tách hẳn ra thành một thể loại độc lập, mang những đặc điểm riêng biệt. Trong tùy bút, cái tôi cá nhân độc đáo của người nghệ sĩ vừa là yêu cầu tiên quyết vừa là phẩm chất nghệ thuật mang tính đặc thù. Yếu tố trữ tình chiếm ưu thế, tạo thành mạch chủ đạo, ưu trội. Sự kết hợp giữa tự sự với trữ tình hồn tồn không đơn thuần là vấn đề kỹ thuật và không tuân theo một nguyên tắc có tính định lượng nào. Nó là một thuộc tính có nguồn gốc từ trong cảm hứng và tư tưởng nghệ thuật, như quy luật tự nhiên của sự sáng tạo. Do vậy, về phương diện loại hình, xếp tùy bút vào loại tự sự - trữ tình là thỏa đáng hơn cả. Tính chất trung gian, lai ghép có ảnh hưởng quyết định đến hầu hết những bình diện nội dung và nghệ thuật của tùy bút, tạo nên nét riêng mang tính khu biệt, giúp phân định ranh giới giữa nó với các thể loại văn xuôi nghệ thuật khác. Căn cứ vào đặc trưng loại hình của thể loại, có thể khảo sát tùy bút theo ba nhóm lớn: nhóm tùy bút tự sự, nhóm tùy bút trữ tình và nhóm tùy bút tự sự - trữ tình. Ở cấp độ tiếp theo, dựa vào những tiêu chí cụ thể (tiêu chí đề tài, tiêu chí cảm hứng, tiêu chí dung lượng ), có thể chia mỗi nhóm thành các dạng tùy bút khác nhau

pdf26 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2497 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Thể loại tùy bút trong văn học Việt Nam từ 1930 đến 1975, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thuật sự đâu phải là mối quan tâm hàng đầu của người nghệ sĩ; do đó, làm sao có thể căn cứ vào một yếu tố không mang tính bản chất để phân định thể loại? Trữ tình mới là mục đích chính yếu, là cứu cánh nghệ thuật trong tùy bút. Khác hẳn với quan niệm nêu trên, một số nhà nghiên cứu xếp dứt khốt tùy bút vào loại trữ tình. Đó là quan niệm của: Nguyễn Xuân Nam (trong Lý luận văn học – 1987), Trần Thanh Hà (trong Tam diện tùy bút – 2007), Nguyễn Thành Thi (trong Văn học – thế giới mở - 2010),… Kiểu quan niệm này tuy có vẻ khắc phục được những hạn chế của việc xếp tùy bút vào hệ thống các tiểu loại của thể loại ký - một biến thể của loại tự sự - nhưng lại rất khó tránh khỏi một cực đoan khác. 4 4.1.2. Do chưa được xác định rõ ràng đặc trưng thể loại từ cơ sở lý thuyết, nên công việc khảo sát, bình giá những tác phẩm tùy bút cụ thể đã gặp không ít trở ngại. Có khi sự chệch choạc bộc lộ ngay từ khâu phân định thể loại. Ví dụ: thường, người ta quen gọi Hà Nội băm sáu phố phường của Thạch Lam là tùy bút, nhưng cũng có lúc nó được xem là bút ký (Đinh Quang Tốn) hoặc “một thứ biên khảo song có nhiều tính chất nghệ thuật” (Phạm Thế Ngũ). Các nhà nghiên cứu cũng khá vất vả trong việc xác định ranh giới giữa tùy bút với các tiểu loại khác của ký (nhất là bút ký). Trong sách giáo khoa, sách giáo viên Ngữ văn 12 nâng cao, (đều do Bộ Giáo Dục và Đào Tạo ấn hành năm 2007), phần khái niệm về thể loại và định hướng tiếp cận các tác phẩm tùy bút chưa được trình bày thật sáng rõ, nhất quán (“bài ký thực chất thuộc thể tùy bút”, “tùy bút thuộc thể ký”). Trong quyển Thiết kế bài giảng Ngữ văn 12, tập một (Nguyễn Văn Đường chủ biên), các tác giả cũng tỏ ra lúng túng, nhầm lẫn khi định nghĩa về tùy bút: “Tùy bút: một loại bút ký ghi chép người thật việc thật, không có cốt truyện, đặc biệt in đậm cảm xúc chủ quan của người viết, đậm chất trữ tình”. 4.1.3. Về đặc điểm nghệ thuật nổi bật, hầu hết các ý kiến đều thừa nhận rằng tùy bút là một thể loại văn xuôi nghệ thuật hết sức tự do, phóng túng và giàu chất trữ tình; ở đó, cái tôi cá nhân của người nghệ sĩ luôn được bộc lộ rõ nét, sinh động. Đó là các ý kiến của: Vương Trí Nhàn (trong Nguyễn Tuân và thể tùy bút - 1997), Lý Lan (trong Miên man tùy bút - 2007), Trần Thanh Hà (trong Tam diện tùy bút - 2007), Nguyễn La (trong Cái tôi trong tùy bút - 2008),… Ngồi đặc điểm về chủ thể sáng tạo, những bình diện nội dung và nghệ thuật khác của tùy bút (đề tài, cảm hứng, nhân vật, kết cấu, dung lượng, giọng điệu, ngôn ngữ) hầu như ít được các nhà nghiên cứu đề cập tới. * Thực tế nghiên cứu cho thấy, sẽ trở nên cứng nhắc và khiên cưỡng nếu cố tình quy tùy bút vào một trong hai loại: tự sự hoặc trữ tình. Tự sự không chỉ là phương tiện và trữ tình chưa hẳn là mục đích duy nhất của các sáng tác tùy bút. Cái tôi của nhà văn xuất hiện trong tùy bút không chỉ để giãi bày cảm xúc mà còn để kể chuyện, tâm tình, đối thoại, suy tư,…Vậy thì tùy bút thuộc loại hình văn học nào, đâu là những đặc trưng thể loại và để phân loại tùy bút phải căn cứ vào những tiêu chí nào? Thiết nghĩ, đó là những vấn đề thực sự mang ý nghĩa khoa học, cần được quan tâm nghiên cứu triệt để hơn. 4.2. Về tùy bút Việt Nam từ 1930 đến 1975 5 Do chưa có những công trình nghiên cứu quy mô, hệ thống, nên các ý kiến, nhận định về tiến trình của tùy bút ở Việt Nam thường xuất hiện lẻ tẻ, rải rác trong các bài báo, tạp chí và những công trình nghiên cứu văn học sử nói chung. Mặt khác, một khi quan niệm cho rằng tùy bút là một tiểu loại của ký đã và đang được nhiều người thừa nhận thì tìm ra những ý kiến, nhận định riêng về nó là điều không dễ dàng. Vì thế, những phát biểu, đánh giá về ký nói chung đôi khi cũng góp phần tăng cường tính hệ thống cho việc nghiên cứu quá trình phát triển của tùy bút. 4.2.1. Tùy bút là một thể loại văn xuôi phái sinh từ ký. Thể loại ký phát triển rất mạnh trong văn học trung đại Việt Nam. Cho nên, những tác phẩm ký mang hơi hướng, dáng dấp tùy bút đã thấy xuất hiện từ trước thế kỷ XX. Nhưng tùy bút, với cách hiểu là một thể loại văn xuôi hẳn hoi như hiện nay, thì chưa có. Ở chặng đầu của công cuộc hiện đại hóa nền văn học Việt Nam (1900 - 1930), mặc dù tùy bút chưa tách ra khỏi thể loại ký nhưng chất trữ tình đã dần đậm đà hơn và bản ngã của người viết cũng bộc lộ rõ nét hơn. Đây được xem là thời kỳ chuyển dạ, là giai đoạn cuối của quá trình sinh thành một thể loại văn học. Các ý kiến của Vương Trí Nhàn (trong Nguyễn Tuân và thể tùy bút - 1997), Nguyễn Văn Hạnh (trong Chuyện văn, chuyện đời – 2004), Lê Dục Tú (trong Văn học Việt Nam thế kỷ XX - Phan Cự Đệ chủ biên - 2004),… đã khẳng định điều đó. 4.2.2. Từ 1930 đến 1945, diện mạo và thành tựu độc đáo của thể loại tùy bút mới thực sự được khẳng định. Ở bài viết Nguyễn Tuân, tên tuổi còn mãi với thể tùy bút (1997), qua việc phân tích cặn kẽ những tiền đề từ thực tiễn văn học và tâm lý xã hội, Vương Trí Nhàn đã cho thấy sự ra đời của thể loại tùy bút nói chung và