Thứ nhất, xu hướng gia tăng của hàng
xuất khẩu Việt Nam vào thị trường Nhật
Bản sẽ tiếp tục được khẳng định do (1) tiềm
năng thị trường vẫn còn rất lớn (Hàng xuất
khẩu của Viêṭ Nam mới chiếm khoảng 1%
tổng kim ngạch nhập khẩu của Nhật Bản,
thấp xa so với một số nước ASEAN khác);
(2) nhu cầu tái thiết vùng Đông Bắc của
Nhật Bản về các mặt hàng thiết yếu và xây
dựng như dệt may, thủy hải sản, đồ gỗ, cao
su vẫn rất cao. Đây chính là những mặt
hàng mà Việt Nam có thế mạnh; (3) đồng
yên mạnh cũng góp phần làm tăng thêm khả
năng cạnh tranh cho hàng xuất khẩu của
Việt Nam vào thị trường Nhật Bản.
Thứ hai, sau chuyến thăm của Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng đến Nhật Bản, hai bên đã
chính thức khởi động giai đoạn IV Sáng
kiến chung Việt Nam - Nhật Bản về cải
thiện môi trường đầu tư của Việt Nam với
70 hạng mục, hứa hẹn đưa mối quan hệ hợp
tác kinh tế, thương mại song phương giữa
hai nước lên tầm cao mới. Không chỉ xuất
khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản gia tăng
mà hàng nhập khẩu máy móc, thiết bị, vật tư
từ Nhật Bản vào Việt Nam theo các hợp
đồng đầu tư xây dựng cũng sẽ gia tăng
mạnh.
8 trang |
Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 558 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kinh tế Nhật Bản một năm sau thảm họa kép: thành tựu, thách thức và triển vọng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KINH TẾ NHÂṬ BẢN MÔṬ NĂM SAU THẢM HOA ̣KÉP:
THÀNH TƯỤ, THÁCH THỨC VÀ TRIỂN VOṆG
TRẦN QUANG MINH*
Năm 2011 là một năm đầy khó khăn của
kinh tế Nhật Bản khi quốc gia này phải vật
lộn với hậu quả nặng nề của cuộc khủng
hoảng 3 trong một: động đất, sóng thần và
sự cố nhà máy điện hạt nhân Fukushima I.
Thêm vào đó là những diễn biến phức tạp
của kinh tế thế giới, trong đó hai mối họa
lớn nhất là nợ công châu Âu và khủng hoảng
kinh tế Mỹ. Mặc dù phải đối mặt với rất
nhiều khó khăn như vậy song kinh tế Nhật
Bản năm 2011 đã đạt được những thành tựu
rất đáng khâm phục. Bài viết này tập trung
phân tích những thành tựu nổi bật của kinh
tế Nhật Bản một năm sau thảm họa ngày
11/3/2011; rút ra một số bài học kinh
nghiệm từ Nhật Bản sau thảm họa này; đánh
giá những khó khách thách thức hiện tại và
triển vọng của kinh tế Nhật Bản và quan hệ
kinh tế Việt Nam – Nhật Bản năm 2012.*
1. Thành tựu nổi bật của kinh tế Nhật
Bản năm 2011
Thành tựu của kinh tế Nhật Bản được thể
hiện rõ nét trên 3 lĩnh vực chủ yếu là: (1)
Tái thiết khu vực Đông Bắc; (2) Xử lý sự cố
nhà máy điện hạt nhân Fukushima I; và
(khôi phục mạnh mẽ hoạt động sản xuất và
xuất khẩu của các ngành công nghiệp.
Thứ nhất, về tái thiết khu vực Đông Bắc:
như chúng ta đã biết sau thảm họa kép ngày
* TS. Viêṇ nghiên cứu Đông Bắc Á
11/3/2011, khu vực Đông Bắc Nhật Bản gần
như bị phá hủy hoàn toàn bởi động đất và
sóng thần để lại cho chính quyền và nhân
dân Nhật Bản những khó khăn chồng chất
tưởng như khó có thể khắc phục ngay được.
