Thứ nhất, cần phải có đủ phương
tiện để sẵn sàng học tập như: Giáo trình,
tài liệu nghiên cứu, tài liệu tham khảo
cùng các phương tiện hỗ trợ khác.
Thứ hai, phải dự giờ đầy đủ, lắng
nghe, ghi chép nói chung là phải có
tinh thần chăm chỉ và cầu thị vì thành
công trong học tập không bao giờ đến với
kẻ thờ ơ và lười biếng.
Thứ ba, người học cần tự quản lý
về thời gian cũng như làm việc một cách
độc lập (tiến hành những nghiên cứu
trong chương trình đào tạo của mình).
Thứ tư, người học phải có quan
điểm học tập thực sự, đó là tập trung vào
việc hình thành kiến thức, óc sáng tạo,
cách giải quyết vấn đề và những kinh
nghiệm học tập ở phổ thông, mà đặc
trưng là chịu sự kiểm soát từ bên ngoài.
Cách thức dạy và học truyền thống
(đặc biệt là học vẹt) sẽ không đem lại
hiệu quả mong muốn, hoạt động dạy và
học chỉ đạt hiệu quả cao khi đối tượng
đứng trước “Hoàn cảnh có vấn đề”. Vậy
bản thân người học phải nhận thức được
vai trò quan trọng của môn học đối với
chương trình đào tạo và tương lai cuộc
sống sau này, từ đó tạo động cơ để người
học chủ động tìm hiểu kiến thức một
cách tự giác dưới sự hướng dẫn của thầy.
Như vậy học có nghĩa là biến quá
trình đào tạo của nhà trường thành quá
trình tự đào tạo của sinh viên. Muốn vậy
người học phải có thái độ tích cực trong
học tập như: Tự giác tìm hiểu, không thụ
động, trong giờ giảng phải tích cực tham
gia phát biểu xây dựng bài, không ngại
tranh luận, tìm hiểu những tài liệu có liên
quan tới môn học, có tinh thần phê phán
trong học tập đừng nghĩ rằng tri thức
sách vở đều đúng 100% , đừng nghĩ rằng
thầy nói là đúng 100%, phải hoài nghi,
phải phản biện, thậm chí phải bác bỏ nếu
có chứng cứ.
10 trang |
Chia sẻ: thuychi20 | Lượt xem: 767 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kinh tế tri thức - Kim chỉ nam cho ngành giáo dục bước sang thời đại mới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trường CĐ VH-NT & DL SG Số 1 năm 2011
120
KINH TẾ TRI THỨC - KIM CHỈ NAM CHO
NGÀNH GIÁO DỤC BƯỚC SANG THỜI ĐẠI MỚI
NGUYỄN XUÂN TỚI*
TÓM TẮT
Kinh tế tri thức ra đời là một xu thế tất yếu của lịch sử nhân loại. Những đặc trưng
cơ bản của kinh tế tri thức được các nhà khoa học nêu ra có tính chất dự báo, Sự ra đời
của kinh tế tri thức được các chính trị gia tiên đoán là vào nửa cuối thế kỷ XXI.
Thực tế thì kinh tế tri thức đã tác động đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, trong
đó có giáo dục. Một số quan điểm đổi mới về giáo dục đã được đưa ra trên diễn đàn công
luận, trong đó có hai trường phái trái ngược nhau. Để có cách nhìn dựa trên nền tảng triết
học thì phải đi từ thực tiễn để điều chỉnh lý luận. Đổi mới phương pháp dạy và học vẫn là
cách tốt nhất để tiếp cận kinh tế tri thức, tiếp cận với nền giáo dục hiện đại. Người dạy,
người học và người quản lý giáo dục cần phải làm gì để đổi mới quan điểm và phương
pháp giáo dục?
ABSTRACT
The knowledge economy – guideline
for a new era of education
The existence of the knowledge economy is an inevitable tendency of human history.
Its fundamental features have been forecast by the scientists. The politicians predicted that
the knowledge economy would come into being in the last half of the 21st century.
In fact, the knowledge economy does have great influence on many aspects of life,
especially education. Some innovative viewpoints of education have been open to public
debate in which there are two completely opposite opinions. In order to have a
philosophical point of view, it is a good idea to start from reality to adjust theory.
Innovating learning and teaching methods is always the best way to approach knowledge
economy and modern education. The question has been raised is that what teachers,
students and educational administrators can do to renovate educational viewpoints and
methods.
* TS, Khoa Cơ bản, Trường Cao đẳng Văn hóa, Nghệ thuật & Du lịch Sài Gòn.