sáng tác của Nguyễn Tuân nói riêng vào thập niên 30 của thế kỷ XX là một hiện tượng tất yếu, mang tính lịch sử. Trong Luận án Tiến sĩ về Đặc trưng tùy bút Nguyễn Tuân (2004), ở phần điểm qua tiến trình tùy bút Việt Nam, Nguyễn Thị Hồng Hà có nhận định: “Cho đến cuối thập niên thứ ba của thế kỷ XX, những tác phẩm tùy bút thực sự mang hơi thở lẫn dáng dấp hiện đại bắt đầu xuất hiện”. Trong Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Lê Dục Tú đặc biệt ghi nhận đóng góp của thể loại ký vào giai đoạn văn học 1930 - 1945, với tùy bút là một trong hai “dạng” chủ yếu. Trong Khóa luận tốt nghiệp đại học ngành Văn học với đề tài Thể loại tùy bút trong văn học Việt Nam 1930 – 1945 (Trường đại học KHXH & NV Tp. HCM - 2006), Nguyễn Thị Bích Thủy đã tập trung tìm hiểu những đặc điểm và thành tựu của tùy bút Việt Nam thời kỳ đầu. Ở phần Lời nói đầu quyển Du ký Việt Nam (Nguyễn Hữu Sơn sưu tầm và giới thiệu – 2007), các tác giả đã khẳng định sự hiện diện của thể loại tùy 6 bút, góp phần làm nên diện mạo văn xuôi Việt Nam hiện đại từ đầu thế kỷ XX. Trong Văn học – thế giới mở, khi khảo sát quá trình tương tác giữa các thể loại văn học từ 1932 đến 1945, Nguyễn Thành Thi cũng khẳng định vị trí xứng đáng của tùy bút trong hệ thống thể loại văn xuôi thời kỳ hiện đại. Các tác gia, tác phẩm tùy bút tiêu biểu ở thời kỳ này như Nguyễn Tuân với Chiếc lư đồng mắt cua, Tùy bút I, Tùy bút II, Tóc chị Hồi; Thạch Lam với Hà Nội băm sáu phố phường, Xuân Diệu với Phấn thông vàng, Trường ca, Chế Lan Viên với Vàng sao, Đinh Gia Trinh với Hồi vọng của lý trí,…cũng đã có được sự quan tâm đáng kể từ các nhà nghiên cứu. 4.2.3. Từ 1945 đến 1975, trong bối cảnh chiến tranh vệ quốc khốc liệt, là một thể loại linh hoạt, đa năng, tùy bút nhanh chóng thích nghi với yêu cầu mới của hồn cảnh lịch sử. Cái tôi trữ tình trong tùy bút đã mang dáng dấp sử thi và mạch cảm xúc trở nên đậm đà màu sắc lãng mạn. Ở bài viết Diện mạo văn học Việt Nam 1954 – 1975 (1999), Lã Nguyên xác định rõ vị trí của tùy bút trong sự phong phú, đa dạng về thể loại của nền văn học Cách mạng. Trong Văn học Việt Nam hiện đại, vấn đề - tác giả (2005), Mã Giang Lân cũng khẳng định: trong văn học 1945 -1975, ba thể loại chính có nhiều thành tựu hơn cả là ký, truyện ngắn và tiểu thuyết. Trong các công trình nghiên cứu văn học sử và các tập tiểu luận phê bình, các tác giả, tác phẩm tùy bút tiêu biểu ở giai đoạn này cũng thường được đề cập như những đóng góp đầy ý nghĩa cho nền văn học dân tộc. * Nhìn chung, đóng góp của thể loại tùy bút để làm nên sự phong phú và đa dạng cho diện mạo văn xuôi Việt Nam hiện đại, nhất là trong khoảng thời gian từ 1930 đến 1975, đã được thừa nhận. Tuy nhiên, từ thực tế nghiên cứu có thể nhận ra không ít điểm chưa thỏa đáng, cần khảo sát tường tận hơn. Thứ nhất, mặc dù không thể phủ nhận mối liên hệ phái sinh với thể loại ký, nhưng rất cần phải tách ra, xem xét tùy bút như một thể loại độc lập. Chỉ khi nào những thành tựu của tùy bút được xếp theo một hệ thống riêng thì lúc đó mới có đủ cơ sở để rút ra những nhận định xác đáng về quy luật vận động, phát triển và đặc điểm của thể loại. Thứ hai, bao giờ cũng vậy, nói đến tùy bút Việt Nam, người ta nghĩ ngay tới Nguyễn Tuân. Sáng tác của Nguyễn Tuân được xem là đỉnh cao, là mẫu mực cho thể loại tùy bút. Điều này đúng, nhưng chưa đủ. Một mình cụ Nguyễn, dù tài ba và uyên bác đến đâu, cũng khó lòng dựng lên một lâu đài tùy bút nguy nga trong văn học hiện đại như thế. Do đó, cần phải ghi 7 nhận đóng góp của thể loại tùy bút đối với nền văn học dân tộc một cách công bằng và đầy đủ hơn. 5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  Những phương pháp nghiên cứu có ý nghĩa phương pháp luận: Phương pháp lịch sử, phương pháp loại hình.  Những phương pháp nghiên cứu có ý nghĩa thao tác cụ thể: Phương pháp mô tả, phương pháp hệ thống, phương pháp so sánh. 6. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN 6.1. Luận án nêu rõ những điểm chưa thống nhất trong cách hiểu khái niệm, xác định loại hình và đặc trưng nghệ thuật của thể loại tùy bút; từ đó, xác lập một quan niệm mới về loại hình của tùy bút trong văn học. 6.2. Bước đầu đặt ra vấn đề phân loại tùy bút trên cả hai phương diện: lý thuyết thể loại và lịch sử văn học. 6.3. Khảo sát tình hình phát triển và thành tựu của tùy bút Việt Nam qua ba chặng đường: 1930 - 1945, 1945 - 1954, 1954 - 1975. Điểm qua những tác gia, tác phẩm tùy bút tiêu biểu. Lập danh mục tác phẩm tùy bút được sáng tác trong khoảng thời gian từ 1930 đến 1975. 6.4. Khái quát đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của những sáng tác tùy bút từ 1930 đến 1975, từ đó, khẳng định sự góp mặt xứng đáng của thể loại này trong văn học Việt Nam hiện đại. 7.CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN Luận án gồm tổng cộng 232 trang, trong đó có 197 trang chính văn. Dung lượng cụ thể của các phần như sau: * MỞ ĐẦU (23 trang) * CHƯƠNG 1: Những vấn đề lý thuyết về thể loại tùy bút (29 trang) * CHƯƠNG 2: Quá trình phát triển của tùy bút Việt Nam từ 1930 đến 1975 (77 trang) * CHƯƠNG 3: Đặc điểm của tùy bút Việt Nam từ 1930 đến 1975 (65 trang) * KẾT LUẬN (4 trang); PHỤ LỤC (14 trang) 8 * TÀI LIỆU THAM KHẢO (234 tài liệu); PHỤ CHÚ (1 trang) CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT VỀ THỂ LOẠI TÙY BÚT 1.1. Về khái niệm “tùy bút” 1.1.1. Có vẻ như cách hiểu đơn giản: tùy bút là những trang văn xuôi ở đó nhà văn tùy theo ngòi bút mà đưa đẩy - lâu nay dễ được nhiều người thừa nhận nhất. Tuy nhiên, có thể nói ngay rằng đây là cách hiểu chưa thỏa đáng, tiềm ẩn không ít mâu thuẫn. Nếu coi tùy bút là một cách viết hoặc một kiểu bút pháp thì chỉ mới dừng lại ở mức độ bên ngồi, chưa đi sâu vào bản chất của đối tượng. Tùy bút còn là một thể loại văn học mang những nét đặc trưng về nội dung và nghệ thuật biểu hiện, đủ sức tồn tại ngang hàng với những thể loại văn xuôi nghệ thuật khác. 1.1.2. Từ góc nhìn từ nguyên học có thể tìm thấy những giả thiết đáng tin cậy, góp phần vào việc xác định khái niệm và phân định loại hình của tùy bút. Vào buổi sơ khai của việc phân loại, một số nhà lý luận Trung Quốc (Lưu Hiệp, Nhan Diên Chi) chia văn chương thành 2 loại: loại có vần là Văn và loại không vần là Bút. Từ nguồn gốc phương Đông, tùy bút đã được xác định là một thể loại văn xuôi thực sự tự do, phóng túng, không bị ràng buộc bởi những khuôn