Đó là vấn đề cứu hộ, cứu nạn tìm kiếm hàng
ngàn người vẫn còn bị chôn vùi trong các
đống đổ nát; thu xếp nơi ăn chỗ ở cho hàng
trăm ngàn người nhà cửa, ruộng vườn bị
sóng thần tàn phá; đó là vấn đề dọn dẹp các
đống đổ nát và xây dựng lại cơ sở hạ tầng và
các nhà máy xí nghiệp, thu xếp việc làm và
ổn định đời sống nhân dân ở các vùng bị
thiên tai. Nhiều người cho rằng Nhật Bản sẽ
phải mất vài năm, thậm chí lâu hơn nữa để
dọn dẹp các đống đổ nát và xây dựng lại từ
đầu. Vậy mà chỉ sau một năm Nhật Bản đã
về cơ bản giải quyết được những khó khăn
này. Diện mạo của khu vực Đông Bắc Nhật
Bản sau một năm đã hoàn toàn thay đổi đến
mức người ta không thể hình dung nổi cảnh
tượng kinh hoàng đã xẩy ra một năm trước
đây. Có thể nói đó là một sự hồi sinh rất
đáng khâm phục.
Thứ hai, về việc xử lý sự cố nhà máy điện
hạt nhân: có thể nói sau sự cố nổ các lò phản
ứng ở nhà máy điện hạt nhân Fukushima I,
Nhật Bản đứng trước một cuộc khủng hoảng
nghiêm trọng không chỉ về hạt nhân mà còn
về lòng tin của người dân, của cộng đồng
quốc tế đối với chính quyền trong việc quản
lý và điều hành các nhà máy điện hạt nhân.
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 4/2012
10
Nhiều người cho rằng Fukushima I còn tệ
hại hơn cả Cherknobyl (Nga). Sau sự cố
này, hàng loạt nhà máy điện hạt nhân của
Nhật Bản đã phải đóng cửa để kiểm tra mức
độ an toàn1. Và tưởng như Nhật Bản sẽ phải
đoạn tuyệt với năng lượng điện hạt nhân
trong khi nguồn năng lượng này cung cấp
tới 30% tổng điện năng của cả nước. Tuy
nhiên, sau một năm nhìn lại, chúng ta thấy
điều đó đã không xẩy ra. Các lò phản ứng
hạt nhân bị nổ đã dần dần được làm nguội;
mức độ rò rỉ phóng xạ đã được kiểm soát;
các phóng viên đã được phép vào khu vực
nhà máy để tác nghiệp Niềm tin đối với
năng lượng hạt nhân dần dần được lấy lại,
nhiều nhà máy điện hạt nhân đang được xem
xét hoạt động trở lại2; các hợp đồng xây
dựng nhà máy điện hạt nhân với nước ngoài
tiếp tục được xúc tiến3 Là một quốc gia
nghèo về tài nguyên thiên nhiên, năng lượng
điện hạt nhân là một trong những nguồn
năng lượng quan trọng đối với nước Nhật.
Việc tiếp tục duy trì và lấy lại được niềm tin
đối với nguồn năng lượng này là hết sức
thiết yếu. Có thể nói đây cũng là một thành
công rất đáng kể đối với kinh tế Nhật Bản
trong năm qua.
Thứ ba, về việc khôi phục hoạt động sản
xuất và xuất khẩu của các ngành công
nghiệp: Sau thảm họa kép ngày 11/3/2011,
nhiều nhà máy thuộc các ngành công nghiệp
quan trọng như ô tô, hóa dầu, và chất bán
dẫn tại khu vực Đông Bắc Nhật Bản đã phải
đóng cửa đặt các ngành công nghiệp trong
nước và xuất khẩu trước tình trạng thiếu
nghiêm trọng về phụ tùng và thiết bị. Theo
ước tính thiệt hại kinh tế lên đến gần 300 tỉ
đô la Mỹ, tương đương 2% tổng sản phẩm
quốc nội (GDP) của Nhật Bản, cao hơn so
với thiệt hại của trận động đất Kobe năm
1995. Tốc độ tăng GDP quý I năm 2011 là -
1,8%, quý II là -0,3%. Tuy nhiên, chỉ sau
hơn 3 tháng kể từ ngày 11/3/2011, sản xuất
của các ngành công nghiệp trong nước về cơ
bản đã được phục hồi, xuất khẩu tăng, đặc
biệt là ngành sản xuất xe hơi. Tốc đô ̣ tăng
GDP quý III đạt 1,7%. Đây là một con số rất
ấn tượng đối với một nền kinh tế đã trải qua
hai thập kỷ trì trệ và những thiệt hại nặng nề
sau thảm họa kép cách đây một năm.
