Còn nhiều khoảng cách chênh lệch giữa các
nhóm hộ khá, giầu và nghèo. Mức chênh lệch
khoảng 20%. Có sự bất công trong công tác
quản lý và kiểm soát các nguồn lực như đất
đai, nguồn thông tin ký thuật, y tế, dịch vụ
vốn Thông thường nữ giới ít cơ hội được
tiếp cận với các nguồn lực này so với nam vì
có nhiều nguyên nhân như phong tục tập quán,
quan niệm trọng nam khinh nữ vẫn còn tồn tại
trong các tổ chức ở địa phương và ngay cả
trong gia đình. Còn rất nhiều yếu tố ảnh hưởng
đến vai trò của phụ nữ dân tộc thiểu số trong
phát triển kinh tế hộ như: thiếu chính sách cho
phát triển phụ nữ, tồn tại những quan niệm lạc
hậu, trình độ học vấn của phụ nữ thấp, áp lực
từ quan niệm xã hội, thiếu sự chia sẻ của công
đồng,điều kiện kinh tế - xã hội không thuận
lợi, phụ nữ ít tham gia vào các hoạt động của
xã hội, số con trên một phụ nữ cao, số giờ nội
trợ của phụ nữ nhiều
7 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 11/03/2022 | Lượt xem: 342 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Lao động nữ dân tộc thiểu số huyện Võ Nhai - Tỉnh Thái Nguyên với phát triển kinh tế hộ gia đình, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ngô Xuân Hoàng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 94(06): 153 - 159
153
LAO ĐỘNG NỮ DÂN TỘC THIỂU SỐ HUYỆN VÕ NHAI
- TỈNH THÁI NGUYÊN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ GIA ĐÌNH
Ngô Xuân Hoàng*, Nguyễn Thị Vân Chi
Trường Cao đẳng Kinh tế -Kỹ thuật – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Võ Nhai là huyện vùng cao nằm ở phía Đông- Bắc tỉnh Thái Nguyên, lao động nữ dân tộc thiểu số
ở khu vực nông thôn chiếm một tỷ lệ trên 65,27% trong tổng số lao động nữ ở huyện. Trong số
này tập trung chủ yếu là dân tộc Tày và Nùng trên 70%. Lực lượng lao động nữ dân tộc thiểu số có
độ tuổi trẻ, tập trung chủ yếu ở độ tuổi 15 đến 44. Trình độ văn hoá và chuyên môn của lao động
nữ dân tộc thiểu số còn thấp trên 68% tốt nghiệp Tiểu học và Trung học cơ sở, trên 90% chưa qua
đào tạo nghề, khá chênh lệch so với lao động dân tộc Kinh. Lao động nữ dân tộc thiểu số tham gia
chủ yếu vào các hoạt động sản xuất nông lâm nghiệp (trên 87,7%), tỷ lệ lao động nữ tham gia vào
các cấp chính quyền đoàn thể trong những năm qua có tăng nhưng so với nam còn thấp hơn nhiều
(bình quân dưới 14,3% các chức danh). Tuy nhiên lao động nữ có vai trò rất quan trọng trong việc
tạo ra thu nhập và phát triển kinh tế gia đình.
Từ khóa: Lao động nữ dân tộc thiểu số, phát triển, kinh tế hộ
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Võ Nhai là huyện vùng cao nằm ở phía Đông
- Bắc tỉnh Thái Nguyên, cách Thành phố Thái
Nguyên 37 km dọc theo tuyến quốc lộ 1B và
cách thị trấn Đồng Đăng tỉnh Lạng Sơn 80km.
Toàn huyện có 14 xã và 1 thị trấn được chia
làm 3 tiểu vùng có đặc điểm địa hình tương
đối khác biệt: Tiểu vùng 1: Gồm 6 xã vùng
cao thích hợp cho sản xuất nông - lâm nghiệp
kết hợp trồng cây đặc sản. Tiểu vùng 2 gồm 3
xã và 1 thị trấn dọc đường quốc lộ 1B thích
hợp cho sản xuất cây hàng năm, cây lâu năm,
phát triển ngành công nghiệp sản xuất vật liệu
xây dựng. Tiểu vùng 3 gồm 5 xã phía Nam
phát triển cây công nghiệp ngắn ngày và các
loại cây ăn quả. Năm 2011, toàn huyện có
63.143 nhân khẩu phân bố có các dân tộc anh
em, dân tộc Kinh 36,57%; Tày 22,12%, dân tộc
Nùng 19,58%, dân tộc Dao 13,2%, dân tộc H'
Mông 4,1%, dân tộc Sán Chay chiếm 4,13%,
dân tộc khác chiếm 0,3%. Trong tổng số
18.163 lao động nữ thì lao động nữ là người
dân tộc thiểu số chiếm 65,27%, trong đó dân
tộc Tày, Nùng, Dao chiếm đại đa số trên 70%.