khổ có tính quy phạm, cả về nội dung tư tưởng và cách thức thể hiện. 1.1.3. Qua nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy có sự gần gũi giữa thể loại tùy bút với thể loại essay trong văn học phương Tây. Có hai loại essay: essay thường quy (formal essay – có thể dịch là “tiểu luận”) và essay không thường quy (informal essay – có thể dịch là “tùy bút”). Tùy bút là một dạng, một loại essay - essay nghệ thuật. Chỉ những văn bản ngôn từ ra đời từ cách viết tự do, phóng túng, không theo quy cách cố định, mới được xem là tùy bút. 1.1.4. Cần phải hiểu tùy bút như một khái niệm mang nội hàm bao gồm hai bình diện ý nghĩa: một thuật ngữ để chỉ cách viết có tính thẩm mỹ, một kiểu bút pháp phóng túng, linh hoạt xuất hiện trong văn xuôi ở nhiều lĩnh vực khác nhau; một thể loại văn học đã ra đời và có những bước phát triển mạnh mẽ trong thời hiện đại. 1.2. Xác định loại của tùy bút 9 1.2.1. Hiện nay, việc xác định loại của tùy bút vẫn chưa có được sự nhất trí cần thiết. Hầu hết các ý kiến đều lệch về hai phía: hoặc coi tùy bút là một tiểu loại giàu chất trữ tình nhất của ký (biến thể của loại tự sự), hoặc khẳng định dứt khốt rằng thể loại tùy bút thuộc loại trữ tình. Rõ ràng, việc xếp dứt khốt tùy bút vào một trong hai loại: tự sự hoặc trữ tình, xét một cách tồn diện, đều là chưa thỏa đáng. 1.2.2. Vậy thì thể loại tùy bút nằm ở đâu trong hệ thống phân loại văn học truyền thống? Có lẽ đặt nó ở vị trí trung gian giữa loại tự sự và loại trữ tình là phù hợp hơn cả. Sáng tác văn chương, từ trong bản chất, là một hình thức giao tiếp thẩm mỹ vừa mang ý nghĩa xã hội vừa có thuộc tính tự nhiên. Mà trong thế giới tự nhiên đa dạng thì những hiện tượng lai ghép, lưỡng tính luôn tồn tại như một thực tế không thể phủ nhận. 1.3. Đặc điểm của thể loại tùy bút Trong Luận án, chúng tôi đã tập trung khảo sát đặc điểm của thể loại tùy bút trên các bình diện cụ thể sau đây: 1.3.1. Đề tài Đề tài của tùy bút rất đa dạng. Với ưu thế riêng của một thể loại nằm ở vị trí trung gian, tùy bút có thể can dự vào mọi phương diện, mọi lĩnh vực đời sống. Từ những vấn đề về lịch sử, văn hóa, phong tục cho tới những nội dung mang tính chất thế sự, đời tư; từ ngoại cảnh đến tâm cảnh, từ ý thức đến vô thức, tất cả đều là đối tượng để cảm nhận và suy tư trong tùy bút. Tùy bút thường tái hiện nội tâm con người trong sự đan xen nhiều cung bậc cảm xúc phong phú, phức tạp hoặc thuật lại những nỗi ám ảnh, day dứt tinh thần triền miên. Cảm quan nghệ thuật của người viết tùy bút còn tỏ ra hết sức tinh nhạy trước vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên và những giá trị văn hóa truyền thống. 1.3.2. Cảm hứng, tình điệu thẩm mỹ Là một thể loại trung gian, thừa hưởng được ưu thế của cả hai loại hình - tự sự và trữ tình, tùy bút hầu như dung hợp được tất cả các loại cảm hứng, tình điệu thẩm mỹ khác nhau. Lãng mạn luôn là cảm hứng chủ đạo trong tùy bút. Góc nhìn trần thuật của người viết tùy bút bao giờ cũng xuất phát từ những chuẩn mực về cái Đẹp. Khuynh hướng lý tưởng hóa ấy góp phần quan trọng đảm bảo cho sự ưu trội của cảm hứng lãng mạn trong tùy bút. Cảm hứng bi cũng xuất hiện khá thường xuyên, nhất là ở mảng sáng tác về đề tài thế sự, đời tư. Những sáng tác tùy bút ra đời trong 10 hồn cảnh chiến tranh thường lấy cảm hứng anh hùng làm cảm hứng chủ đạo. Ngồi ra, các dạng cảm hứng như châm biếm, trữ tình, hài hước,... ở mức độ khác nhau, cũng đều xuất hiện trong tác phẩm tùy bút, góp phần tạo nên sự phong phú, đa dạng của cảm hứng và tình điệu thẩm mỹ. 1.3.3. Lời văn, giọng điệu Lời văn, giọng điệu của tùy bút bao giờ cũng uyển chuyển, linh hoạt, có sự hài hòa giữa chất thơ với chất trần thuật. Lời văn tùy bút thường rất đẹp, vì được trau chuốt bằng cả một “tử công phu” (chữ dùng của Nguyễn Tuân). Người viết tùy bút phải là “nghệ sĩ ngôn từ bậc thầy” thì mới đủ sức làm thăng hoa những vẻ đẹp tiềm ẩn của ngôn từ nghệ thuật. Trong tùy bút, dạng lời văn gián tiếp của người trần thuật luôn xuất hiện với tần số cao nên độc thoại là hình thức giao tiếp chiếm ưu thế. Tùy bút thường có giọng chậm rãi, như thủ thỉ tâm tình. Nhân vật xưng tôi - người trần thuật trữ tình - quán xuyến tồn bộ tác phẩm, dù không phải lúc nào cũng xuất hiện trực tiếp. 1.3.4. Kết cấu Không kể tồn bộ câu chuyện, không dựng lại bức tranh tồn cảnh (như truyện ngắn, truyện ký, tiểu thuyết), không quan tâm xây dựng cốt truyện, tùy bút chỉ chú trọng thể hiện dòng cảm xúc với những khoảnh khắc tâm trạng, những trạng thái suy tư, những tình huống nhận thức. Người viết tùy bút ít khi dồn nén, thắt nút, tạo kịch tính, nên kết cấu thường dàn trải như dạo chơi theo nhịp thời gian chậm, trong không gian rộng, nhuốm màu hồi niệm. Trong kết cấu một thiên tùy bút, câu chuyện được thuật lại bao giở cũng lùi vào bình diện thứ hai, nhường chỗ cho dòng mạch trữ tình. 1.3.5. Dung lượng Dung lượng của mỗi tác phẩm tùy bút thường ở mức độ trung bình, vừa đủ để gói ghém tình ý của nhà văn về một đối tượng thẩm mỹ cụ thể. Nếu cần bộc lộ trọn vẹn ấn tượng chủ quan trước những sự việc, hiện tượng đa dạng, phong phú, người viết tùy bút chia tác phẩm thành từng đoản thiên (có hoặc không có tiểu tựa). 1.4. Phân loại tùy bút Căn cứ vào đặc trưng về loại hình (thuộc loại hình tự sự - trữ tình), có thể tiếp cận để phân loại tùy bút từ hai phương diện chính: tự sự và trữ 11 tình. Ngồi ra, dung lượng cũng là một căn cứ về hình thức có ý nghĩa góp phần phân định các dạng của thể loại tùy bút. 1.4.1. Nếu khảo sát từ phương diện tự sự, có thể phân loại tùy bút dựa trên sự khác biệt về đề tài. Căn cứ vào tiêu chí này, nhóm tùy bút tự sự gồm các dạng cụ thể như: tùy bút văn hóa, tùy bút phong cảnh thiên nhiên, tùy bút chiến tranh, tùy bút lịch sử, tùy bút chính trị,... Các dạng tùy bút này, cùng với đặc điểm về đề tài, còn mang những nét riêng về không gian, thời gian nghệ thuật, về giọng điệu trần thuật, về mối quan hệ giữa tả và kể. Chúng tôi chọn sự khác nhau về đề tài làm căn cứ phân loại cho nhóm tùy bút tự sự vì đây là tiêu chí nổi trội, có khả năng bao quát đối tượng trong tính đa dạng và phong phú của nó. 1.4.2. Nếu tiếp cận tùy bút từ phương diện trữ tình thì có thể lấy cảm hứng làm tiêu chí cơ bản để phân loại. Dựa trên tiêu chí cảm hứng sáng tác, có thể phân nhóm tùy bút trữ tình thành các dạng như sau: tùy bút lãng mạn, tùy bút anh hùng, tùy bút thế sự, tùy bút bi kịch, tùy