Hiǹh 1. Tốc độ tăng trưởng GDP
Nhật Bản theo Quý
Nguồn:
growth
2. Một số bài học kinh nghiệm từ việc
khắc phục thảm họa ngày 11/3/2011 của
Nhật Bản
Những thành quả mà người dân Nhật Bản
kiên cường vượt qua nỗi đau, khẩn trương
tái thiết đất nước một lần nữa khiến chúng ta
phải ngưỡng mộ. Từ những thành tựu mà
Nhật Bản đã đạt được qua việc khắc phục
thảm họa thiên nhiên và tái thiết đất nước,
chúng ta có thể rút ra một số bài học kinh
nghiệm để tham khảo.
Thứ nhất, vấn đề giáo dục ý thức của
người dân. Báo chí đã nói nhiều đến sự bình
tĩnh, tinh thần tương thân tương ái, đến trật
tự xã hội ở những khu vực bị thiên tai tàn
Kinh tế Nhâṭ Bản...
11
phá của Nhật Bản. Tại sao trước tình cảnh
đổ nát, hoang tàn của cả một vùng đất đai,
thành thị, làng mạc rộng lớn như vậy mà
người Nhật Bản, cho dù rất đau buồn, vẫn
rất bình tĩnh giúp đỡ lẫn nhau vượt khó;
Không có tình trạng hôi của, cướp bóc, trấn
lột; không có bất cứ một sự lộn xộn nào về
mặt xã hội. Mọi người bình tĩnh xếp hàng để
mua từng mặt hàng nhu yếu phẩm, hoặc
bình tĩnh tuân theo sự sắp xếp của các đội
công tác cứu hộ Không phải ngay lập tức
hoặc tự nhiên mà người Nhật Bản có được
phẩm chất như vậy. Phẩm chất đó đã được
hình thành từ rất sớm trong quá trình giáo
dục và đào tạo không chỉ ở nhà trường mà
ngay trong từng gia đình và cộng đồng xã
hội.
Thứ hai, công tác chuẩn bị để sẵn sàng
ứng phó với những hậu quả của thiên tai.
Nhật Bản là quốc gia nằm trong khu vực
hoạt động thường xuyên của động đất, sóng
thần nên công tác chuẩn bị để sẵn sàng ứng
phó với hậu quả của những thảm họa này đã
được chuẩn bị khá chu đáo. Sự chuẩn bị ở
đây không chỉ về tài chính, phương tiện, và
máy móc thiết bị mà còn là về con người.
Nhật Bản đã thành lập từ rất sớm các cơ
quan quản lý và điều hành công tác cứu hộ,
cứu nạn. Các đội cứu hộ cứu nạn được huấn
luyện và tập dượt các kỹ năng và rất có kinh
nghiệm nghề nghiệp. Nhờ đó, Nhật Bản đã
khắc phục khá nhanh chóng những hậu quả
của trận động đất và sóng thần và sớm bắt
tay vào tái thiết khu vực này.
Thứ ba, quan hệ hợp tác quốc tế. Phải
khẳng định rằng, trong việc khắc phục các
sự cố của nhà máy điện hạt nhân Fukushima
I và việc giải quyết những khó khăn sau
thảm họa động đất, sóng thần ở khu vực
Đông Bắc Nhật Bản, cộng đồng quốc tế đã
có những hỗ trợ hết sức kịp thời và hiệu quả.
Không phải ngẫu nhiên mà các nước đã cảm
thông, chia sẻ những khó khăn và chung sức
cùng với Nhật Bản trong việc khắc phục
những hậu quả của thiên tai và tái thiết đất
nước như vậy. Đó chính là nhờ những thành
công trong việc xây dựng và phát triển các
quan hệ quốc tế của Nhật Bản.