Trong bài viết này chúng tôi muốn đề cập đến
vai trò của phụ nữ dân tộc thiểu số, những
khó khăn đang cản trở sự tiến bộ của họ trong
phát triển kinh tế gia đình. Trên cơ sở đó tìm
*
ra những giải pháp nhằm tạo điều kiện cho
phụ nữ dân tộc thiểu số nói riêng, phụ nữ ở
huyện Võ Nhai nói chung phát huy thế mạnh,
khai thác nguồn lực để phát triển kinh tế hộ
tăng thu nhập, cải thiện đời sống gia đình và
xã hội.
PHƯƠNG PHÁP VÀ HỆ THỐNG CHỈ TIÊU
NGHIÊN CỨU
Để tiến hành nghiên cứu chúng tôi đã thu thập
số liệu trên địa bàn huyện và hộ nông dân để
điều tra. Các chỉ tiêu: Tỷ lệ lao động nữ tham
gia lực lượng lao động phân theo nhóm tuổi;
Trình độ chuyên môn, kỹ thuật của lao động
nữ khu vực thành thị và nông thôn; Tỷ lệ
người có việc làm; Tỷ lệ thất nghiệp; Sự tham
gia của lao động nữ trong các ngành kinh tế;
Phân chia công việc hàng ngày trong gia đình:
Sử dụng quỹ thời gian của người phụ nữ
Các phương pháp chuyên gia, chuyên khảo,
điều tra nhanh nông thôn, phân tích định
lượng, thống kê kinh tế đã được sử dụng để
thu thập, phân tích thông tin, số liệu để đảm
bảo tính chính xác của kết quả nghiên cứu.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
Đặc điểm của lao động nữ dân tộc thiểu số
1. Dân tộc thiểu số của huyện gồm: chủ yếu
là người Tày, Nùng, Dao là những người bản
xứ sống ở đây từ rất lâu đời. Họ sống chủ yếu
ở những vùng thấp, gần đường giao thông, có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Ngô Xuân Hoàng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 94(06): 153 - 159
154
đất ruộng, đất vườn nhiều, đời sống kinh tế
khá giả hơn nhóm dân tộc thiểu số khác.
Người H’Mông, Sán Chí, Sán Dìu, Mường,
Thái chiếm tỷ lệ rất nhỏ (8,5%). Họ di cư từ
các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Kạn... đến
Võ Nhai, tập sinh sống tập trung chủ yếu ở
trên những vùng núi cao, đi lại rất khó khăn,
xa trung tâm, xa chợ, đất ruộng rất ít, chủ yếu
canh tác trên đất đồi núi và trồng các loại cây
lương thực như: ngô, sắn, đời sống của họ gặp
nhiều khó khăn.
2. Lao động nữ dân tộc thiểu số theo các
nhóm tuổi: Lực lượng lao động nữ dân tộc
thiểu số phần lớn tập trung trong nhóm tuổi từ
15-34 (chiếm gần 60%). Đây là nhóm tuổi lao
động chính trong hộ gia đình nhưng cũng đây
là nhóm tuổi ở độ sinh sản, điều này cũng ảnh
hưởng tới công việc và thu nhập của hộ gia
đình. Số liệu cho thấy điều bất cập là lao động
chính trong nhóm tuổi 15-24 chiếm tỷ trọng
cao nhất (30,14%) và giảm dần đến nhóm tuổi
trên 55. Đây là lượng lao động trẻ còn thiếu
kinh nghiệm làm ăn, nếu không được quan
tâm, giúp đỡ để họ nâng cao trình độ
chuyên môn, kiến thức và vốn thì họ sẽ gặp
nhiều khó khăn khi trở thành lao động chính
của gia đình.
3. Cơ cấu lao động nữ dân tộc thiểu số theo
thành phần dân tộc: Trong tổng số lao động
nữ (18.163 người) thì lao động nữ là người
dân tộc thiểu số chiếm 65,27%, trong đó dân
tộc Tày, Nùng, Dao chiếm đại đa số trên 70%.
Xem xét cơ cấu lao động nữ dân tộc thiểu số
theo dân tộc, ta nhận thấy, tỷ lệ lao động
trong nhóm tuổi từ 15-24 cao, tiếp đến là lao
động trong nhóm tuổi từ 25-34. Tuy nhiên
nếu xét lượng lao động trên 55 tuổi thì nhóm
dân tộc như: Nùng, Sán Chay chiếm tỷ lệ cao
hơn trong cùng nhóm tuổi, đây là lực lượng
lao động phụ làm các công việc như: chăn
nuôi, làm việc nhà, chăm sóc gia đình...; tuy
nhiên lực lượng lao động này tương đối quan
trọng trong mỗi gia đình ở khu vực nông
thôn. Nhưng nếu so với nhóm dân tộc đa số
như Kinh thì tỷ lệ lao động trên 55 tuổi thấp
hơn, đây là sự khác biệt giữa lao động dân tộc
thiểu số với nhóm đa số. Sự khác biệt về cơ
cấu lao động của các dân tộc thiểu số còn
được thể hiện trong các nhóm tuổi. Trong
nhóm lao động trẻ nhưng kinh nghiệm thấp
(nhóm 15 -24 tuổi) có tỷ lệ cao nhất là dân tộc
H’Mông, tiếp đến là các dân tộc như Nùng,
Dao. Ở các nhóm tuổi khác có sự thay đổi rõ
rệt, ở các nhóm tuổi từ 25-44 thì các dân tộc
như Kinh và Tày có cơ cấu cao hơn các dân
tộc khác và thấp nhất vẫn là các dân tộc như
Sán Chay hay Dao.