bút châm biếm,… Tất nhiên, cảm hứng sáng tác không phải là căn cứ duy nhất để phân loại nhóm tùy bút trữ tình; còn phải tính đến các yếu tố khác như nhân vật trữ tình, ngôi trữ tình, phương thức trữ tình. Tuy nhiên, sự khác biệt trong cảm hứng sáng tác giữa các dạng thuộc nhóm tùy bút trữ tình là rõ nét hơn cả, vì vậy lấy cảm hứng làm tiêu chí phân định là thỏa đáng. 1.4.3. Sự khác biệt về dung lượng là một tiêu chí hình thức dựa vào đó có thể phân loại tùy bút thành các kiểu: đoản thiên tùy bút, trung thiên tùy bút, trường thiên tùy bút. Tạp bút, tạp văn là một dạng biến thể, mang đầy đủ đặc điểm của đoản thiên tùy bút, vừa đủ để diễn tả gọn ghẽ một tình huống và bộc lộ một cách đơn tuyến mạch suy tư, xúc cảm của chủ thể trữ tình. 1.5. Phân biệt tùy bút với bút ký và thơ văn xuôi 1.5.1. Bút ký là một thể loại khá gần gũi với tùy bút. Chung gốc gác từ ký, nên trong bút ký và tùy bút luôn có sự hiện diện của yếu tố tự sự. Nhưng vai trò của yếu tố này ở mỗi thể loại có điểm khác nhau. Tự sự trong bút ký bao giờ cũng hướng đến mục đích biểu đạt tư tưởng của tác giả. Trong khi đó, tự sự ở tùy bút thường có ý nghĩa như phương tiện để giãi bày thế giới tâm hồn, cảm xúc. Nghĩa là, mặc dù đôi khi cũng có màu sắc trữ tình nhưng bút ký thiên về nhận thức, còn cái mạch chính trong tùy bút bao giờ cũng là cảm xúc, suy nghĩ. Một phương diện khác cũng ghi nhận nét tương đồng và dị biệt giữa bút ký với tùy bút là vấn đề hư 12 cấu. Nếu hư cấu trong bút ký có thể xuất hiện ở mọi cấp độ, từ đề tài, nhân vật, chi tiết đến tình huống, tư tưởng thì ở tùy bút, hư cấu được sử dụng trong khi người nghệ sĩ cố gắng khắc họa những khoảnh khắc tâm trạng hoặc mãnh liệt, rõ nét hoặc chỉ bàng bạc, thoảng qua. Nghĩa là, nếu hư cấu trong bút ký nhằm ảo hóa, lạ hóa đối tượng khách quan thì ở tùy bút, nó giúp hình tượng hóa thế giới tâm hồn chủ quan của con người. 1.5.2. Về phương diện hình thức, thơ văn xuôi và tùy bút gần giống nhau ở chỗ cấu trúc ngữ pháp có tạo nên nhịp điệu, nhạc điệu. Nhưng nét khác biệt trong sự vận động của mạch tư tưởng, cảm xúc ở đây là: một bên đi theo nhịp luân vũ (đường tròn), một bên đi theo bước dạo chơi (đường thẳng). Hình ảnh và ngôn ngữ trong thơ bao giờ cũng đòi hỏi một mức độ cách điệu, lý tưởng vì đã khúc xạ, thăng hoa hồn tồn qua lăng kính chủ quan của thi nhân. Còn trong tùy bút, chất liệu để làm nền cho mạch xúc cảm cần có độ tươi nguyên của hiện thực. Tùy bút đa phần sử dụng lớp nghĩa tường minh của ngôn từ, trong khi thơ văn xuôi lại phát huy tối đa những nét nghĩa hàm ẩn. Suy đến cùng, phân biệt tùy bút với thơ văn xuôi chính là phân biệt giữa một thể văn xuôi giàu chất thơ với một thể thơ có hình thức biểu hiện gần như văn xuôi. CHƯƠNG 2 QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA TÙY BÚT VIỆT NAM TỪ 1930 ĐẾN 1975 2.1. Sự hình thành thể loại tùy bút trong văn học Việt Nam trước 1930 2.1.1. Sự hình thành thể loại tùy bút trong văn học trung đại Có thể khẳng định ngay rằng trên phương diện lý thuyết, chưa có sự tồn tại của thể loại tùy bút với đầy đủ những nét đặc trưng nghệ thuật như ngày nay, trong văn xuôi Việt Nam thời trung đại. Bởi hồn cảnh lịch sử và cơ sở tâm lý xã hội lúc bấy giờ ưu tiên hơn cho loại văn chương phi ngã. Cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ phát huy nhiều hơn ở bình diện nghệ thuật thể hiện, còn nội dung tư tưởng, cảm xúc thì phần lớn phải phục tùng những quy phạm của lễ giáo phong kiến. Văn chương đáng thờ trước hết là phương tiện để tải đạo, nghĩa là nhằm phụng sự cho việc duy trì những chuẩn mực đạo đức bất di bất dịch. Mặc dù đã thấy xuất hiện những tác phẩm mang đặc điểm của tùy bút càng lúc càng rõ nét, nhất là ở giai đoạn cuối, khi nhu cầu khẳng định ý thức cá nhân được làn gió Tây 13 học thổi bùng lên, nhưng trong suốt mười thế kỷ văn chương trung đại Việt Nam, tùy bút vẫn còn ẩn mình trong ký chứ chưa tồn tại như một thể loại riêng biệt. Dù sao, những biểu hiện đó cũng là tiền đề cần thiết cho sự hình thành và phát triển của thể loại này ở thời kỳ hiện đại. 2.1.2. Sự hình thành thể loại tùy bút trong văn học từ 1900 đến 1930 Tính đến năm 1930, tùy bút vẫn chưa xuất hiện trong nền văn học Việt Nam với tư cách một thể loại riêng biệt. Ở chặng đầu của quá trình hiện đại hóa, hầu hết các thể loại đều có sự cách tân mạnh mẽ cả về nội dung tư tưởng và hình thức thể hiện. Nhu cầu về một thể loại văn xuôi thực sự tự do, vừa có thể diễn tả được mọi trạng thái tình cảm phong phú đến phức tạp của con người thời hiện đại vừa thể hiện cá tính sáng tạo độc đáo của người nghệ sĩ - mỗi lúc một rõ nét. Tính chất ghi chép, biên khảo trong các tác phẩm văn xuôi mờ nhạt dần và chất trữ tình ngày càng đậm đà hơn. Đó chính là những tiền đề xã hội, tiền đề văn học hết sức cần thiết cho sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của thể loại tùy bút ở những giai đoạn tiếp theo. 2.2. Những chặng đường phát triển của thể loại tùy bút trong văn học Việt Nam từ 1930 đến 1975 2.2.1. Từ 1930 đến 1945 Tính đến 1945, nền văn học Việt Nam đã cơ bản hồn tất quá trình thai nghén và sinh thành thể loại tùy bút. Chỉ trong vòng 15 năm mà tiến trình hiện đại hóa đã sải những bước dài. Cùng với thơ mới, truyện ngắn, phóng sự, tiểu thuyết, tùy bút là thể loại có đóng góp đáng kể để làm nên một thời đại văn chương rực rỡ. Những sáng tác tùy bút ở thời kỳ này đã góp phần khẳng định vị trí quan trọng của cái tôi cá nhân trong đời sống tinh thần con người Việt Nam thời hiện đại. Hai ngòi bút chủ lực ở giai đoạn này là Nguyễn Tuân và Thạch Lam. Ngồi ra, còn phải kể đến Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Lư Khê, Đinh Gia Trinh…Tuy viết không nhiều nhưng đóng góp của họ đối với sự phát triển của thể loại tùy bút ở thời kỳ đầu là thực sự có ý nghĩa. Qua các tác phẩm tiêu biểu (Tùy bút I, Chiếc lư đồng mắt cua, Hà Nội băm sáu phố phường, Phấn thông vàng, Trường ca, Vàng sao, Chơi giữa mùa trăng, Phút thốt trần, Hồi vọng của lý trí), những nét cơ bản của diện mạo thể loại tùy bút hiện đại đã định hình. 2.2.2. Từ 1945 đến 1975 14 Giai đoạn 1945 - 1975 đã ghi nhận bước phát triển đáng kể của thể loại tùy bút. Đề tài sáng tác phong phú, bút pháp đa dạng và đội ngũ sáng tác đông đảo hơn. Hiện thực khốc liệt của 30 năm chiến tranh vệ quốc lại chính là hồn cảnh để nảy sinh, thử thách và khẳng định biết bao giá trị có ý nghĩa nhân