Tạp chí VĂN HÓA VÀ DU LỊCH Nguyễn Xuân Tới
121
Kinh tế tri thức là gì?
Từ những thập niên 60 – 70 của thế
kỷ XX lại đây, khi những tiến bộ khoa
học dần dần trở thành nhân tố quyết định
sự phát triển kinh tế thì quan niệm về
kinh tế tri thức bắt đầu ra đời.
Năm 1970, ông K.Brêdinxki -
nguyên cố vấn an ninh quốc gia Mỹ,
trong bài nói chuyện về nhiệm vụ của
nước Mỹ trong thời đại kỹ thuật điện tử,
đã nói:
“ Chúng ta đang đứng trước một
thời đại kỹ thuật điện tử”
Năm 1973, nhà xã hội học người
Mỹ Daniel Ben gọi cái xã hội mới mà
nhân loại sắp đi vào là “ Xã hội hậu công
nghiệp”.
Năm 1980, nhà tương lai học Toffer
lần đầu tiên đưa ra khái niệm “Nền kinh
tế siêu công nghiệp”. Tiếp đó vào năm
1982, nhà kinh tế học người Mỹ
J.Naisbitt đưa ra một cái tên gọi mới hơn,
ông gọi nền kinh tế mà nhân loại sắp đi
tới là “Nền kinh tế thông tin”.
Năm 1986, các nhà kinh tế người
Anh gọi nền kinh tế thông tin là “Nền
kinh tế kỹ thuật cao”. Tới năm 1990, tổ
chức nghiên cứu liên hiệp quốc lần đầu
tiên đưa ra khái niệm Kinh tế tri thức.
Năm 1996, tổ chức OECD (Ogranization
for Economic Cooperation and
Development) định nghĩa rõ ràng, rằng:
“ Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế
mà ở đó lấy tri thức làm cơ sở”
Như vậy trải qua một phần ba thể
kỷ khảo nghiệm, khái niệm kinh tế tri
thức mới dần dần hiện ra rõ nét.
Ngày nay nhân loại đang sắp sửa
bước vào thời đại kinh tế tri thức, ở đó
việc chiếm hữu nguồn tài nguyên trí lực,
việc sử dụng, phân phối và sản xuất tri
thức trở thành nhân tố quyết định đến sự
phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
Các ngành sản xuất chủ yếu như:
công nghệ thông tin, công nghệ sinh học
mới, công nghệ năng lượng mới, công
nghệ vật liệu mới, khoa học công nghệ
không gian (hay còn gọi là khoa học công
nghệ vũ trụ), khoa học kỹ thuật hải
dương, công nghệ phần mềm sẽ ra đời
và phát triển để dần dần trở thành những
ngành sản xuất chủ yếu trong thời đại
kinh tế tri thức.
Trong thời đại kinh tế tri thức, việc
sử dụng sản phẩm tri thức có nghĩa là
phải lợi dụng những tri thức mới để tạo ra
nhiều của cải vật chất cho xã hội. Sản
phẩm hàng hóa trong nền kinh tế tri thức
phải là những sản phẩm mang hàm lượng
trí tuệ cao để đáp ứng cho việc thỏa mãn
rất cao của nhu cầu con người. Trong
thời đại kinh tế tri thức, người ta sẽ được
ở trong các căn nhà thông minh, căn nhà
tự động điều chỉnh nhiệt độ theo thể trạng
con người. Con người cũng sẽ ăn những
thức ăn thông minh, món ăn mà hàm
lượng dưỡng chất phù hợp một cách tự
Trường CĐ VH-NT & DL SG Số 1 năm 2011
122
giác với nhu cầu cơ thể con người. Người
ta sẽ đi lại trên những chiếc xe thông
minh, chiếc xe tự động tính toán độ dài
quãng đường để vận hành theo ý muốn
của người sử dụng. Và ta sẽ được sử
dụng những đồ dùng thông minh khác
trong cuộc sống hàng ngày. Ở thời đại
kinh tế tri thức, công nghệ Zen sẽ ra đời
thay thế cho công nghệ truyền thống,
nguồn năng lượng cao sẽ ra đời thay thế
cho năng lượng truyền thống (than và dầu
mỏ), vật liệu nhân tạo sẽ ra đời thay thế
cho vật liệu truyền thống có sẵn của tự
nhiên.