3. Một số khó khăn, thách thức đối với
kinh tế Nhật Bản hiện nay
Kinh tế Nhật Bản sau một năm kể từ
thảm họa kép mặc dù đang trên đà phục hồi
với những tín hiệu rất khả quan, song vẫn
đang phải đối mặt với khá nhiều khó khăn,
thách thức kể cả trong nước và nước ngoài
như đồng yên tăng giá, nợ công cao, tác
động của khủng hoảng nợ công châu Âu và
những bất ổn chính trị ở Trung Đông.
- Thứ nhất, đồng tiền Yên tăng giá:
Diễn biến tỷ giá Yen/USD trong năm
2011 khá phức tạp. Sau thảm họa kép động
đất, sóng thần đồng yên tăng giá mạnh so
với đồng đô la Mỹ. Tỷ giá yên/đô la có lúc
xuống đến 76,3 yên đổi một đô la, mức kỷ
lục từ sau Chiến tranh thế chiến thứ 2. Kể từ
tháng 9/2010, Nhật Bản đã 3 lần đơn
phương can thiệp vào thị trường tiền tệ và
một lần hành động cùng với nhóm các nước
G7 để giảm giá trị đồng yên. Lần đầu tiên
vào tháng 3/2011, Ngân hàng trung ương
Nhật Bản (BOJ) đã chi 692,5 tỷ yên để mua
đô la; lần thứ hai vào tháng 8/2011: 4.000 tỷ
yên (khoảng 51 tỷ USD); và lần gần đây
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 4/2012
12
nhất vào tháng 10/2011: 8.000 tỷ yên
(khoảng 102 tỷ USD).
Hiǹh 2. Tỷ giá Yen/USD
Nguồn:
Đồng yên tăng giá tác động tiêu cực lên
các mặt hàng xuất khẩu của Nhật Bản, làm
cho sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu Nhật
Bản trên thị trường thế giới giảm đi; đồng
thời lại làm gia tăng lượng hàng nhập khẩu
vào thị trường Nhật Bản. Xuất khẩu của
Nhật Bản trong tháng 10/2011 đã giảm
3,7%. Trong đó, xuất khẩu sang Trung
Quốc, đối tác thương mại lớn nhất của Nhật
Bản, giảm 7,7%; sang Hoa Kỳ giảm 2,3%,
sang châu Âu giảm 2,9%.
Hiǹh 3. Kim ngạch xuất khẩu của
Nhật Bản (tỷ Yên)
Nguồn:
Sức cạnh tranh giảm sút cũng đồng nghĩa
với việc làm suy giảm sản xuất trong nước
và cán cân thương mại chuyển dịch theo
hướng thâm hụt (nhập nhiều hơn xuất). Sau
một nửa thế kỷ thặng dư thương mại, Nhật
Bản giờ đây đang phải đối mặt với tình trạng
thâm hụt thương mại. Nếu như trong những
năm 1980 và những năm 1990, thặng dư
thương mại khổng lồ của Nhật Bản là mục
tiêu theo đuổi của nhiều nước trong đó có cả
Mỹ và châu Âu thì trong tháng 1 năm 2012,
thâm hụt thương mại của Nhật Bản đã vượt
quá con số 1.400 tỷ yên (tương đương 19 tỷ
USD).
Hiǹh 4. Thâm hụt thương mại của
Nhật Bản (tỷ Yên)
Nguồn:
trade
Thâm hụt thương mại đến lượt nó lại làm
giảm dự trữ ngoại tệ và làm cho cán cân
thanh toán quốc tế chuyển dịch theo chiều
hướng xấu. Tính đến hết tháng 12 năm
2011, mức thặng dư cán cân thanh toán quốc
tế của Nhật Bản chỉ đạt 562,4 tỷ yên, giảm
mạnh từ mức 2.017 tỷ yên cùng kỳ năm
trước.
Hiǹh 5. Thặng dư tài khoản vãng lai
Nhật Bản (tỷ Yên)
Nguồn:
account
Kinh tế Nhâṭ Bản...
13
Mặc dù hiện tại, cán cân thanh toán quốc
tế của Nhật Bản vẫn giữ thặng dư. Tuy
nhiên, mức thặng dư này cũng có thể biến
mất trong một vài năm tới nếu tình trạng
thâm hụt thương mại vẫn tiếp tục tiếp diễn.