văn sâu sắc trong các mối quan hệ xã hội (giữa cá nhân với cộng đồng, giữa dân tộc với thời đại, giữa chính nghĩa với phi nghĩa). Chính cái thế giới tâm hồn mênh mông thẳm sâu của con người Việt Nam trong thử thách hiểm nghèo của lịch sử là mảnh đất màu mỡ, là nguồn chất liệu thích hợp để hình thành nên những trang tùy bút mang âm hưởng một thời đại bi hùng. Cũng không khó khăn gì để nhận ra những điểm hạn chế, trong tình hình chung của văn chương thời chiến: giọng điệu tùy bút đôi khi đơn điệu, công thức, mòn sáo; chí thì cao, tình thì nặng, nhưng chưa có nhiều sáng tạo, cách tân trong bút pháp thể hiện. Tùy bút thích hợp với kiểu độc tấu tự do, phóng túng, trong khi văn học thời kỳ chiến tranh lại là bản hợp xướng một bè đậm chất sử thi, nhằm thể hiện tư tưởng và tình cảm của tồn thể dân tộc. Trong một giai đoạn văn học mà mọi nghĩ suy và hành động con người đều phải hướng tới việc phụng sự tốt nhất cho cái Ta cộng đồng thì phương thức biểu hiện của tùy bút chắc chắn ít nhiều có bị ảnh hưởng. * Nhìn chung, mặc dù mãi đến thập niên 30 của thế kỷ XX tùy bút mới thực sự hiện diện với tư cách một thể loại văn xuôi hiện đại, rồi từng bước khẳng định sự góp mặt xứng đáng bằng nhiều tên tuổi lớn, nhiều tác phẩm có giá trị, nhưng trước đó, trong các tác phẩm ký trung đại, đã xuất hiện ngày càng rõ những nét diện mạo cơ bản của nó. So với các thể loại khác, đội ngũ sáng tác và thành tựu của tùy bút còn khá khiêm tốn. Nhưng rõ ràng, nó đã có một quá trình hình thành và phát triển theo đúng quy luật kế thừa - cách tân, có chịu ảnh hưởng sâu sắc từ cả văn học phương Đông và phương Tây. Trong quá trình phát triển của văn học Việt Nam hiện đại, ở mỗi giai đoạn thường có một vài thể loại nổi trội lên, để ưu tiên đáp ứng yêu cầu và tính chất của hồn cảnh lịch sử. Với tùy bút, tình hình có vẻ hơi khác: một cách lặng lẽ, vừa xông xáo vừa điềm tĩnh, nó thích nghi được cả trong thời chiến lẫn thời bình, cả sử thi hồnh tráng lẫn thế sự đời thường. Đặc biệt, tùy bút luôn tỏ rõ ưu thế khi diễn tả quan hệ của con người với thiên nhiên và tôn vinh các giá trị văn hóa dân tộc. 2.3. Những tác gia và tác phẩm tiêu biểu trong văn học Việt Nam từ 1930 đến 1975 15 Ở phần này, chúng tôi lần lượt trình bày những tác gia, tác phẩm tiêu biểu, góp phần làm nên thành tựu của thể loại tùy bút Việt Nam từ 1930 đến 1975. Với vai trò và vị trí đặc biệt, tác gia Nguyễn Tuân được ưu tiên hơn cả, Năm tác gia còn lại được điểm sơ lược về quá trình sáng tác và những nét chính phong cách nghệ thuật. Trong khi khảo sát những tác phẩm cụ thể, Luận án tập trung phân tích, chứng minh để làm nổi bật cái hay, cái đẹp về nội dung tư tưởng và nghệ thuật thể hiện. Các vấn đề được xếp theo trình tự thời gian để đảm bảo tính khách quan khoa học và tránh phải làm công việc phân định thứ bậc một cách không cần thiết. Số lượng tác gia, tác phẩm được chọn để giới thiệu có thể nhiều hơn, nhưng quan điểm của chúng tôi là cần dành ưu tiên cho những đóng góp nổi bật. Phần còn lại sẽ được điểm qua trong Danh mục các tác phẩm tùy bút từ 1930 đến 1975, ở phụ lục của Luận án. 2.3.1. Nguyễn Tuân – người viết tùy bút số một 2.3.2. Thạch Lam với Hà Nội băm sáu phố phường 2.3.3. Vũ Bằng với Thương nhớ mười hai 2.3.4. Bình Nguyên Lộc với Những bước lang thang trên hè phố của gã Bình Nguyên Lộc 2.3.5. Nguyễn Trung Thành với Đường chúng ta đi 2.3.6. Nguyễn Thi với Dòng kinh quê hương CHƯƠNG 3 ĐẶC ĐIỂM CỦA TÙY BÚT VIỆT NAM TỪ 1930 ĐẾN 1975 3.1. Văn hóa dân tộc và hiện thực chiến tranh - hai mảng đề tài chính 3.1.1. Tùy bút là một thể loại văn xuôi giàu chất trữ tình, lấy cảm hứng làm nội dung chính cho tác phẩm. Nó tiếp cận hiện thực đời sống trong khuynh hướng lý tưởng hóa, luôn đề cao những chuẩn mực của cái Đẹp và cái Cao cả. Vì thế, các tác gia tùy bút thường quan tâm đến văn hóa dân tộc với những giá trị vừa ổn định vừa biến thiên theo từng bước thăng trầm của lịch sử. Văn hóa dân tộc là di sản vô cùng quý báu, nhưng nó có thể bị xuống cấp hoặc mai một đi, nhất là trong bối cảnh xã hội có tính chất giao thời. Làm sao đảm bảo được tương quan hợp lý giữa truyền thống với hiện đại, giữa kế thừa với cách tân trong quá trình giữ gìn và phát huy vốn văn hóa dân tộc, tránh những biểu hiện lai căng, xu thời, 16 mất gốc - đó chính là nỗi băn khoăn, trăn trở thường trực trong các tác phẩm tùy bút giai đoạn 1930 - 1975. 3.1.2. Hiện thực 30 năm chiến tranh vệ quốc bi hùng cũng là một mảng đề tài lớn của tùy bút Việt Nam từ 1930 đến 1975. Không chú tâm vẽ những bức hồnh tráng về các chiến dịch, về những trận đánh hoặc khắc họa chân dung những người anh hùng hiên ngang trên chiến trận, tùy bút về mảng đề tài này ghi lại một cách chân thực và sinh động hiện thực tâm hồn của con người Việt Nam trong giai đoạn lịch sử đau thương mà vô cùng anh dũng. Trong bản hợp xướng bi hùng của văn chương thời chiến tranh, tùy bút là dấu lặng, nốt trầm, không sôi nổi vút lên mà điềm tĩnh lắng sâu để gợi nhiều hơn tả, nghĩ nhiều hơn kể và cảm nhiều hơn nhận biết. Do vậy, nó góp phần quan trọng để làm cân bằng và đa dạng hơn phương thức phản ánh cuộc sống của cả nền văn học. 3.2. Sự đa dạng của cảm hứng Cảm hứng đóng vai trò quyết định trong tùy bút - một thể loại văn xuôi đậm đà chất trữ tình và giàu chất thơ. Những thiên tùy bút đặc sắc bao giờ cũng được viết ra bằng cảm hứng mãnh liệt và chân thành. Không có cảm hứng hoặc cảm hứng giả, gượng, thì không thể có tùy bút hay. Tùy bút Việt Nam từ 1930 đến 1975 thấm nhuần nhiều dạng thức cảm hứng khác nhau, trong đó nổi bật lên các dạng chính sau đây: cảm hứng dân tộc - lịch sử, cảm hứng lãng mạn, cảm hứng anh hùng và cảm hứng trữ tình. 3.2.1. Cảm hứng dân tộc – lịch sử Cảm hứng dân tộc - lịch sử là dạng cảm hứng nổi trội, làm nên giá trị nội dung đặc sắc của tùy bút Việt Nam giai đoạn 1930 - 1975. Mối quan hồi thường trực về những vấn đề dân tộc, trong các tương quan lịch đại, đồng đại vốn có của nó vừa là thước đo lương tâm, trách nhiệm của người nghệ sĩ vừa là một chỉ số giá trị tư tưởng đầy ý nghĩa của tác phẩm tùy bút. Cảm hứng dân tộc - lịch sử có ảnh hưởng quyết định đến hầu hết những bình diện giá trị của tác phẩm tùy bút, nhưng rõ nét hơn cả là đối với nghệ thuật khắc họa hình tượng không gian và thời gian. Kiểu không gian nghệ thuật đặc trưng của tùy bút thời kỳ chiến tranh là không gian sử thi hồnh tráng, dữ dội, có sức