Kích thích hứng thú và sáng tạo trong học tập môn Vật lý bằng việc gắn kiến thức môn học với thực tiễn cuộc sống

The campaign "Along design thinking and dedication to education" has attracted a large response of all classes of society, including analysis of comments, reviews and recommendations profound and enthusiasm of the veteran teachers, managers, scientists, the leading education experts, such as Prof. Hoang Tuy, Prof. Pham Tat Dong and Prof. NGND Nguyen Ngoc Lanh. In their works, the issue of education reform and innovation of teaching methods are analyzed in many different angles, but boiled down to agree on one point: the actual capacity of the school students created by the much lower than the requirements of society, so every year, tens of thousands of students could not find a suitable job after graduating. This reflects the fact that education in Vietnam remains too theoretical, not attached to reality, more and more away from people, away from work, away from real life . As a result, a large number of students completing college but no "job", not capable of integration, they do not know what and how to do else. By sketching the picture of teaching and learning in schools today and analyze the difficulties and limitations of the school system, the real existence of the organization and innovative teaching methods, the author pointed out and proposed a number of experiences and practical solutions to associate theory with practice, using knowledge of life in the service of teaching and learning physics today, to help create excitement stimulating positive learning and creativity in our students

pdf7 trang | Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 437 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kích thích hứng thú và sáng tạo trong học tập môn Vật lý bằng việc gắn kiến thức môn học với thực tiễn cuộc sống, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguyễn Minh Tân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 91(03): 63 - 69 63 KÍCH THÍCH HỨNG THÚ VÀ SÁNG TẠO TRONG HỌC TẬP MÔN VẬT LÝ BẰNG VIỆC GẮN KIẾN THỨC MÔN HỌC VỚI THỰC TIỄN CUỘC SỐNG Nguyễn Minh Tân* Đại học Thái Nguyên TÓM TẮT Cuộc vận động “Cùng nghĩ suy và hiến kế cho giáo dục” đã thu hút được sự hưởng ứng của đông đảo các tầng lớp của xã hội, trong đó có những ý kiến phân tích, đánh giá và đề xuất hết sức sâu sắc và tâm huyết của các nhà giáo lão thành, các nhà quản lý, nhà khoa học, các chuyên gia giáo dục hàng đầu như GS. Hoàng Tụy, GS. Phạm Tất Dong, GS. NGND Nguyễn Ngọc Lanh vv Trong đó, vấn đề cải cách giáo dục và đổi mới phương pháp dạy học được phân tích dưới nhiều góc độ khác nhau, nhưng tựu trung lại đều thống nhất ở một điểm: năng lực thực tế của sinh viên còn thấp so với yêu cầu của xã hội, hàng vạn HS, SV ra trường chưa tìm được việc làm thích hợp. Điều đó phản ánh thực tế là nền giáo dục Việt Nam còn mang nặng tính lý thuyết, không gắn với thực tiễn, ngày càng xa rời dân, xa rời lao động, xa rời thực tế cuộc sống... kết quả là, một số lớn sinh viên học xong đại học nhưng chưa có “nghề”, không có khả năng hội nhập, không hiểu mình cần làm cái gì, làm như thế nào. Bằng việc phác họa bức tranh toàn cảnh việc dạy và học trong nhà trường hiện nay và phân tích những khó khăn, hạn chế của hệ thống trường lớp, những tồn tại thực