Theo dự báo của một số nhà kinh tế cán cân
thanh toán quốc tế của Nhật Bản sẽ thâm hụt
vào năm 2015.
- Thứ hai, vấn đề nợ công:
Nợ công của Nhật Bản trong những năm
gần đây đã tăng đến mức kỷ lục xấp xỉ
200% GDP và vẫn tiếp tục tăng lên qua từng
năm. Hiện nay đã đạt con số hơn 13.800 tỷ
USD so với tổng sản phẩm quốc nội khoảng
6.000 tỷ USD và được dự báo vẫn tiếp tục
tăng do Chính phủ vẫn phải tiếp tục phát
hành trái phiếu nhằm đáp ứng nhu cầu chi
tiêu công. Theo IMF, nếu nợ công của Nhật
Bản tăng lên 1% thì lãi suất phải thanh toán
lên tới 2% GDP và càng làm cho nợ thêm
chồng chất. Nợ công tăng cũng làm cho thị
trường chứng khoán Nhật Bản mất điểm
mạnh. Chỉ số Nikkei-225 hiện đã tụt xuống
mức hơn 8.000 điểm, là mức thấp nhất kể từ
tháng 3/2009 tới nay.
Mặc dù nguy cơ vỡ nợ của Nhật Bản thấp
hơn nhiều so với các nước khu vực đồng
Euro do 95% trái phiếu chính phủ nằm trong
tay các nhà đầu tư trong nước. Nhưng trước
áp lực của cộng đồng quốc tế, Chính phủ
Nhật Bản buộc phải tìm những giải pháp
hiệu quả để giảm nợ công. Tuy nhiên, hiện
nay việc giải quyết vấn đề nợ công của Nhật
Bản đang phải đối mặt với hai thách thức.
Một là, tỉ lệ tiết kiệm giảm sút do tình
trạng lão hóa dân số. Số người ở độ tuổi về
hưu đang tăng. Họ phải rút tiền tiết kiệm để
chi tiêu vào lúc tuổi già. So với thời kỳ
hoàng kim những năm 1980, khi mà tỷ lệ
tiết kiệm ở Nhật Bản lên tới mức 20% thì
hiện nay con số này đã tụt xuống còn 5%.
Theo dự báo của một số nhà kinh tế, tỷ lệ
tiết kiệm của Nhật Bản sẽ tụt xuống mức
dưới 0% trong những năm tới. Tiết kiệm
trong nước giảm, việc giải quyết vấn đề nợ
công chủ yếu dựa vào nguồn thu thuế và vay
mượn nước ngoài. Dự kiến năm 2013, mỗi
người dân Nhật Bản phải đóng thêm 2,1%
tiền thuế và đến năm 2015, thuế tiêu thụ
tăng lên hai lần mức 5% hiện nay.
Hai là, lãi suất công trái dài hạn thấp.
Hiện lãi suất công trái dài hạn của Nhật Bản
chỉ ở mức 1,3%. Đây là mức lãi suất thấp
nhất trong số các quốc gia công nghiệp phát
triển. Với mức lãi suất thấp như vậy, các nhà
đầu tư nước ngoài không muốn đầu tư vào
trái phiếu Nhật Bản. Vì thế, việc vay tiền
nước ngoài bằng cách phát hành công trái
quốc tế cũng không mấy khả quan.
Với những khó khăn trên, theo quan điểm
của một số nhà phân tích tài chính, Nhật
Bản rất có thể sẽ là một “bản sao” của Hy
Lạp, nhưng với hậu quả tiêu cực gấp bội. Có
người còn ví von rằng khủng hoảng nợ công
châu Âu chỉ là “khúc dạo đầu” còn nếu
khủng hoảng nợ công Nhật Bản nổ ra thì đó
mới thực sự là một “bản đại giao hưởng”.
Mặc dù Chính phủ Nhật Bản vẫn trấn an dư
luận rằng nợ công của Nhật Bản phần lớn là
khoản nợ từ dân chúng trong nước, nên vẫn
có thể đứng vững so với các nước khác. Tuy
nhiên, sự tương tác lẫn nhau giữa châu Âu
và Nhật Bản đang làm cho dư luận các nước
lo ngại rằng nếu như “sương mù nợ công”
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 4/2012
14
tiếp tục tăng lên dày đặc và kéo dài sẽ làm
cho tín nhiệm tài chính của Nhật Bản bị hạ
thấp hơn nữa, hậu quả tất sẽ gây ra chấn
động chẳng kém gì trận động đất và sóng
thần ngày 11/3/2011.