Trong kinh tế tri thức, cơ thể con
người cũng phải được bảo trì giống như
người ta đã bảo trì động cơ máy bay,
đừng để nó tắt máy khi đang bay trên
không trung, muốn vậy những cơ quan
nội tạng trong cơ thể con người cũng phải
được bảo trì theo định kỳ và kịp thời thay
thế trước khi nó “quá đát”. Như vậy đời
sống con người có thể chủ động duy trì
đến thời điểm thích hợp, một tài liệu
đáng tin cậy cho biết trung tâm công
nghệ cao của Mỹ (thung lũng Silicon)
hiện người ta đã chế tạo được hầu hết các
cơ quan nội tạng trong cơ thể con người
(trừ bộ não), những nội tạng nhân tạo này
có khả năng duy trì đời sống con người
đến 400 tuổi nếu cần.
Trong nền kinh tế tri thức thì tri
thức là hàng hóa, hàng hóa tri thức được
sử dụng ngày càng phổ biến, nhưng hàng
hóa tri thức khác với hàng hóa thông
thường ở chỗ là hàng hóa tri thức khi
càng sử dụng thì giá trị của chúng càng
gia tăng chứ không hao mòn giá trị như
hàng hóa. Thông thường, do vậy muốn sử
dụng được hàng hóa tri thức, người ta
phải học tập không ngừng để chuyển hóa
tri thức nhân loại thành kỹ năng của
mình, vậy nên người giàu có trong kinh
tế tri thức phải là người có trình độ tri
thức rất cao.
Khi chuyển sang kinh tế tri thức,
giá trị xã hội sẽ thay đổi theo hướng ngày
càng tôn trọng trí thức, nhân tài giá trị
của con người trong kinh tế tri thức sẽ
được biểu hiện ở người nào sở hữu được
nguồn tài nguyên tri thức, trí lực, nhân tài
trong xã hội. Khi ấy đất đai, tiền của
không còn là tiêu chí để đánh giá sự giàu
có của con người như trong kinh tế nông
nghiệp và công nghiệp mà nhân loại từng
đi qua.
Cơ chế vận hành của thị trường
trong kinh tế tri thức linh hoạt hơn nhiều
so với thị trường thời kinh tế công
nghiệp, đặc trưng cơ bản của kinh tế tri
thức là kinh tế mạng ra đời cùng với
thương mại điện tử phát triển nhanh
chóng sẽ làm thay đổi diện mạo thị
trường, cạnh tranh trong kinh tế tri thức
sẽ chuyển sang cục diện mới. Khi thị
trường chuyển sang cục diện mới sẽ làm
cho hình thức tổ chức xã hội cũng thay
đổi theo. Các khu công nghiệp khai thác
kỹ thuật cao ra đời sẽ tập trung nguồn tài
nguyên trí lực tạo ra năng suất lao động
Tạp chí VĂN HÓA VÀ DU LỊCH Nguyễn Xuân Tới
123
xã hội vượt trội so với kinh tế công
nghiệp. Bộ máy quản lý xã hội sẽ chuyển
từ quản lý tản mạn sang quản lý tập trung
phục vụ cho nghiên cứu chuyên sâu
nhằm tạo ra những sản phầm tri thức
mới, khi ấy lao động sáng tạo trở thành
linh hồn của nền kinh tế, kèm theo đó
những cơn “lốc chính trị” sẽ làm cho thể
chế nhà nước thay đổi theo.
Kinh tế tri thức sẽ ra đời như thế
nào?
Kinh tế tri thức có thể nảy sinh ra ở
bất kỳ nơi đâu, miễn là nơi đó có tư
tưởng đón đầu kinh tế tri thức, không hẳn
là kinh tế tri thức tuần tự xảy ra ở các
quốc gia phát triển sau mới lan đến các
quốc gia chậm phát triển.
Một số chính trị gia mẫn cảm cho
rằng từ năm 2010 trở đi thì sản phẩm tri
thức sẽ dần dần vượt sản phẩm truyền
thống, khoảng từ năm 2030 thì những
ngành công nghệ cao sẽ chiếm ưu thế và
nó làm cho bộ mặt thế giới thay đổi hẳn,
nửa cuối thế kỷ XXI, loài người sẽ chính
thức bước vào kinh tế tri thức.
Giáo dục phải tiên phong đi vào kinh
tế tri thức
Đảng ta từng khẳng định:
“ Con người là nguyên nhân của
mọi nguyên nhân, là động lực của mọi
nguồn động lực”
Điều đó cũng có nghĩa là Đảng ta
đặt ngành Giáo dục và Đào tạo nước nhà
đứng trước một nhiệm vụ vô cùng quan
trọng là cung ứng nguồn tài nguyên con
người cho sự nghiệp xây dựng đất nước
trong thời kỳ mới.