4. Trình độ học vấn của lao động nữ dân tộc
thiểu số: Nghiên cứu riêng về trình độ học
vấn của các lao động nữ dân tộc thiểu số và
so sánh với lao động nữ của huyện, chúng ta
thấy: lao động nữ là dân tộc thiểu số chủ yếu
học hết Tiểu học chiếm 39,17%, Tỷ trọng lao
động nữ dân tộc thiểu số có trình độ Trung
học cơ sở và Trung học phổ thông thấp hơn
so với tỷ trọng của lao động nữ trong toàn
huyện. Nguyên nhân của vấn đề này xuất phát
từ quan niệm còn nặng nề ở nhóm dân tộc
thiểu số là “trọng nam”. Những đối tượng
tham gia học đến Trung học phổ thông, theo
thống kê của phòng giáo dục huyện chủ yếu
là đối tượng chính sách và học ở trường nội
trú chiếm 65,77% tổng số học sinh tốt nghiệp
Trung học cơ sở và học lên Trung học phổ
thông, một số lượng ít học ở trường Trung
học phổ thông quốc lập khác.
5. Trình độ chuyên môn kỹ thuật: Trong tổng
số lực lượng lao động nữ ở khu vực nông
thôn là 17.655 người, thì lao động nữ là dân
tộc thiểu số chiếm 72%, còn lại lao động nữ
là dân tộc Kinh chiếm 28%. Với số lượng
đông đảo như vậy, nhưng lực lượng này phần
lớn là chưa qua lớp đào tạo nghề chiếm
95,67%. Lượng lao động nữ là người dân tộc
thiểu số qua đào tạo nghề chiếm tỷ trọng rất
nhỏ (2,06%). Trong khi đó, lượng lao động
nữ là người dân tộc Kinh tham gia đào tạo
nghề chiếm tỷ lệ 7,55% trong tổng số lao
động nữ dân tộc Kinh ở khu vực nông thôn.
Qua đây ta thấy có sự khác biệt rất rõ về cơ
cấu trình độ giữa lao động nữ là người dân tộc
thiểu số với lao động nữ là người Kinh (nếu
so với lao động là nam thì sự chênh lệch này
còn cao hơn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Ngô Xuân Hoàng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 94(06): 153 - 159
155
Bảng 01. Trình độ chuyên môn của lao động nữ dân tộc thiểu số của huyện năm 2010
Trình độ chuyên môn
Lao động nữ là
Dân tộc thiểu số
Lao động nữ là
Dân tộc kinh
Số lượng
(người) Tỷ lệ (%)
Số lượng
(người) Tỷ lệ (%)
Tổng số 12714 100 4941 100
1. Chưa qua đào tạo 12164 95,67 4213 85,27
2. Đã qua đào tạo nghề và tương đương 261 2,06 373 7,55
3. Trung học chuyên nghiệp trở lên 289 2,27 355 7,18
Nguồn: Niên giám thống kê huyện Võ Nhai năm 2010
Vai trò chủ yếu của lao động nữ dân tộc thiểu số trong phát triển kinh tế hộ
Bảng 02. Lao động việc làm của lao động dân tộc thiểu số ở khu vực nông thôn huyện Võ Nhai năm 2010
Các chỉ tiêu phản ánh ĐVT Tổng số
Phân theo giới
Nam nữ
1. Dân số trong độ tuổi lao động Người 12.232 5.852 6.380
2. Dân số hoạt động kinh tế Người 12.715 5.975 6.740
3. Dân số không hoạt động kinh tế Người 2.908 1.493 1.415
4. Tỷ lệ tham gia lực lượng LDBQ % 0,93 0,92 0,935
5. Tỷ lệ người có việc làm BQ % 92,18 91,25 93,11
6. Tỷ lệ thất nghiệp BQ % 7,76 8,75 6,89
Nguồn: Phòng lao động và TBXH, Võ Nhai
1. Lao động, việc làm của lao động nữ dân
tộc thiểu số: Xét trên toàn huyện, tổng số lao
động trong độ tuổi có việc làm ở khu vực
nông thôn là 33.725 người chiếm 97,6%, còn
lại tỷ lệ thất nghiệp chiếm 2,4%. Xét riêng lao
động dân tộc thiểu số cho thấy: Tổng số
lượng lao động dân tộc thiểu số khu vực nông
thôn trong độ tuổi hoạt động kinh tế là 12.232
người, lao động nữ chiếm 0.52%. Tổng số lao
động tham gia hoạt động kinh tế là 12.715,
chia ra lao động nữ là 0.53%, còn lại 47% lao
động nam. Tổng số lao động không hoạt động
kinh tế là 2.908, chia ra lao động nữ là 49%,
còn lại 51% lao động nam. Như vậy, tỷ lệ
những người không tham gia lao động của
nam cao hơn nữ giới. Trong số này, phần lớn
là những người già, người ốm đau bệnh tật.