- Thứ ba, tác động của cuộc khủng hoảng
nợ công tại châu Âu:
Có thể có rất nhiều tác động xung quanh
cuộc khủng hoảng này, song, ở đây chúng
tôi chỉ xin đề cập đến 2 tác động liên quan
trực tiếp đến Nhật Bản về thương mại và tài
chính.
Về mặt thương mại, châu Âu là một trong
những thị trường xuất khẩu lớn của Nhật
Bản. Kinh tế các nước châu Âu lâm vào
khủng hoảng, nhu cầu nhập khẩu giảm sút
làm cho lượng hàng xuất khẩu từ Nhật sang
khu vực này giảm mạnh. Chỉ tính riêng
tháng 1/2012, thặng dư thương mại của Nhật
Bản với Liên minh châu Âu (EU) đã giảm
tới 98,9% xuống còn 700 triệu yên do nhu
cầu nhập khẩu ô tô và thiết bị điện tử vào thị
trường này giảm mạnh.
Về mặt tài chính, Nhật Bản là nước nắm
giữ một lượng trái phiếu khá lớn của các
quốc gia khu vực đồng Euro. Theo Quy ̃tiền
tê ̣Quốc tế (IMF) hiện nay lượng trái phiếu
châu Âu mà Nhật Bản nắm giữ lên tới 30,8
tỉ USD, chỉ đứng sau hai nước lớn của EU là
Pháp và Đức. Do khủng hoảng nợ công, các
nước EU không có khả năng thanh toán
khoản trái phiếu này làm cho tình hình nợ
công của Nhật Bản càng trở nên nghiêm
trọng.
- Thứ tư, những bất ổn xẩy ra ở Trung
Đông:
Những bất ổn xẩy ra ở Trung Đông, đặc
biệt là Iran hiện nay, có tác động đáng kể
đối với nguồn dầu nhập khẩu của Nhật Bản
bởi vì phần lớn lượng dầu nhập khẩu của
Nhật Bản là từ khu vực này. Hơn nữa, đối
với Nhật Bản hiện nay, nhu cầu dầu thô là
vô cùng cấp bách để chạy nhiệt điện trong
bối cảnh hậu khủng hoảng nhà máy điện hạt
nhân Fukushima I. Hiện nay, vấn đề trừng
phạt kinh tế đối với Iran đang được Mỹ phát
động. Nhật Bản là khách hàng nhập dầu thô
lớn thứ nhì của Iran và Iran cũng là nước
cung cấp dầu lớn thứ tư cho Nhật Bản (sau
Ả Rập Xê Út; Các Tiểu Vương quốc Ả Rập
thống nhất; và Qatar). Lượng dầu thô nhập
khẩu từ Iran chiếm khoảng 10% tổng lượng
nhập khẩu dầu thô của Nhật Bản. Hiện nay,
mặc dù những bất ổn chưa thực sự xẩy ra ở
Iran, song trước yêu cầu của Mỹ, Nhật Bản
đã tuyên bố giảm lượng dầu nhập khẩu từ
Iran xuống mức 8,6% nhằm góp phần trừng
phạt kinh tế Tehran do chương trình hạt
nhân của quốc gia Hồi giáo này. Nhật Bản
đã phải yêu cầu các nước Ả Rập tăng xuất
khẩu cho Nhật để bù lại lượng dầu thiếu hụt.
4. Triển vọng kinh tế Nhật Bản năm
2012 và quan hệ thương mại Việt Nam –
Nhật Bản
Mặc dù còn phải đối mặt với khá nhiều
khó khăn, song theo một số dự báo, kinh tế
Nhâṭ Bản năm 2012 se ̃ tăng trưởng dương
do sản xuất công nghiêp̣ tăng trở laị nhờ gói
kích thích tài chính phát huy tác duṇg trong
khi quá trình tái thiết sau thảm hoạ tăng tốc.