mời gọi, giục giã mọi người dấn thân để phụng sự cho lý tưởng giải phóng dân tộc. Một kiểu không gian nghệ thuật khác cũng thường gặp trong các tác phẩm tùy bút là không gian hồi niệm đậm đà màu sắc văn hóa. Trong tùy bút Việt Nam từ 1930 đến 17 1975, thời gian được cảm nhận trong tương quan với những chặng đường và những biến cố của lịch sử. 3.2.2. Cảm hứng lãng mạn Cảm hứng lãng mạn hiện diện thường trực trong hầu hết các tác phẩm tùy bút từ 1930 đến 1975, góp phần làm nên một nét tư tưởng nghệ thuật đặc thù. Nó nâng đỡ và thanh lọc tâm hồn, tiếp thêm nghị lực và củng cố niềm tin, giúp con người Việt Nam vượt qua những thử thách khắc nghiệt của lịch sử. Trước hết, cảm hứng lãng mạn được biểu hiện qua cách nghĩ có hậu về cuộc đời (tùy bút không có cốt truyện nên không có kiểu kết thúc có hậu). Kiểu bút pháp thích hợp để cụ thể hóa cảm hứng lãng mạn qua những hình tượng nghệ thuật sinh động là bút pháp thi vị hóa, biểu hiện ở khuynh hướng cường điệu, phóng đại nhằm tạo nên ấn tượng sâu đậm về những điều lớn lao, cao cả hoặc những trạng thái cảm xúc mãnh liệt, những khát vọng cháy bỏng. Cảm hứng lãng mạn còn được tô đậm bằng việc sử dụng thủ pháp nghệ thuật tương phản, đối lập để làm nổi bật lên những vẻ đẹp phi thường. 3.2.3. Cảm hứng anh hùng Đây cũng là một trong những dạng thức cảm hứng lớn của tùy bút Việt Nam từ 1930 đến 1975. Biểu hiện của cảm hứng anh hùng là khẳng định và ngợi ca, còn đối tượng của nó là những chiến công lớn lao và những con người đã góp phần làm nên chiến công ấy. Cảm hứng anh hùng chủ yếu hiện diện trong các tác phẩm tùy bút thời kỳ 1945 - 1975, được biểu hiện cụ thể qua việc tập trung khẳng định ý nghĩa nhân văn cao cả của hai cuộc chiến tranh vệ quốc và ngợi ca vẻ đẹp diệu kỳ của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Trong giai đoạn đất nước bị ngoại xâm, cảm hứng anh hùng thường mang màu sắc sử thi (Khái niệm sử thi ở đây được hiểu theo nghĩa khuynh hướng sử thi, tầm khái quát sử thi chứ không phải quy mô sử thi). Cảm hứng anh hùng góp phần quan trọng làm nên âm hưởng sử thi ở các tác phẩm tùy bút, truyền đến cho người đọc niềm tự hào mãnh liệt về truyền thống vẻ vang của dân tộc, về tư thế hào hùng của con người Việt Nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 3.2.4. Cảm hứng trữ tình Cảm hứng trữ tình nhuần thấm trong những cung bậc xúc cảm của người nghệ sĩ về cái đẹp - cái đẹp của tự nhiên, nghệ thuật và trong cuộc sống con người. Qua các tác phẩm tùy bút, những xúc cảm thẩm mỹ được bộc lộ một cách trực tiếp, làm nên cái mạch trữ tình dạt dào, đằm thắm về 18 Tổ quốc, dân tộc và thời đại. Trữ tình trong tùy bút không dừng lại ở cảm nhận bề ngồi hoặc những cảm xúc nhất thời, bao giờ nhà văn cũng có khuynh hướng vươn tới những nhận thức sâu sắc và những tình cảm đẹp, mang ý nghĩa nhân đạo, nhân văn cao cả. Thương cảm là một biến thể, một dạng thức tồn tại của cảm hứng trữ tình, nó “mang khuynh hướng tư tưởng khẳng định”. Thương cảm hồn tồn khác với những biểu hiện ủy mị, sướt mướt theo kiểu cải lương nên không làm con người trở nên nhu nhược, yếu hèn đi mà trái lại, nó giúp cho đời sống tinh thần được cân bằng, phong phú và nhân hậu hơn * Ngồi các dạng thức cảm hứng tiêu biểu nêu trên, chúng ta còn có thể nhận ra trong tùy bút Việt Nam từ 1930 đến 1975 những dạng khác như cảm hứng châm biếm, cảm hứng phê phán, cảm hứng bi,... Cần lưu ý thêm rằng, không phải chỉ có duy nhất một dạng cảm hứng tồn tại trong mỗi tác phẩm mà luôn có sự đan xen, hòa hợp giữa các dạng cảm hứng với nhau. 3.3. Dung hợp cả hai loại nhân vật: nhân vật trữ tình và nhân vật tự sự - trữ tình Tính chất trung gian, lưỡng hợp giữa tự sự với trữ tình đã tạo nên nét đặc thù về phương diện nhân vật ở thể loại tùy bút. Trong tùy bút Việt Nam 1930 – 1975, ngồi nhân vật trữ tình, còn xuất hiện thêm một loại nhân vật đặc biệt nữa: nhân vật tự sự - trữ tình. Đó là loại nhân vật trung gian, tuy được khắc họa bằng bút pháp tự sự nhưng lại nhằm phục vụ cho mục đích trữ tình. 3.3.1. Có thể bắt gặp phổ biến nhất là loại nhân vật trữ tình, bởi cái mạch cảm xúc chính trong tùy bút luôn là trữ tình, là tự thuật tâm trạng. Tồn bộ thế giới tinh thần và đời sống tình cảm của người nghệ sĩ đều được giãi bày thông qua nhân vật trữ tình. Nhân vật trữ tình là một thực thể vừa mang dấu ấn sáng tạo của cá nhân vừa chịu sự tác động của hồn cảnh lịch sử - xã hội cụ thể. Mặc dù đôi khi có đề cập đến chuyện thế sự nhưng thay vì mở rộng tầm nhìn ra cõi nhân sinh rộng lớn, người viết tùy bút có khuynh hướng lắng sâu vào cõi lòng để tự phát hiện, phân tích, đánh giá. 3.3.2. Loại nhân vật tự sự - trữ tình tuy xuất hiện không phổ biến nhưng cũng góp phần làm nên diện mạo riêng của tùy bút. Trong khi ưu tiên bộc lộ mạch cảm xúc và quan điểm của cái tôi chủ quan, người viết tùy bút thường có khuynh hướng lướt qua những cảnh đời, những số phận khác. Đôi khi đối tượng trữ tình lại chính là những con người hoặc những sự 19 vật, hiện tượng cụ thể trong hiện thực. Để tán thành hay phản đối, ngợi ca hay phê phán, trước tiên nhà văn phải làm công việc giới thiệu, miêu tả tỉ mỉ. Chân dung trữ tình trong trường hợp đó cũng thật sống động, với đầy đủ những nét ngoại hình, tính cách, diễn biến tâm lý, ngôn ngữ, hành vi,… như trong các tác phẩm tự sự. Nhưng ở đây, nhân vật không tồn tại như một thực thể khách quan mà đóng vai trò là cái phần tập trung nhất, điển hình nhất của hiện thực được tái hiện lại để nhà văn gửi gắm quan điểm tư tưởng và tâm tư, tình cảm chủ quan của mình. 3.4. Một phức hợp giọng điệu Có thể khảo sát tính chất phức hợp của giọng điệu tùy bút Việt Nam từ 1930 đến 1975 qua hai phương diện: sự phong phú, đa dạng của nhiều kiểu, nhiều cung bậc giọng điệu tùy bút trong nền văn học và sự đan xen, hòa âm của những sắc điệu khác nhau trong cùng một tác phẩm tùy bút. 3.4.1. Sự phong phú về giọng điệu Tùy bút thường mang giọng kể chậm, trầm buồn, như những trường đoạn trầm tư trữ tình có nhiều dấu lặng. Nhịp thời gian, do vậy, cũng khoan thai, dìu dặt thích hợp cho sự giãi bày, tâm tình chứ không dồn dập, gấp rút cuốn theo cốt truyện. Đó là nhịp điệu tự nhiên, như dạo chơi, ngân ra từ sâu thẳm tâm hồn con người. Tuy đội ngũ sáng tác tùy bút giai đoạn 1930 - 1975 không thật đông đảo, nhưng trong âm hưởng chung của cả nền văn học vẫn có thể thấy nổi trội lên những giọng điệu tùy bút riêng, độc