Đây chính là số lượng người “ăn theo”, điều
này cũng ảnh hưởng tới kinh tế của các hộ gia
đình cũng như ảnh hưởng tới quá trình phát
triển kinh tế xã hội của huyện. Tỷ lệ lao động
nữ có việc làm cao hơn lao động nam. Sở dĩ
như vậy, là vì lao động nữ có thể làm những
công việc gia đình, làm việc phụ (đan, lát, thêu
thùa...), còn lao động nam thường tham gia các
công việc đòi hỏi sức lực hơn, mạnh mẽ và
nặng nhọc hơn. Điều đó dẫn tới tỷ lệ thất
nghiệp của lao động nữ dân tộc thiểu số thấp
hơn so với lao động nam.
2. Sự tham gia của lao động nữ dân tộc thiểu
số trong các ngành sản xuất: Do đặc điểm
riêng của người phụ nữ do vậy rất thích hợp
với các ngành nghề như trồng trọt, chăn nuôi,
buôn bán chiếm 52,64%. Như vậy lao động
người dân tộc thiểu số có vai trò quan trọng
trong hoạt động sản xuất nông lâm nghiệp.
Muốn nâng cao hiệu quả sản xuất của ngành
này, cần quan tâm giải quyết vấn đề liên quan
đến lực lượng lao động là người dân tộc thiểu
số nói chung, lao động nữ dân tộc thiểu số nói
riêng. Đó là các vấn đề: nâng cao năng lực
trong sản xuất cũng như trong quản lý hộ gia
đình. Nếu xét lực lượng lao động theo cơ cấu
ngành thì trong tổng số lao động nam các hoạt
động trong lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp chiếm
tỷ trọng cao nhất, chiếm 56,95% tiếp đến là lĩnh
vực thương mại và dịch vụ trong chiếm 27,53%
và cuối cùng là lao động trong lĩnh vực công
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Ngô Xuân Hoàng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 94(06): 153 - 159
156
nghiệp và xây dựng chiếm 1,52%. Điều này
phản ánh nét đặc thù của một huyện cơ cấu
GDP chủ yếu dựa vào sản xuất nông lâm
nghiệp. Như vậy, trong những năm tới để
nâng cao tổng thu nhập cho toàn huyện cần
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông lâm nghiệp
theo hướng bền vững và đầu tư cho chất
lượng nguồn lao động ở khu vực nông thôn.
Đối với lao động nữ là dân tộc thiểu số, lượng
lao động hoạt động trong lĩnh vực sản xuất
nông-lâm nghiệp chiếm gần 90% tổng số lao
động nữ dân tộc thiếu số (cao hơn gần 4% cơ
cấu so với mặt bằng chung của huyện). Trong
lĩnh vực này công việc tạo ra thu nhập chính
cho gia đình là trồng trọt, chăn nuôi đại gia
súc, tiểu gia súc và gia cầm. Trong nhóm dân
tộc thiểu số thì người Nùng, H’Mông, Sán
Chay có tỷ lệ tham gia vào hoạt động nông
nghiệp còn cao hơn dân tộc khác. Riêng
những lao động tham gia vào lĩnh vực dịch vụ
thương mại chủ yếu tập trung vào những hộ
gia đình có điều kiện thuận lợi về đường giao
thông, gần đường, gần trung tâm.
3. Lao động nữ dân tộc thiểu số tham gia
quản lý hộ và điều hành sản xuất: Phụ nữ
ngoài thiên chức làm mẹ, họ còn có vai trò
hết sức quan trọng đối với các hoạt động lớn
nhỏ của hộ. Để xem xét vai trò của nữ trong
quản lý hộ và việc ra các quyết định sản xuất,
chúng tôi phân chia các tiêu chí đánh giá theo
mức độ kinh tế của các hộ dân tộc thiểu số ở
3 vùng sinh thái. Kết quả được tổng hợp trong
bảng 03 cho thấy tỷ lệ nữ dân tộc thiểu số làm
chủ hộ ở cả 3 vùng đều chiếm tỷ lệ nhỏ so với
nam giới, tỷ lệ này có sự phân hoá giữa các
nhóm hộ có mức thu nhập khác nhau. Ở các
vùng, tỷ lệ nữ tham gia quản lý hộ và điều
hành sản xuất chiếm tỷ lệ cao ở các hộ khá,
thấp nhấp ở các hộ nghèo. Qua đây, cho ta
nhận xét, có sự ảnh hưởng của mức sống tới
vai trò của lao động nữ dân tộc thiểu số, có sự
bất bình đẳng trong việc gia quyết định trong
hộ, giữa nam và nữ.