Những tín hiệu tích cực trong những
tháng đầu năm 2012 đã cho thấy triển vọng
kinh tế của Nhật Bản năm nay khá khả quan.
Kinh tế Nhâṭ Bản...
15
Đơn đặt hàng tăng lên; Sản lượng công
nghiệp tháng 12/2011 tăng 3,8%, tháng
1/2012 tăng 2%; dự tính tháng 2 và tháng 3
tăng khoảng 1,7%. Văn phòng Nội các Nhật
Bản mới đây đã cho biết chỉ số tiêu dùng
vốn tương lai đã tăng 3,4%, cao hơn mức dự
đoán trước đó (vào tháng 12/2011, chỉ số
này giảm 7,1%). Chỉ số Nikkei 225 đã vượt
10.000 điểm lần đầu tiến trong vòng 7 tháng
qua trong bối cảnh gói cứu trợ Hi Lạp được
đảm bảo và triển vọng gia tăng xuất khẩu
của Nhật Bản tới thị trường châu Âu. Các
nhà sản xuất thiết bị trong đó có Fanuc,
Tokyo Election cho biết họ đã đạt mức tăng
trưởng cao trong thời gian vừa qua. Doanh
số bán lẻ và sản xuất công nghiệp tháng
1/2012 cũng tăng 2%, vượt mức dự đoán
của các nhà kinh tế. Theo dự báo của Quỹ
tiền tệ quốc tế (IMF), GDP của Nhật Bản
năm 2012 sẽ tăng trưởng 1,7%; sản xuất
công nghiêp̣ se ̃tăng trung bình 9,5%.
Kinh tế Nhật Bản phục hồi cũng báo hiệu
một triển vọng tốt đẹp của quan hệ kinh tế
giữa Việt Nam và Nhật Bản; đặc biệt là
trong lĩnh vực thương mại. Trong nhiều năm
qua, Nhật Bản luôn là một trong 3 đối tác
kinh tế hàng đầu của Việt Nam. Tổng kim
ngạch thương mại hai chiều giữa Việt Nam
và Nhật Bản luôn vận động theo xu hướng
đi lên với tốc độ tăng trưởng trung bình
hàng năm khoảng 20%, dường như không
có năm nào đi xuống trừ năm 2009 do
khủng hoảng tài chính toàn cầu. Năm 2011
tổng kim ngạch buôn bán giữa hai nước đã
đạt trên 21 tỷ USD vượt xa so với dự kiến
đặt ra. Hiện nay hai nước đang đặt mục tiêu
nâng tổng kim ngạch lên gấp 1,5 lần đạt 30
tỷ USD vào năm 2015. Chỉ qua những con
số này cũng có thể dự đoán được chiều
hướng vận động tích cực của hoạt động đầu
tư và thương mại Việt – Nhật trong năm
nay. Ngoài ra có thể kể thêm một số lý do để
khẳng định xu hướng này:
Thứ nhất, xu hướng gia tăng của hàng
xuất khẩu Việt Nam vào thị trường Nhật
Bản sẽ tiếp tục được khẳng định do (1) tiềm
năng thị trường vẫn còn rất lớn (Hàng xuất
khẩu của Viêṭ Nam mới chiếm khoảng 1%
tổng kim ngạch nhập khẩu của Nhật Bản,
thấp xa so với một số nước ASEAN khác);
(2) nhu cầu tái thiết vùng Đông Bắc của
Nhật Bản về các mặt hàng thiết yếu và xây
dựng như dệt may, thủy hải sản, đồ gỗ, cao
su vẫn rất cao. Đây chính là những mặt
hàng mà Việt Nam có thế mạnh; (3) đồng
yên mạnh cũng góp phần làm tăng thêm khả
năng cạnh tranh cho hàng xuất khẩu của
Việt Nam vào thị trường Nhật Bản.
Thứ hai, sau chuyến thăm của Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng đến Nhật Bản, hai bên đã
chính thức khởi động giai đoạn IV Sáng
kiến chung Việt Nam - Nhật Bản về cải
thiện môi trường đầu tư của Việt Nam với
70 hạng mục, hứa hẹn đưa mối quan hệ hợp
tác kinh tế, thương mại song phương giữa
hai nước lên tầm cao mới. Không chỉ xuất
khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản gia tăng
mà hàng nhập khẩu máy móc, thiết bị, vật tư
từ Nhật Bản vào Việt Nam theo các hợp
đồng đầu tư xây dựng cũng sẽ gia tăng
mạnh.