Tuy nhiên hiện nay trong xã hội
vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm trái
ngược nhau về quan điểm giáo dục trong
cơ chế thị trường.
Có ý kiến thì cho rằng không thể
coi giáo dục là thị trường, trường phải ra
trường, chợ phải ra chợ, không thể biến
trường thành chợ được, không thể thương
mại hóa giáo dục, nếu vậy thì sẽ đi ngược
với đạo lý truyền thống của dân tộc Việt
Nam.
Cũng có ý kiến lại cho rằng, kinh tế
đã chuyển sang cơ chế thị trường thì giáo
dục cũng phải chuyển sang cơ chế thị
trường, trong giáo dục cũng phải cạnh
tranh quyết liệt để tồn tại.
Trong thực tế hiện nay thì các
trường (trừ công lập) muốn tồn tại phải
chạy đua theo số lượng một cách quyết
liệt, việc tuyển sinh đang xảy ra muôn
hình muôn vẻ không khác gì việc cạnh
tranh để giành giật “ nguồn hàng” trên
thương trường, chỉ có điều khác là nguồn
hàng ở lĩnh vực giáo dục là con người, là
số lượng sinh viên đầu vào của các
trường mà thôi. Mặt khác, khách hàng
tiêu thụ sản phẩm của giáo dục hiện nay
ở nước ta chưa thực sự được tôn làm
“thượng đế”, và thực cũng chưa có ai
kiểm tra chất lượng sản phẩm giáo dục.
Bộ giáo dục đào tạo dù có quan tâm chất
Trường CĐ VH-NT & DL SG Số 1 năm 2011
124
lượng giáo dục cũng chỉ với tư cách là
người quản lý về mặt nhà nước, chứ chưa
thực sự là khách hàng trực tiếp sử dụng
sản phẩm giáo dục của các trường đào
tạo ra. Hơn nữa do kinh tế phát triển
nhanh, đầu tư nước ngoài tăng mạnh dẫn
đến sự thiếu hụt nguồn nhân lực trình độ
cao, trong khi đó chúng ta lại thừa lao
động phổ thông đến mức ồ ạt xuất khẩu
đi lao động nước ngoài cũng không hết
Xuất phát từ những lỗ hổng này dẫn
đến việc thời gian qua chúng ta đã tung ra
thị trường nhiều “hàng hóa” kém chất
lượng mà vẫn được xã hội chấp nhận, chỉ
có điều là nhà trường đào tạo kỹ sư thì
doanh nghiệp sử dụng làm công nhân kỹ
thuật, nhà trường đào tạo công nhân kỹ
thuật thì bị doanh nghiệp sử dụng giống
như lao động phổ thông, nhà trường đào
tạo cử nhân quản trị kinh doanh thì khi ra
trường được doanh nghiệp sử dụng làm
nhân viên tiếp thị, nhà trường đào tạo cán
bộ trung cấp văn thư thì ra trường được
doanh nghiệp sử dụng làm nhân viên trực
điện thoại .rõ ràng sản phẩm giáo dục
của chúng ta đã bị hạ chuẩn một cách tự
phát.
Về mặt lý luận, C. Mác cũng từng
đưa ra định nghĩa về thương mại như sau:
“Thương mại là sự trao đổi giữa
những vật ngang giá”
Khi đã là thị trường thì không ai
dùng lao động của mình để cung ứng sản
phẩm không công cho ai, bởi lẽ đơn giản
là không ai có thể sống bằng không khí
để tạo ra sản phẩm dịch vụ giáo dục. Do
vậy khi kinh tế chuyển sang cơ chế thị
trường thì cũng phải coi giáo dục là thị
trường, mà đã là thị trường thì sản phẩm
tri thức cũng trao đổi ngang giá theo quy
luật thị trường. Dù chúng ta có cố tình né
tránh về ngôn ngữ như thế nào đi chăng
nữa thì sự thật trước sau vẫn là sự thật.
Như vậy giữa thực tiễn và lý luận còn có
độ vênh nhất định, mà theo Einstein thì
khi lý luận và thực tiễn xuất hiện độ vênh
nhau thì phải điều chỉnh lại lý luận, nếu
vậy chẳng lẽ trong trường hợp này chúng
ta phải điều chỉnh lại đạo lý truyền thống
dân tộc Việt Nam hay sao?