Số liệu trong bảng 03 chỉ rõ các vùng khác
nhau, nơi sinh sống của các dân tộc thiểu số,
với các phong tục, tập quán riêng pha trộn với
văn hóa người Kinh đã làm nên sự khác biệt.
Ở Thần Sa, nơi tập trung các dân tộc như
Dao, Sán Chay, H’Mông có tỷ lệ nữ làm chủ
hộ rất thấp (gần bằng 1/2 các vùng khác), còn
ở vùng khác như Phú Thượng đây là nơi tập
trung dân tộc Tày, Nùng sống xen kẽ với
người Kinh nên có sự đồng đều và công bằng
hơn về vai trò quản lý hộ, điều hành sản xuất.
4. Lao động nữ dân tộc thiểu số trong việc ra
quyết định phân công lao động trong hộ:
Trong 3 xã nghiên cứu thì lao động nam
thường làm những công việc nặng như cày
bừa, chặt tre, lấy gỗ... còn lao động nữ ngoài
các công việc chăm sóc gia đình như nấu
cơm, giặt giũ, lấy nước, lấy củi họ còn tham
gia vào các hoạt động sản xuất như gieo hạt,
chăm sóc, thu hoạch và bán các sản phẩm.
Đối với các công việc chăn nuôi gia súc
người phụ nữ đảm nhận công việc như chọn
giống, chăm sóc. . . Sự bình đẳng trong công
việc gia đình cũng như trong các hoạt động
sản xuất có thể thấy rất rõ qua các công việc
mà người phụ nữ và người đàn ông đảm nhận.
Nếu xét về hoạt động trồng trọt thì lao động
nữ ở các hộ có điều kiện tham gia vào công
việc trong khâu làm đất chiếm 13,07% còn
phụ nữ ở các hộ không có điều kiện tham gia
vào công việc trong khâu làm đất chiếm
16,65%. Trong các công việc khác cũng vậy
đều có sự chênh lệch về mức độ tham gia vào
các công việc của lao động nữ trong hai nhóm
hộ. Tại xã Tràng Xá thì phần lớn bà con dân
tộc có mức thu nhập thấp, công việc chính là
trồng trọt, chăn nuôi, trình độ văn hoá thấp
dẫn đến việc sử dụng lao động vào các công
việc không phù hợp. Giữa nam và nữ có sự
bất công trong công việc tham gia các hoạt
động xã hội. Trên 50% nam giới được tham
gia các buổi họp, điều này càng làm thêm
khoảng cách hiểu biết giữa nam và nữ. Điều
tra ở 3 vùng nghiên cứu thì hầu hết đều nhận
được các ý kiến cho rằng lao động nữ đã bị sử
dụng vào những công việc vất vả, không phù
hợp. Xã Tràng Xá là nơi mà lao động nữ ít
được học hành, công việc chủ yếu là làm
nông nghiệp do vậy mức độ vất vả của người
phụ nữ cao nhất (chiếm 51,73%); trong khi đó
ở các vùng khác thấp hơn như xã Thần Sa
(chiếm 39,83%), xã Phú Thượng (chiếm
38,24%). Qua số liệu ta thấy sự bất bình đẳng
giữa lao động nam và nữ trong phân công các
công việc của nông hộ. Ngoài thời gian tham
gia lao động sản xuất, phụ nữ còn bận rộn với
biết bao công việc như công việc nội trợ
(8,3%); công việc lấy củi (6,7%); chăm sóc
con cái (4,2%); công tác xã hội (1,7%).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Ngô Xuân Hoàng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 94(06): 153 - 159
157
Bảng 03. Tỷ lệ nữ dân tộc thiểu số làm chủ hộ và tham gia quản lý hộ
Tiêu chí
Xã Thần Sa Xã Phú Thượng Xã Tràng Xá
Khá TB nghèo Khá TB nghèo Khá TB nghèo
1. Hộ DT kinh (165 hộ)
+Tỷ lệ nữ làm chủ hộ 17,22 15,57 11,65 26,42 21,13 19,32 24,77 18,73 13,92
+Tỷ lệ nữ tham gia
quản lý điều hành SX 41,05 33,25 16,36 38,38 36,83 28,31 35,29 31,40 25,12
2. Hộ DT thiểu số (255 hộ)
+Tỷ lệ nữ làm chủ hộ 13,65 11,23 6,75 24,35 12,19 9,43 23,42 11,79 8,25
+Tỷ lệ nữ tham gia
quản lý điều hành SX 32,16 26,34 14,66 34,37 29,41 20,19 33,28 27,45 16,32
Nguồn: Tổng hợp từ phiếu điều tra
5. Lao động nữ dân tộc thiểu số trong hoạt
động tiếp cận khoa học kỹ thuật và kiến thức
khuyến nông: Qua thực tế chúng tôi thấy lao
động nữ tiếp nhận các thông tin từ cán bộ kỹ
thuật khuyến nông và từ hội nông dân còn ít,
chủ yếu lao động nữ nông thôn nhận thông tin
từ người chồng (57%), cửa hàng vật tư nông
nghiệp (57,67%), qua chợ (47,33%) hay qua
kinh nghiệm bản thân (42,67%). Việc tham
gia các lớp tập huấn khuyến nông về kỹ thuật
sản xuất nông nghiệp, phần lớn lao động nữ
không được tham dự (chiếm 54,14%). Các
lớp tập huấn về trồng trọt (chiếm 57,67%),
lớp chăn nuôi ( chiếm 36,67%), lớp tập huấn
về làm vườn... tỷ lệ phụ nữ tham gia lớn. Qua
vấn đề này rút ra nhận xét về hiệu quả của
công tác truyền thông. Các thông tin cần
truyền đạt về kiến thức kỹ thuật chưa đến
được người trực tiếp sản xuất, nhất là phụ nữ.