đáo. Đó là giọng tài hoa, uyên bác, nhuốm chút ngông nghênh, kiêu bạc của Nguyễn Tuân; giọng điềm đạm, thâm trầm, lịch lãm của Thạch Lam; giọng lãng mạn, tình tứ của Xuân Diệu; giọng trầm tư, suy nghiệm của Chế Lan Viên; giọng da diết, khắc khoải của Vũ Bằng; giọng đôn hậu, hóm hỉnh của Bình Nguyên Lộc, giọng trữ tình-chính luận chắc khỏe, vừa dạt dào cảm xúc vừa trĩu nặng ưu tư của Nguyễn Trung Thành; giọng tâm tình nhỏ nhẹ, hiền lành mà rất đỗi cương quyết, dứt khốt của Nguyễn Thi; giọng sử thi mạnh mẽ, quyết liệt của Khánh Vân; giọng bình dị, ngọt ngào, sâu nghĩa nặng tình của Đặng Văn Nhưng, v.v… 3.4.2. Tính phức hợp trong giọng điệu Tính phức hợp trong giọng điệu đã góp phần làm nên những trang tùy bút đặc sắc, có sức sống lâu bền. Trong tùy bút giai đoạn 1930 – 1975, luôn có sự đan xen, hòa hợp của nhiều sắc thái giọng điệu khác 20 nhau như giọng anh hùng ca, giọng trầm tư - suy tưởng, giọng kể chuyện, giọng tâm tình, giọng châm biếm, v.v… Tính chất phức điệu ấy không chỉ có ở phong cách riêng của mỗi nhà văn mà còn được thể hiện qua từng tác phẩm, từng mảng sáng tác cụ thể. 3.5. Kết cấu tự do theo mạch cảm xúc Kết cấu là một trong những phương diện thể hiện rõ tính chất tự do, linh hoạt của thể loại tùy bút. Không có khuôn mẫu hay chuẩn mực nào cả, mỗi tác phẩm tùy bút mang một kiểu kết cấu riêng, phù hợp với mạch cảm xúc chủ đạo và yêu cầu bộc lộ tư tưởng của người nghệ sĩ. 3.5.1. Kết cấu tự do Tùy bút thường bắt đầu bằng việc nhắc lại một kỷ niệm, kể lại một câu chuyện, tường thuật lại một sự việc hoặc nhớ lại một trạng huống cảm xúc từng trải nghiệm; từ đó gợi lên những liên tưởng, tưởng tượng, rồi bàn rộng thêm ra về cái Đẹp, về nhân tình, về những giá trị văn hóa, về dân tộc và thời đại. Cũng có khi mạch cảm xúc được khơi nguồn từ những sự việc hiện tượng đang diễn ra, rồi quay ngược về quá khứ hoặc liên tưởng tạt ngang một cách đầy ngẫu hứng và bất ngờ để khám phá mọi chiều kích, mọi tầng bậc của vấn đề. Kiểu mở đầu bằng một tình huống có vấn đề cũng được các nhà văn sử dụng khá phổ biến. 3.5.2. Mạch tự sự - trữ tình linh hoạt Mạch trữ tình trong tùy bút được triển khai theo kiểu quy nạp: bắt đầu bằng những cảm xúc, ấn tượng, liên tưởng, tưởng tượng cụ thể và chấm dứt bằng những nhận xét, đề xuất, cảm nhận đậm màu sắc chủ quan. Phần kết thúc của các sáng tác tùy bút tuy giàu sức khái quát nhưng hình như nhà văn không nhằm mục đích khẳng định một tư tưởng hay đặt ra một vấn đề to tát nào. Đó là cái dư ba còn lắng lại, đọng lại tất yếu, tự nhiên sau những cao trào cảm xúc và suy tưởng nên không hề gượng gạo hoặc có tính chất áp đặt mà luôn mang đến cảm giác nhẹ nhõm, nhân hậu, tin yêu vào con người và cuộc sống, vào sự bất tử của cái đẹp, cái cao cả. 3.6. Vẻ đẹp. tính sáng tạo và đầy chất thơ của ngôn từ Vẻ đẹp ngôn từ trong tùy bút được kết tinh từ tài năng, tâm huyết và sức sáng tạo không ngừng của người nghệ sĩ. Nó vừa là yêu cầu cốt tử của đặc trưng thể loại vừa là yếu tố quan trọng góp phần hình thành nên 21 những phong cách tùy bút độc đáo. Sức hấp dẫn của các tác phẩm tùy bút không chỉ tốt ra từ cái mạch tự sự - trữ tình dào dạt, đắm say mà còn được thể hiện qua một cách viết đẹp, mang đậm màu sắc văn hóa. 3.6.1. Vẻ đẹp của từ ngữ Vẻ đẹp của từ ngữ được sử dụng trong tùy bút biểu hiện trước hết ở sự phong phú, linh hoạt và giàu sức gợi hình, gợi cảm. Do sự chi phối của đặc điểm loại hình (loại tự sự - trữ tình) nên trong các tác phẩm tùy bút thường có hai lớp từ chủ yếu: lớp từ để miêu tả, thuật sự và lớp từ để trực tiếp bộc lộ tư tưởng, cảm xúc. Mức độ hòa hợp và tỉ lệ giữa hai lớp từ này cũng là yếu tố góp phần làm nên nét độc đáo ở mỗi tác giả, tác phẩm. Sự kết hợp giữa hai lớp từ mang sắc thái biểu đạt khác nhau trong tùy bút thường không ổn định mà chỉ có ý nghĩa tương đối, định tính, tùy thuộc vào nhiều yếu tố, cả khách quan lẫn chủ quan, như phong cách, bút pháp, đề tài, chủ đề, hồn cảnh sáng tác (Trong tùy bút Nguyễn Tuân, lớp từ thứ nhất được sử dụng ở tần số cao hơn nên mang nhiều yếu tố truyện và đậm tính chất ký. Ở tùy bút Thạch Lam, lớp từ có liên quan đến những trạng thái suy tư, những cung bậc tình cảm chiếm ưu thế; theo đó, chất trữ tình đậm đà hơn). 3.6.2. Cách sử dụng từ ngữ đầy sáng tạo Một đặc điểm nổi bật của tùy bút Việt Nam giai đoạn 1930 - 1975 là ngôn ngữ mang đậm dấu ấn sáng tạo của mỗi nhà văn. Đây vừa là phẩm chất nghệ thuật vừa là yêu cầu cốt tử đối với thể loại tùy bút, bởi tùy bút là vương quốc của cái tôi, ở đó đòi hỏi nhà văn phải bộc lộ năng lực sáng tạo của riêng mình. Từ ngữ không chỉ là phương tiện, công cụ mà đã tồn tại như một đối tượng thẩm mỹ, mang vẻ đẹp “linh diệu. Suy đến cùng, sự sáng tạo ngôn ngữ trong tùy bút là kết quả tất yếu từ tài năng và công phu trau dồi, rèn luyện đến mức “khổ hạnh” của người nghệ sĩ. Sự sáng tạo ở bình diện ngôn ngữ trong các tác phẩm tùy bút được bộc lộ cụ thể qua việc tạo ra từ ngữ mới và khám phá thêm nét nghĩa mới cho những từ ngữ đã sử dụng quen thuộc. Có những từ tưởng như đơn nghĩa hoặc cũ mòn nhưng qua bút pháp tinh xảo, điệu nghệ của nhà văn, chợt trở nên tươi mới, “đầy sinh sắc”. 3.6.3. Ngôn ngữ giàu chất thơ Trong tùy bút, chất thơ tồn tại như một đặc điểm có tính loại hình, xuyên thấm vào mọi bình diện của tác phẩm, đặc biệt là ở cách thức sử dụng ngôn ngữ. Điều đặc biệt là hình ảnh trong tùy bút thường mang 22 cùng một lúc hai lớp nghĩa: nghĩa biểu vật (biểu niệm) và nghĩa biểu cảm, nên nó có khả năng thuyết phục, hấp dẫn cả trí tuệ lẫn tâm hồn độc giả. Nhịp điệu cũng là một dấu hiệu hình thức quan trọng của chất thơ trong tùy bút. Nhịp điệu được tạo ra chủ yếu từ cách ngắt nhịp, gieo vần và phối âm, phối thanh. Nhưng nhịp điệu không đơn thuần chỉ mang ý nghĩa như kỹ thuật, kỹ xảo, nó còn bắt nguồn sâu xa từ vẻ đẹp tâm hồn và đời sống tình cảm chân thành, thiết tha của người nghệ sĩ đối với cuộc sống. KẾT LUẬN 1. Tùy bút là một thể loại văn xuôi góp phần quan trọng làm nên sự phong phú, đa dạng của văn học Việt Nam hiện đại. Với những nét độc đáo về loại hình và đặc trưng nghệ thuật, tùy bút tồn tại như một đối tượng thẩm mỹ vừa lung linh kỳ ảo vừa gần gũi, gợi cảm, luôn có sức hấp dẫn và mời gọi sự khám phá, đồng sáng tạo. Là một thể loại văn xuôi phái sinh từ ký, tùy bút đã dần dần tách hẳn ra thành một thể loại độc lập, mang những đặc điểm riêng biệt. Trong tùy bút, cái