Để giải quyết mâu thuẫn này,
không còn cách nào khác là chúng ta phải
đối diện với thực tiễn, phải đổi mới quan
điểm giáo dục, đổi mới phương pháp dạy
và học sao cho phù hợp với tình hình
thực tiễn, đáp ứng được nhu cầu mà xã
hội đặt ra trong thời kỳ mới.
Về việc đổi mới phương pháp dạy và
học
Việc dạy và học có đạt được kết
quả cao hay không, phụ thuộc rất lớn vào
năng lực dạy học của đội ngũ giảng viên
trong các trường. Điều đáng tiếc là không
ít người trong số các giảng viên dạy cao
đẳng và đại học không được trang bị
những kiến thức và kỹ năng dạy học ở
bậc đại học. Hiện nay tình trạng “Cơm
chấm cơm” còn xảy ra phổ biến ở nhiều
trường. một số trường hợp còn không đạt
Tạp chí VĂN HÓA VÀ DU LỊCH Nguyễn Xuân Tới
125
được tiêu chuẩn “Cơm chấm cơm”. Ví dụ
như trong bộ môn lý luận chính trị, các
trường đào tạo cử nhân triết học, khi sinh
viên ra trường được về một trường đại
học để giảng dạy môn triết học, trường
hợp này tạm chấp nhận là để “ cơm chấm
cơm”. Nhưng cũng có trường hợp sinh
viên đào tạo cử nhân triết học khi ra
trường về một trường đại học kinh tế để
giảng dạy cả môn kinh tế chính trị, mà
gần đây ta gọi chung là (nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa Mác – Lênin học phần 2),
trong trường hợp này rõ ràng chưa có
bằng cử nhân kinh tế chính trị mà lên lớp
giảng dạy môn kinh tế chính trị cho sinh
viên chuyên ngành kinh tế, thì có còn là
“Cơm chấm cơm nữa” hay không?
Mục tiêu của giáo dục đào tạo bậc
đại học là làm thay đổi tri thức và tăng
cường kỹ năng thực hành cho người học,
muốn vậy phải làm cho người học hiểu rõ
giá trị thực tiễn của các môn học trong
chương trình đào tạo và nhờ đó tạo cho
họ có xúc cảm với các môn học. Dạy học
muốn thành công phải tạo ra được động
cơ thúc đẩy từ cả hai phía Người dạy và
Người học, trong đó phía Người dạy là
điều kiện tiên quyết nâng cao chất lượng
dạy học. Do vậy yêu cầu đối với người
Thầy trước tiên phải là người yêu ngành,
yêu nghề và yêu người hơn ai hết. Thầy
phải là người thực sự say mê ham thích
với môn học mà mình phụ trách, phải có
chất lửa trong tim nhà giáo. Nếu Thầy
không say mê ham thích môn học thì
không thể nào làm cho người học say mê
ham thích môn học được, và khi người ta
đã không say mê ham thích với môn học
thì hoạt động dạy học chỉ là sự nhồi nhét
kiến thức và sẽ trở nên đơn điệu, nhàm
chán ( Học vẹt, dạy suông). Do đó có thể
nói sự say mê ham thích môn học của
người Thầy và nghệ thuật kích thích
người học say mê ham thích môn học là
yếu tố hết sức cần thiết trong hoạt động
dạy học. Tagore nói:
“Nhà giáo phải là ngọn đuốc, ngọn
đuốc không cháy sáng thì làm sao mồi
được lửa cho những ngọn đuốc khác”.
Chúng tôi từng dự một tiết học Lịch
sử Đảng mà cảm như mình đang được
sống trong khí thế hừng hực của cái thời
khắc lịch sử hào hùng, còn vẫn môn học
ấy, vẫn với nội dung ấy dự ở một lớp
khác thì sự truyền đạt khuôn sáo, rời rạc,
nhàm chán Rõ ràng chất lửa trong tim
nhà giáo kết hợp với nghệ thuật truyền
đạt là yếu tố quan trọng làm cho một tiết
giảng sống động hẳn lên.
Riêng đối với những môn Lý Luận
Chính Trị thì nguyên lý khoa học còn
phải hòa quyện vào tư tưởng, tình cảm,
tâm lý, nhân cách, đạo đức của ông thầy,
vì vậy cái tâm ông thầy phải trong sáng
hơn ai hết. Hiện nay giá trị con người
chưa có thước đo lường xác thực, vì vậy
theo chúng tôi tư chất cần thiết đối với
người thầy dạy các môn Lý luận chính trị
trước tiên phải là người có tư cách đạo
đức và lòng nhân ái cao cả, phải dạy đạo
đức bằng cách noi gương đạo đức.