6. Mức độ kinh tế của các hộ dân tộc thiểu số
khu vực nông thôn huyện Võ Nhai: Qua kết
quả nghiên cứu đã hiện được phần nào vai trò
trò của phụ nữ trong các quyết định về hoạt
động sản xuất mặc dù người phụ nữ không có
vai trò quyết định lớn, đa số họ có quyền
tham gia đóng góp ý kiến, thảo luận, bàn bạc
cùng chồng, nhưng quyết định cuối cùng vần
thường là người chồng. Tuy vậy người quản
lý ngân sách gia đình thường thuộc về nữ
giới. Năm 2010, toàn huyện có 14.193 hộ,
khu vực nông thôn với 12.107 hộ chiếm 85%.
Trong số này nếu căn cứ theo mức thu nhập
thì dân tộc Kinh với 4.638 hộ chiếm 38%, tỷ
lệ hộ có mức thu nhập khá trở lên chiếm
15,07%, hộ nghèo chiếm 14,23%. Đối với các
hộ là dân tộc thiểu số (chiếm 62% tổng số
hộ), có sự chênh lệch đáng kể về mức sống.
Phần lớn số hộ dân tộc thiểu số có mức sống
trung bình (bình quân 71,76%), còn hộ nghèo
chiếm 15,53%. Xét riêng những hộ là dân tộc
thiểu số, chúng ta thấy các hộ dân tộc Tày,
Nùng có tỷ lệ hộ nghèo thấp hơn các dân tộc
thiểu số khác. Theo đánh giá ban đầu khảo
sát, cho thấy nguyên nhân có sự chênh lệch
này phần lớn do sự khác nhau về sở hữu các
tư liệu sản xuất, các điều kiện tự nhiên, kinh
tế xã hội khác như: giao thông, vị trí gần
trung tâm, gần chợ. Trong các nhóm hộ là dân
tộc thiểu số có mức sống từ khá trở lên chủ
yếu tập trung vào các hộ có nhiều đất canh
tác, đất lâm nghiệp, tham gia công tác chính
quyền địa phương.
Các nhân tố tác động tới vai trò lao động nữ
dân tộc thiểu số trong phát triển kinh tế hộ
1. Mức độ kinh tế: Qua kết quả nghiên cứu
thu nhập của các hộ, nếu áp dụng theo chuẩn
nghèo giai đoạn 2006-2010 thì tỷ lệ nghèo
của huyện sẽ còn rất cao (200 nghìn
đồng/người/tháng). Cụ thể số liệu cho thấy,
chênh lệch về thu nhập bình quân/ người/năm
của hộ nghèo dân tộc Kinh cao gấp 1,23 lần
so với hộ nghèo dân tộc thiểu số, còn đối với
tiêu dùng cũng vậy, tiêu dùng của hộ người
Kinh cao gấp 1,05 lần so với hộ dân tộc thiểu
số. Chênh lệch về thu nhập giữa hộ giầu với
hộ nghèo là dân tộc thiểu số tới 2,3 lần (23%),
chênh lệch giữa hộ khá, trung bình so với hộ
nghèo dân tộc thiểu số là 1,84 lần (18,4%).
Tương tự như vậy, xét khoảng cách về tiêu
dùng ở các nhóm hộ cũng có sự khác nhau
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Ngô Xuân Hoàng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 94(06): 153 - 159
158
lớn: chênh lệch giữa nhóm hộ giầu và nghèo
là 2,3 lần (23%), giữa hộ khá, trung bình với
hộ nghèo là 16,8%. Như vậy có sự bất bình
đẳng trong thu nhập cũng như trong tiêu dùng
của các nhóm hộ trong huyện, đặc biệt là sự
bất bình đẳng giữa nhóm dân tộc thiểu số và
dân tộc Kinh.