Thứ ba, những động thái của hàng loạt
các cuộc tiếp xúc và khảo sát thị trường của
các doanh nghiệp hai nước trong thời gian
gần đây cũng cho thấy triển vọng của một sự
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 4/2012
16
bùng nổ về trao đổi thương mại giữa hai
nước trong thời gian tới.
_________________________
Chú thích
1. Sau khủng hoảng hạt nhân Fukushima, chỉ còn hai
trong số 54 lò phản ứng thương mại của Nhật Bản
còn hoạt động, trong khi cuộc cân nhắc giữa nguy cơ
và lợi ích mà điện hạt nhân mang lại đang khiến
chính phủ cũng như người dân đau đầu.
2. “Chính phủ Nhật Bản ngày 17/8/2011 đã thông
qua quyết định cho phép tái khởi động lò phản ứng
số 3 của nhà máy điện hạt nhân Tomari trên đảo
Hokkaido. Đây là lò phản ứng hạt nhân đầu tiên ở
Nhật Bản được khởi động lại kể từ khi xảy ra sự cố
hạt nhân do ảnh hưởng của thảm họa kép ngày
11/3”. ngày 18/8/2011.
“Thủ tướng Yoshihiko Noda kêu gọi khởi động
lại các nhà máy càng sớm càng tốt. Ông ủng hộ việc
dần thoát khỏi sự lệ thuộc vào điện hạt nhân trong
vài thập kỷ tới. Tuy nhiên, lo ngại về phản ứng của
dư luận, Noda cho biết sẽ không cho khởi động lại
các lò phản ứng nếu như không được sự chấp thuận
của các nhà lãnh đạo cộng đồng địa phương.”
“Với hy vọng xoa dịu nỗi lo lắng về an toàn của dân
cư địa phương, chính phủ đã yêu cầu các đơn vị vận
hành các nhà máy kiểm tra thử việc vận hành trong
những điều kiện xấu nhất. Những mô phỏng trên
máy tính được tạo ra để cho thấy các lò phản ứng có
thể chống đỡ như thế nào với một thảm họa thiên
nhiên khủng khiếp như trận động đất 9 độ Richter,
cũng như trận sóng thần đã làm tê liệt nhà máy điện
hạt nhân Fukushima I, dẫn đến hiện tượng tan chảy
lõi ở ba lò phản ứng sau khi hệ thống làm mát ở
những lò này bị hỏng”.
gioi/phan-tich/2012/03/tranh-cai-ve-dien-hat-nhan-
o-nhat-sau-song-than/
3. Sau cuộc hội đàm tại Tokyo chiều 31/10/2011
trong khuôn khổ chuyến thăm chính thức Nhật Bản
từ ngày 30/10 đến ngày 02/11, Thủ tướng Việt Nam
và Nhật Bản đã ký thỏa thuận hợp tác xây dựng nhà
máy điện hạt nhân Ninh Thuận 2 và khai thác đất
hiếm ở Việt Nam.
Tài liệu tham khảo
1. Annual Report on the Japanese Economy and
Public Finance 2011: Enhance the Essential Power
of the Japanese Economy, Cabinet Office,
Government of Japan, July 2011.
2. Bank of Japan, Outlook for Economic Activity and
Prices, (October 2011), October 27, 2011.
3. Chris Oliver, Bank of Japan Cuts Economic Outlook,
Holds Rates, Market Watch, November 16, 2011.
4. Economic and Fiscal Projections for Medium to
Long Term Analysis, Cabinet Office, Government of
Japan, August 12, 2011.
5. IMF, World Economic Outlook, monthly (from
March 2011 to Febbruary 2012).
6. JETRO: Monthly Japanese Trade and Investment
Statistics (from March 2011 to February 2012)
7. Monthly Economic Report Executive Summary
(From March 2011 to February 2012); Cabinet
Office, Government of Japan
8. Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 2 (132) năm 2012.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 30759_103175_1_pb_5591_2012779.pdf