Trường CĐ VH-NT & DL SG Số 1 năm 2011
126
Có một câu danh ngôn rằng: “Trẻ
con không nghe người lớn nói mà chúng
mở to mắt nhìn những việc người lớn
làm”
Bác Hồ cũng nói: “Một tấm gương
sống có giá trị hơn một trăm bài diễn
thuyết”
Mọi sai lầm trong sản xuất kinh
doanh đều có thể rút kinh nghiệm để sửa
chữa để lần sau làm tốt hơn, nhưng sai
lầm trong giáo dục, ông thầy chỉ một lần
cư xử mất đạo đức trước con mắt học trò
thì không thể sửa chữa, do đó trong giáo
dục không thể có thứ phẩm.
Muốn cảm hóa được người học thì
người thầy phải chủ động kết thân và gần
gũi với người học, ta có gần gũi chúng thì
chúng mới gần gũi ta, có gần gũi chúng
thì ta mới có thể giáo dục cảm hóa chúng
được, do đó gần gũi và kết thân với học
trò có thể coi là một nghệ thuật độc đáo
của hoạt động dạy học. Thực tế hiện nay
nhiều trường bố trí những lớp học quá
đông học viên, tôi đã từng dạy một lớp có
đến 600 sinh viên, trong giờ học mà kẻ ra
người vào tấp nập, thầy trò không nhìn rõ
mặt nhau thì làm thế nào để kết thân và
cảm hóa được con người?
Gần đây do khó khăn về cơ sở vật
chất, để khắc phục hạn chế lớp đông, một
số trường đã nảy sinh sáng kiến tận dụng
thế mạnh của công nghệ thông tin như
dạy học trực tuyến qua mạng, sử dụng
nhiều màn hình, sao in bài giảng của thầy
ra đĩa phát cho sinh viên và mở những
cuộc hội thảo về giảng dạy lớp đông
nhưng theo tôi vẫn không thể thay thế
được cái “ Nghệ thuật kết thân ” nêu trên,
máy móc hiện đại đến mấy cũng không
thể thay thế được tính nhân bản của nghề
dạy học.
Dạy học là cung cấp những cơ hội
đặc biệt để người học nhận thức rõ những
giá trị quan trọng và thực chất trong cuộc
sống. Do đó, yêu cầu đối với giảng viên
phải không ngừng nâng cao trình độ hiểu
biết. Thế giới của người thầy là thế giới
học tập, là cơ hội dành cho sự tự giáo
dục. Sự thoả mãn ham hiểu biết của nghề
thầy giáo thì không nghề nào có thể sánh
được. Trong khi giáo dục những người
khác, người thầy nhận ra những điểm yếu
và tiềm năng thế mạnh của chính bản
thân mình để tự điều chỉnh cho ngày càng
đạt đến mức hoàn thiện, do vậy: “Dạy tức
là học, học tức là dạy”.
Bác Hồ từng nói: “Người đi giáo
dục cũng phải được giáo dục” là vậy
Trong thời đại bùng nổ thông tin,
vai trò của người thầy không hề giảm đi
mà ngược lại ngày càng trở nên quan
trọng. Xưa kia chúng ta từng nghĩ về
người thầy như là người chế biến thông
tin, ngày nay nhận thức về vai trò người
thầy không phải dừng lại ở đó, vai trò
người thầy không chỉ pha trộn chế biến
tất cả những kiến thức mà sinh viên sẽ
cần cho cuộc đời họ sau khi ra trường,
mà giảng viên phải dạy cho sinh viên biết
cách học như thế nào? Sinh viên cần phải
Tạp chí VĂN HÓA VÀ DU LỊCH Nguyễn Xuân Tới
127
học cách học ở người thầy như thế nào?
Các cụ ta xưa kia đã nói: “ Cho cần câu
hơn cho xâu cá” - đây cũng chính là tư
tưởng cốt yếu của nền giáo dục hiện đại.
Cuối cùng, đã là giảng viên đại học
là phải nghiên cứu, nghiên cứu có tầm
quan trọng đặc biệt đối với giảng viên đại
học bởi các lẽ sau:
- Thứ nhất, không nghiên cứu sẽ bị
tụt hậu về kiến thức. Kết quả của nghiên
cứu sẽ đưa ra những cái mới, kết quả
nghiên cứu của giáo viên hoặc những
người khác trong cùng lĩnh vực sẽ tạo ra
những cơ sở để cập nhật nội dung của bài
giảng và thực hành.