2. Phong tục tập quán: Phần lớn các dân tộc
như: H’Mông, Nùng, Dao, Cao Lan, vẫn còn
giữ những tập tục từ xưa. Chẳng hạn như:
Người H’Mông có tập quán du canh, du cư từ
lâu đời, hoạt động sản xuất phụ thuộc vào
điều kiện tự nhiên sẵn có, dẫn tới đời sống
kinh tế thường bấp bênh, mức sống thấp, con
cái ít có điều kiện chăm sóc sức khoẻ và giáo
dục, nhất là phụ nữ còn chịu nhiều thiệt thòi,
chịu vất vả trong gia đình. Phân công lao
động trong gia đình, giữa người H’Mông và
Dao gần như tương đồng, không có nhiều sự
khác biệt. Trong mỗi gia đình người H’Mông
và Dao, nam giới đảm nhận toàn bộ công việc
phát rẫy, cuốc cày nương, chặt cây, làm nhà
còn người phụ nữ làm nhiệm vụ tra hạt, làm
cỏ, chăn nuôi và kiếm củi... Guồng máy lao
động trong gia đình khá chặt chẽ.
3. Trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật: Như
đã phân tích ở phần trên, lao động người dân
tộc thiểu số nói chung và lao động nữ dân tộc
thiểu số nói riêng có trình độ học vấn và trình
độ chuyên môn thấp hơn so với lao động
người Kinh. Điều này ảnh hưởng tới sự ra
quyết định sản xuất, quản lý hộ, tham gia các
công tác chính trị, đoàn thể của cả nhóm đồng
bào dân tộc.
4. Nhân tố khác: Về Kinh tế: Trong những
năm qua, hiệu quả của các chương trình 135,
134 đã được thể hiện thông qua: sự ổn định
sản xuất của người dân, khắc phục hiện tượng
du canh, du cư, người dân chuyển hướng
thâm canh, áp dụng khoa học kỹ thuật mới
vào sản xuất, thu nhập của hộ gia đình được
nâng cao, chất lượng cuộc sống được nâng
cao dần. Tỷ lệ nữ được đi học phổ thông
không ngừng nâng cao, lao động nữ giảm sự
vất vả và có nhiều thời gian dành cho bản
thân. Về Y tế: Cải thiện trang bị cơ sở vật chất
cho vùng dân tộc thiểu số, tăng cường đội ngũ
cán bộ; khám chữa bệnh miễn phí; Thực hiện
các Chương trình mục tiêu quốc gia; chăm
sóc sức khoẻ sinh sản, thực hiện kế hoạch hoá
gia đình. Giáo dục: Cải thiện trang bị, cơ sở
vật chất (trường, lớp...), tăng cường đội ngũ
giáo viên; chính sách cử tuyển, miễn học phí,
cấp phát giấy vở cho học sinh...; Thực hiện
các Chương trình mục tiêu quốc gia về giáo
dục. Kết quả là số học sinh dân tộc thiểu số
được đi học ngày càng tăng, tỷ lệ học sinh nữ
bị bỏ học đã giảm rõ rệt.
KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu vai trò của lao động nữ
dân tộc thiểu số trong phát triển kinh tế hộ tại
huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên cho thấy: Tỷ
lệ lao động nữ ở khu vực nông thôn chiếm một
tỷ lệ cao (trên 94%). Cơ cấu lao động giữa
nam và nữ có sự chênh lệch, lao động nữ
chiếm trên 50,3%. Lao động nữ dân tộc thiểu
số chiếm 65,27% trong tổng số lao động nữ ở
khu vực nông thôn. Trong số này tập trung chủ
yếu trên 70% là dân tộc Tày và Nùng. Lực
lượng lao động nữ dân tộc thiểu số có độ tuổi
trẻ, tập trung chủ yếu ở độ tuổi 15 đến 44. Tỷ
lệ thất học và bỏ học ở phụ nữ là dân tộc thiểu
số cao hơn nhiều so với dân tộc Kinh. Các dân
tộc như Hmông, Dao do địa bàn sống xa trung
tâm nên tỷ lệ này cao nhất. Có sự khác biệt
giữa các vùng trong huyện về trình độ, mức
sống, sự công bằng, vai trò của lao động nữ là
dân tộc thiểu số. Lao động nữ thuộc tiểu vùng
1 có vai trò cao hơn các tiểu vùng 2 và 3 (thấp
nhất là tiểu vùng 1, nơi có nhiều người dân tộc
H’Mông và Dao sinh sống).