tế trong việc tổ chức và đổi mới phương pháp dạy học, tác giả nêu ra và đề xuất một số kinh nghiệm và giải pháp thiết thực nhằm Gắn lý thuyết với thực tiễn, vận dụng kiến thức phục vụ cuộc sống trong việc dạy và học môn vật lý hiện nay, nhằm góp phần tạo ra sự hào hứng, kích thích tính tích cực và sáng tạo trong học tập của học sinh. Từ khóa: Đổi mới phương pháp dạy học, gắn lí thuyết với thực tiễn, kiến thức phục vụ cuộc sống, tích cực, tự lực, linh hoạt, sáng tạo. ĐẶT VẤN ĐỀ* Tại cuộc tọa đàm “Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo”, được tổ chức vào dịp khai giảng năm học mới 2011-2012, tại Hà Nội, nguyên Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình khẳng định: “Cần hết sức coi trọng việc bồi dưỡng năng lực tư duy độc lập, sáng tạo cho học sinh, chỉ có như vậy nhà trường mới đào tạo được những công dân tự tin, tự chủ, tự lập để có trách nhiệm đối với bản thân, gia đình và xã hội". Ngay sau hội thảo, một phong trào “Cùng nghĩ suy và hiến kế cho giáo dục” đã thu hút được sự hưởng ứng của đông đảo các tầng lớp của xã hội, thể hiện qua hàng ngàn bài viết được đăng tải trên các phương tiện truyền thông, trong đó có những ý kiến phân tích, đánh giá và đề xuất hết sức sâu sắc và tâm huyết của các nhà giáo lão thành, các nhà quản lý, nhà khoa học, các chuyên gia giáo dục hàng đầu như GS. Hoàng Tụy, GS. Phạm Tất Dong, GS. Nguyễn Ngọc Lanh vv... * Tel: 0913005415 Vấn đề cải cách giáo dục nói chung và đổi mới phương pháp dạy học nói chung được nhìn nhận và phân tích dưới nhiều góc độ, nhưng đều thống nhất ở một điểm: năng lực thực tế của sinh viên hiện còn thấp so với yêu cầu của xã hội, nên hàng năm, hàng vạn HS, SV ra trường chưa tìm được việc làm thích hợp. Điều đó phản ánh một thực tế là nền giáo dục Việt Nam còn mang nặng tính lý thuyết, xa rời thực tế cuộc sống... kết quả là, một số lớn sinh viên học xong đại học nhưng chưa có “nghề”, không có khả năng hội nhập, không hiểu mình cần làm cái gì, làm như thế nào... Tại cuộc thi về kỹ năng trẻ thế giới (World Skills) tổ chức ở Anh vào đầu tháng 10 năm 2011 vừa qua, rất đông thí sinh chúng ta tham dự nhưng không đoạt được huy chương nào, trong khi các bạn trẻ từ Đài Loan, Hong Kong, Singapore, Macao giành được rất nhiều (theo Vietnamnet.vn/vn/giao-duc, ngày 10/10/2011). Trong giới hạn bài viết ngắn này, tác giả xin không trình bày những vấn đề mang tính lí luận, và học thuật, mà chỉ nêu vấn đề và đề Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Nguyễn Minh Tân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 91(03): 63 - 69 64 xuất một vài giải pháp cụ thể, thiết thực theo đúng tinh thần: cùng suy nghĩ và hiến kế cho giáo dục, mà Bộ Giáo dục và Đào tạo đang phát động. Những vấn đề mà tác giả trình bày là sự đúc kết từ những kết quả thu được qua đợt khảo sát từ 600 đối tượng là cán bộ, sinh viên của Đại học Thái Nguyên, được triển khai vào đầu năm học 2010-2011 vừa qua, trong khuôn khổ dự án Giáo dục đại học 2, dưới sự hợp tác, hỗ trợ của Trường đại học Melburn, Australia. Những giải pháp, đề xuất được trình bày còn là kết quả của sự khảo cứu và trải nghiệm của bản thân qua hơn 30 năm trực tiếp giảng dạy môn học và tham gia công tác quản lí về đào tạo tại các trường đại học, tác giả muốn nêu lên để cùng thảo luận va chia sẻ với các thày cô, các bạn đồng nghiệp. Bài