- Thứ hai, có nghiên cứu thì giảng
viên mới có khả năng hướng dẫn việc
nghiên cứu của sinh viên. Những thay đổi
trong phương pháp nghiên cứu, đối
tượng, nội dung, các thủ tục phân tích và
tài liệu tham khảo hiện hành chỉ có thể
được biết bởi những giảng viên nào có
khả năng cập nhật hàng ngày nhờ nghiên
cứu.
Vì thế, công việc của giảng viên và
của sinh viên mà ta đang hướng dẫn sẽ
rất thuận lợi nếu như chúng ta tham gia
tích cực vào nghiên cứu.
Tóm lại, vai trò của người thầy
phải trở thành nhân tố kích thích trí tò mò
của sinh viên, mài sắc thêm năng lực
nghiên cứu độc lập, tăng cường khả năng
tổ chức và sử dụng kiến thức vào cuộc
sống, giúp cho sinh viên có được các
năng lực tự giáo dục suốt đời.
Phải sử dụng tốt công cụ hỗ trợ dạy
học
Để cho một bài giảng hấp dẫn cần
phải sử dụng linh hoạt nhiều phương
pháp giảng dạy trong từng hoàn cảnh cụ
thể một cách thích hợp, trong đó có các
phương pháp chủ yếu như: Thuyết trình,
dẫn dắt người học thông qua các câu hỏi
gợi mở, thảo luận nhóm, làm bài tập, trả
lời câu hỏi trắc nghiệm, học bằng cách
sắm vai đồng thời phải sử dụng tối đa
các công cụ hỗ trợ giảng dạy.
Theo một thống kê tin cậy, nếu chỉ
nghe bằng tai, người học chỉ có thể cảm
thụ tại chỗ 30% lượng tri thức, nghe kết
hợp với nhìn, người học có thể cảm thụ
50% lượng tri thức, kết hợp nghe, nhìn,
giải bài tập tình huống, người học có thể
cảm thụ đến 80% lượng tri thức.
Do vậy, kết hợp giữa ngôn ngữ nói,
viết và minh họa bằng âm thanh, hình
ảnh chắc chắn sẽ làm cho hoạt động nhận
thức đạt hiệu quả cao hơn. Vì vậy việc
ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng
dạy có ưu thế hơn hẳn so với lối dạy học
cổ truyền dùng bảng đen, phấn trắng .
Trước khi lên lớp giảng bài, theo
chúng tôi thì thầy cần cho trước sinh viên
nội dung bài đọc, trang bài đọc chia làm
hai phần, một phần ghi vắn tắt đề cương
chi tiết bài giảng (hay gọi là bài đọc),
phần còn lại để trống cho sinh viên ghi
Trường CĐ VH-NT & DL SG Số 1 năm 2011
128
lời giảng của thầy, như vậy sinh viên đã
có sẵn đề cương chi tiết bài giảng, trên
lớp không phải ghi lại đề mục mà chỉ ghi
những gì thật cần thiết để minh họa, cách
học này tạo điều kiện cho sinh viên ít
phải ghi và có điều kiện suy ngẫm hiểu
bài ngay tại lớp.
Trong khi giảng, thầy nên lật ngược
lật xuôi vấn đề, đặt ra nhiều câu hỏi khêu
gợi óc suy luận của người học. Kinh
nghiệm cho thấy một tiết giảng nên đưa
ra khoảng 5 đến 6 câu hỏi gợi mở, câu
hỏi sẽ có tác động công não mạnh mẽ.
Cần phải biến việc cho điểm phát biểu
xây dựng bài trở thành công cụ hữu hiệu
khuyến khích sự đào sâu suy nghĩ của
sinh viên, tạo cho sinh viên được đối
thoại trên lớp làm cho khí thế lớp lúc nào
cũng sôi động. Nên có nhiều hình ảnh,
âm thanh, video, biểu đồ, đồ thị, số
liệu để dẫn chứng minh họa đúng nơi,
đúng chỗ càng làm cho bài giảng sinh
động và có sức thuyết phục cao.
Yêu cầu đối với người học
Thứ nhất, cần phải có đủ phương
tiện để sẵn sàng học tập như: Giáo trình,
tài liệu nghiên cứu, tài liệu tham khảo
cùng các phương tiện hỗ trợ khác.
Thứ hai, phải dự giờ đầy đủ, lắng
nghe, ghi chép nói chung là phải có
tinh thần chăm chỉ và cầu thị vì thành
công trong học tập không bao giờ đến với
kẻ thờ ơ và lười biếng.