tôi cá nhân độc đáo của người nghệ sĩ vừa là yêu cầu tiên quyết vừa là phẩm chất nghệ thuật mang tính đặc thù. Yếu tố trữ tình chiếm ưu thế, tạo thành mạch chủ đạo, ưu trội. Sự kết hợp giữa tự sự với trữ tình hồn tồn không đơn thuần là vấn đề kỹ thuật và không tuân theo một nguyên tắc có tính định lượng nào. Nó là một thuộc tính có nguồn gốc từ trong cảm hứng và tư tưởng nghệ thuật, như quy luật tự nhiên của sự sáng tạo. Do vậy, về phương diện loại hình, xếp tùy bút vào loại tự sự - trữ tình là thỏa đáng hơn cả. Tính chất trung gian, lai ghép có ảnh hưởng quyết định đến hầu hết những bình diện nội dung và nghệ thuật của tùy bút, tạo nên nét riêng mang tính khu biệt, giúp phân định ranh giới giữa nó với các thể loại văn xuôi nghệ thuật khác. Căn cứ vào đặc trưng loại hình của thể loại, có thể khảo sát tùy bút theo ba nhóm lớn: nhóm tùy bút tự sự, nhóm tùy bút trữ tình và nhóm tùy bút tự sự - trữ tình. Ở cấp độ tiếp theo, dựa vào những tiêu chí cụ thể (tiêu chí đề tài, tiêu chí cảm hứng, tiêu chí dung lượng…), có thể chia mỗi nhóm thành các dạng tùy bút khác nhau. 2. So với các thể loại khác, tùy bút xuất hiện muộn hơn. Trong suốt mười thế kỷ văn chương trung đại Việt Nam, mặc dù đã thấy ngày càng rõ nét những tiền đề từ thực tiễn sáng tác (yếu tố trữ tình; cái tôi tài hoa tài tử, giàu xúc cảm; bút pháp linh hoạt, phóng túng…) nhưng tùy bút vẫn 23 chưa xuất hiện và tồn tại với đầy đủ những đặc điểm như quan niệm ngày nay. Mãi đến đầu thế kỷ XX, thể loại tùy bút mới dần được hình thành trong quá trình tương tác thể loại, góp phần đề cao cái tôi cá nhân với đời sống tình cảm muôn màu muôn vẻ, vượt thốt khỏi những ràng buộc của thi pháp trung đại. Như vậy, có thể khẳng định tùy bút là một trong những thành tựu đáng kể về phương diện thể loại của quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam. Đặc biệt, trong khoảng thời gian từ 1930 đến 1975, tùy bút đã có bước phát triển rực rỡ, lên đến đỉnh cao, có thể sánh ngang hàng với các thể loại văn chương khác. 3. Đề tài của các sáng tác tùy bút thời kỳ này thật phong phú, đa dạng, bao gồm cả những vấn đề lớn lao, có tầm vóc sử thi và những vấn đề riêng tư, cá nhân. Tùy bút vừa có thể tái hiện lại một cách chân thực, sinh động hồn cảnh lịch sử - xã hội vừa giãi bày thấu đáo những suy nghiệm sâu sắc và diễn tả tài tình những rung động chân thành trong tâm hồn con người. Nhân vật trữ tình hiện diện thường trực, giữ vai trò chính trong việc bày tỏ tư tưởng nghệ thuật và cảm xúc chủ đạo. Đôi khi, chân dung nhân vật trữ tình lại được khắc họa bằng bút pháp tự sự (có ngoại hình, tính cách, ngôn ngữ). Kiểu nhân vật tự sự - trữ tình đã góp phần làm nên nét độc đáo cho tùy bút - một thể loại không thuần chủng. Các dạng thức cảm hứng nổi bật hơn cả trong tùy bút giai đoạn 1930 - 1975 là cảm hứng dân tộc - lịch sử, cảm hứng lãng mạn, cảm hứng anh hùng và cảm hứng trữ tình. Tùy bút không dung hợp được sự bốc đồng, cực đoan hoặc cao hứng thái quá, nên nó thường có giọng trầm lắng, trĩu nặng ưu tư, bồi hồi cảm xúc. Âm hưởng của tùy bút, vì thế, ít vang xa mà vọng sâu, có khả năng khơi gợi những tình cảm đẹp đẽ và đánh thức những rung động tinh tế trong tâm hồn con người. Lời văn tùy bút giàu vẻ đẹp, giàu chất thơ và in rõ dấu ấn cá tính sáng tạo của mỗi nghệ sĩ. 4. Tùy bút là thể loại rất kén tác giả. Sáng tác tùy bút là chấp nhận đương đầu với thử thách, với sự chọn lọc nghiệt ngã của nghề nghiệp, nên rất hiếm người gắn bó dài lâu với nó. Sẽ không có tùy bút hay nếu nhà văn chưa đạt đến độ căng tràn về vốn sống, thăng hoa về trí tuệ và chân thành, tha thiết đến hồn nhiên trong cảm xúc. Tùy bút như một thứ đặc sản quý hiếm trong nền văn học, là lõi trầm kết tụ tự nhiên, không sản xuất đại trà được. Đội ngũ sáng tác tùy bút tuy không đông về số lượng nhưng gồm những nhà văn có tay nghề vững vàng, có năng lực sáng tạo ngôn ngữ, có cá tính, tư tưởng và phong cách nghệ thuật độc đáo. Trong số đó, với sự nghiệp sáng tác đồ sộ, Nguyễn Tuân hồn tồn xứng đáng ở ngôi vị hàng đầu. Ông là người khai sinh và góp công sức lớn nhất vào quá trình 24 phát triển của thể loại tùy bút trong văn học hiện đại: “Qua hơn 50 năm viết không nghỉ, Nguyễn Tuân là một trong mấy nhà văn lớn mở đường và đắp nền cho văn xuôi Việt Nam thế kỷ XX” (Nguyễn Đình Thi). Với ông, tùy bút đã đạt đến một đỉnh cao rất khó vượt qua, cả về giá trị nội dung tư tưởng lẫn khả năng sáng tạo về hình thức nghệ thuật. Tiếp theo, chúng ta có thể kể ra nhiều tên tuổi lớn với những tác phẩm tiêu biểu, mỗi người một vẻ riêng, đã góp phần làm rạng rỡ diện mạo và phong phú thêm hương sắc cho tùy bút giai đoạn 1930 - 1975: Thạch Lam với Hà Nội băm sáu phố phường, Lư Khê với Phút thốt trần, Xuân Diệu với Phấn thông vàng, Trường ca, Chế Lan Viên với Vàng sao, Hàn Mặc Tử với Chơi giữa mùa trăng, Vũ Bằng với Thương nhớ mười hai, Bình Nguyên Lộc với Những bước lang thang trên hè phố của gã Bình Nguyên Lộc, Nguyễn Trung Thành với Đường chúng ta đi, Nguyễn Thi với Dòng kinh quê hương,… Từ sau 1975, tùy bút tiếp tục có thêm những thành tựu mới. Hiện thực cuộc sống bề bộn, phức tạp thời bao cấp, thời đổi mới và thời cơ chế thị trường đã có tác động mạnh mẽ, gây nên sự xáo trộn, thay đổi trong nhận thức và tình cảm của con người Việt Nam. Niềm vui nhiều thêm, hạnh phúc nhiều hơn, nhưng nỗi buồn thương còn đó với bao lo toan đeo đẳng từng ngày. Giữa bối cảnh lịch sử - xã hội đầy biến động ấy, tùy bút và các biến thể của nó (tạp văn, tạp bút, đoản khúc...) là phương tiện nghệ thuật hết sức cần thiết để góp phần sẻ chia, cảm thông, an ủi và nâng đỡ, cân bằng, thanh lọc tâm hồn con người. Quá trình hình thành và phát triển của thể loại tùy bút trong văn học thế kỷ XX là một hiện tượng mang tính quy luật, thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa dân tộc với hiện đại, giữa truyền thống với cách tân, giữa phương Đông với phương Tây trong ý thức sáng tạo của con người Việt Nam. Tâm hồn Việt Nam, văn hóa Việt Nam vốn giàu chất nữ tính nên các thể loại trữ tình (hoặc có màu sắc trữ tình) thường chiếm ưu thế hơn khi cần giãi bày những suy tư và cảm xúc muôn màu muôn vẻ. Đó chính là một nguyên nhân, là cơ sở đảm bảo cho viễn tượng sáng sủa của thể loại tùy bút trong tương lai./.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLuận văn- NHỮNG ĐỔI MỚI TRONG TIỂU THUYẾT TỪ 1986 –TRẦN VĂN MINH 2000.pdf