Trình độ văn hoá và chuyên môn của lao
động nữ dân tộc thiểu số còn thấp (trên 68%
tốt nghiệp Tiểu học và THCS, trên 90% chưa
qua đào tạo nghề), khá chênh lệch so với lao
động dân tộc Kinh. Có sự khác nhau trong nội
bộ nhóm dân tộc thiểu số. Dân tộc Tày có
trình độ văn hoá và chuyên môn cao nhất. Tỷ
lệ phụ nữ tham gia quản lý hộ và điều hành
sản xuất đạt gần 30%. Tỷ lệ lao động nữ tham
gia vào các cấp chính quyền đoàn thể trong
những năm qua có tăng nhưng so với nam còn
thấp hơn nhiều (bình quân dưới 14,3% các
chức danh). Lao động nữ dân tộc thiểu số
tham gia chủ yếu vào các hoạt động sản xuất
nông lâm nghiệp (trên 87,7%). Lao động nữ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Ngô Xuân Hoàng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 94(06): 153 - 159
159
có vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra thu
nhập cho hộ gia đình. Thu nhập và tiêu dùng
bình quân trên tháng của lao động nữ dân tộc
thiểu số thấp hơn so với nam giới (bằng
0,67% nam giới).
Còn nhiều khoảng cách chênh lệch giữa các
nhóm hộ khá, giầu và nghèo. Mức chênh lệch
khoảng 20%. Có sự bất công trong công tác
quản lý và kiểm soát các nguồn lực như đất
đai, nguồn thông tin ký thuật, y tế, dịch vụ
vốn Thông thường nữ giới ít cơ hội được
tiếp cận với các nguồn lực này so với nam vì
có nhiều nguyên nhân như phong tục tập quán,
quan niệm trọng nam khinh nữ vẫn còn tồn tại
trong các tổ chức ở địa phương và ngay cả
trong gia đình. Còn rất nhiều yếu tố ảnh hưởng
đến vai trò của phụ nữ dân tộc thiểu số trong
phát triển kinh tế hộ như: thiếu chính sách cho
phát triển phụ nữ, tồn tại những quan niệm lạc
hậu, trình độ học vấn của phụ nữ thấp, áp lực
từ quan niệm xã hội, thiếu sự chia sẻ của công
đồng,điều kiện kinh tế - xã hội không thuận
lợi, phụ nữ ít tham gia vào các hoạt động của
xã hội, số con trên một phụ nữ cao, số giờ nội
trợ của phụ nữ nhiều.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Ban chỉ đạo điều tra lao động việc làm, Thực
trạng lao động - Việc làm tỉnh Thái Nguyên, các
năm 2005, 2008, 2009, 2010.
[2]. Ban vì sự tiến bộ của phụ nữ tỉnh Thái
Nguyên, Báo cáo tình hình hoạt động vì sự tiến bộ
của phụ nữ tỉnh Thái Nguyên, Báo cáo thường
niên 2003, 2004, 2005
[3]. Ban vì sự tiến bộ phụ nữ huyện Võ Nhai, Báo
cáo tình hình hoạt động vì sự tiến bộ của phụ nữ
huyện Võ Nhai, các năm 2003, 2004, 2005
[4]. Đỗ Thị Bình, Lê Ngọc Lân (1996), Phụ nữ
nghèo nông thôn trong điều kiện kinh tế thị
trường, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
[5]. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2001). Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội,
[6]. Học viện hành chính quốc gia, Đổi mới sự
nghiệp phát triển con người, Nxb Hà Nội, 2001
[7]. UBND huyện Võ Nhai, Báo cáo tình hình
kinh tế xã hội qua các năm 2009, 2010
[8]. Đỗ Văn Viện - Đỗ Văn Tiến. Giáo trình kinh
tế hộ nông dân - Đại học Nông nghiệp I - Hà Nội
SUMMARY
FEMALE ETHNIC MINORITY WORKERS IN VO NHAI DISTRICT
- THAI NGUYEN PROVINCE WITH THE DEVELOPMENT
OF HOUSEHOLD ECONOMY
Ngo Xuan Hoang*, Nguyen Thi Van Chi
College of Economics and Technology – TNU
Vo Nhai is a mountainous district located in North-East of Thai Nguyen province. In this district,
female ethnic minority workers in rural areas acount for 65.27% of total female workers, most of
whom are the Tay and Nung accounting for over 70%. They are mostly young, at the age of 15 to
44. However, their educational and professional level is low; particularly, over 68% of them only
recieved elementary and junior secondary degrees, over 90% have not been properly trained.
Female ethnic minority labors mainly participate in agriculture and forestry production (over
87.7%); the proportion of ethinic minority women engaged in governments and organizations in
recent years has increased but is still much lower then that of men (average of less than 14.3% of
the titles). Nonetheless, female workers have a very important role in generating income and
household economic development.
Key words: Female ethnic minority workers, development, household economy
Ngày nhận: 28/05/2012; Ngày phản biện:06/06/2012; Ngày duyệt đăng:12/06/2012
*
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- lao_dong_nu_dan_toc_thieu_so_huyen_vo_nhai_tinh_thai_nguyen.pdf