Thứ ba, người học cần tự quản lý
về thời gian cũng như làm việc một cách
độc lập (tiến hành những nghiên cứu
trong chương trình đào tạo của mình).
Thứ tư, người học phải có quan
điểm học tập thực sự, đó là tập trung vào
việc hình thành kiến thức, óc sáng tạo,
cách giải quyết vấn đề và những kinh
nghiệm học tập ở phổ thông, mà đặc
trưng là chịu sự kiểm soát từ bên ngoài.
Cách thức dạy và học truyền thống
(đặc biệt là học vẹt) sẽ không đem lại
hiệu quả mong muốn, hoạt động dạy và
học chỉ đạt hiệu quả cao khi đối tượng
đứng trước “Hoàn cảnh có vấn đề”. Vậy
bản thân người học phải nhận thức được
vai trò quan trọng của môn học đối với
chương trình đào tạo và tương lai cuộc
sống sau này, từ đó tạo động cơ để người
học chủ động tìm hiểu kiến thức một
cách tự giác dưới sự hướng dẫn của thầy.
Như vậy học có nghĩa là biến quá
trình đào tạo của nhà trường thành quá
trình tự đào tạo của sinh viên. Muốn vậy
người học phải có thái độ tích cực trong
học tập như: Tự giác tìm hiểu, không thụ
động, trong giờ giảng phải tích cực tham
gia phát biểu xây dựng bài, không ngại
tranh luận, tìm hiểu những tài liệu có liên
quan tới môn học, có tinh thần phê phán
trong học tập đừng nghĩ rằng tri thức
sách vở đều đúng 100% , đừng nghĩ rằng
thầy nói là đúng 100%, phải hoài nghi,
phải phản biện, thậm chí phải bác bỏ nếu
có chứng cứ.
Tạp chí VĂN HÓA VÀ DU LỊCH Nguyễn Xuân Tới
129
Yêu cầu đối với nhà quản lý giáo dục
Dạy học là dạy cách học, học tập
là học cách học. Do đó nhà quản lý phải
tạo cho sinh viên được tiếp cận một môi
trường giáo dục tốt nhất, cụ thể là:
- Môi trường quản lý thân thiện và
thu hút được những người thầy tuyệt vời.
- Âm thanh, ánh sáng, thiết bị
phòng học tốt, có thư viện phong phú tư
liệu
- Có phần mềm đào tạo trực tuyến
và các trang Web cần thiết cho sinh viên
tham khảo.
Nếu điều kiện cho phép, nên cho
sinh viên đi nghiên cứu thực tế, hoặc mô
phỏng sắm vai Cần phải đặt người học
vào vị trí trung tâm, họ là đối tượng phục
vụ chính trong nhà trường, nếu không
muốn nói là “Thượng đế”. Vì vậy hoạt
động trong nhà trường phải hướng tất cả
vào phục vụ cho việc dạy và học.
Cần tạo cơ chế lành mạnh để sinh
viên đánh giá giảng viên. Đảm bảo cho
toàn bộ cộng đồng nhà trường, kể cả sinh
viên cảm thấy hứng thú với những điều
kiện sống và làm việc thuận lợi. Thành
lập các thể chế để giám sát và đánh giá
chất lượng của các dịch vụ mà nhà
trường phải cung cấp cho người học.
Bài viết này xuất phát từ những tư
tưởng mang tính mô phỏng, các tài liệu
tham khảo như: Kinh tế tri thức của giáo
sư Trung Quốc Ngô Quỹ Tùng, bàn về
giáo dục của Giáo sư Trần Phương đều
là những tài liệu còn mang tính bàn luận,
gợi mở để ngỏ vấn đề, do đó chắc chắn
còn nhiều thiếu sót, mong nhận được ý
đóng góp của quý bạn đọc để cho vấn đề
ngày càng hoàn thiện hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ngô Quỹ Tùng. Kinh tế tri thức. Nhà xuất bản Bắc kinh.
2. Trần Phương. Bàn về giáo dục. Tạp chí người quản lý.
3. Hoàng Trinh. Văn hóa thị trường.
4. Man Tấn Hải. Sổ tay nhà giáo. Đại học Bách khoa Tp. Hồ Chí Minh.
5. Trần Đình Nghiêm. Tham luận về nâng cao chất lượng giảng dạy. ĐHKHTN Tp.
Hồ Chí Minh.
6. Các bài báo đăng về kinh tế tri thức & công nghệ hiện đại.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 15_nguyen_xuan_toi_5463.pdf