báo cũng đã tham khảo các báo cáo, nhận xét, đánh giá của các chuyên gia mà tác giả đã từng được hợp tác làm việc trong khoảng 10 năm gần đây, thông qua các dự án liên quan đến đào tạo tại trường đại học Y dược-Đại học Thái Nguyên, như dự án Việt nam Hà lan (Đào tạo hướng cộng đồng), dự án CBE (Đào tạo dựa trên cộng đồng), dự án Bác sĩ gia đình vv Tác giả cũng sưu tầm và tham khảo rất nhiều bài viết của các nhà giáo, các chuyên gia giáo dục trên các tạp chí và các trang thông tin qua mạng internet và đã trích dẫn trong bài viết này. PHÁC HỌA TOÀN CẢNH THỰC TẾ VIỆC DẠY VÀ HỌC TRONG NHÀ TRƯỜNG HIỆN NAY Trước hết là ở các cấp học phổ thông: vẫn là một kế hoạch giảng dạy, một bộ giáo án được quy định cứng nhắc từ hình thức, đến nội dung: tuần nào học gì? từng chương, từng tiết phải dạy cái gì, dạy như thế nào, tất thảy đều phải bám vào SGK, phải “lập trình” chi tiết và phải được một hội đồng (bao gồm cả những người không thuộc chuyên ngành) phê duyệt từ đầu mỗi năm học. (Hầu hết những kế hoạch đó sau nhiều năm dường như không có gì mới từ khuôn mẫu đến nội dung kiến thức, trình tự, cách thức trình bày vv, đại thể năm sau na ná năm trước, nhưng năm nào cũng phải “chép lại” và “phê duyệt” lại). Trong giờ học, phổ biến nhất vẫn là motuyp thày độc thoại trên bục giảng, ở dưới, năm sáu chục học trò chen chúc, cắm cúi ghi chép vào vở, hoặc đánh dấu vào sách giáo khoa, có khác chăng, một số thày cô sáng kiến soạn, in, photo sẵn bài giảng phát cho học sinh để giảm công sức thuyết giảng của thày và ghi chép của trò. Những năm gần đây, nhờ sự phổ cập từng bước của máy tính và máy chiếu, cùng với kĩ năng sử dụng và khai thác các ứng dụng của tin học và CNTT dần được nâng lên, số lượng các thày cô soạn và sử dụng bài giảng điện tử tăng lên, đặc biệt, hầu hết các bài giảng đều được soạn thảo bằng các phần mềm chuyên dụng như Powepoint, Fronpage vv, giúp các bài giảng trở nên sinh động, hấp dẫn hơn nhờ kết hợp một số hiệu ứng về màu sắc, âm thanh Ở một mức độ nào đó, các bài giảng điện tử này cũng đã phát huy hiệu quả giáo dục nhất định, giảm được thời gian trình bày bảng và công sức ghi chép của học sinh, sinh viên, tạo không khí hào hứng thú, cuốn hút người học hơn nhờ tính trực quan và sự mới mẻ trong hoạt động học tập. Việc soạn thảo bài giảng điện tử cũng là cơ hội để các thày cô giáo bổ sung, hoàn thiện kiến thức cũng như nhiều kĩ năng sư phạm, nhất là các thày cô giáo trẻ, hoặc không được đào tạo qua hệ thống các trường sư phạm. Tuy nhiên, do còn hạn chế về công năng, hầu hết các bài giảng vẫn còn khá đơn điệu và dễ trở nên nhàm chán, sự “đổi mới” chủ yếu vẫn chỉ dừng ở hình thức và phương tiện dạy và học, bản chất của quá trình dạy và học vẫn theo phương pháp truyền thống: Thày vẫn là trung tâm, và trò vẫn là đối tượng tiếp nhận kiến thức một cách thụ động. Thậm chí, qua một thời gian sử dụng, bắt đầu xuất hiện những kết quả không mong muốn: một số thày cô giáo có biểu hiện ỷ nại các bài giảng điện tử, dẫn đến khâu chuẩn bị bài sơ sài, một số bài giảng dường như chỉ là sự cắt vụn và dán nguyên si từng đoạn giáo trình vào các slide, làm mất đi ý nghĩa thực sự của một bài giảng là gợi mở, định hướng, dẫn dắt, khuyến khích sự tham gia, hoạt động của học sinh trong giờ học. Việc lạm dụng quá mức Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Nguyễn Minh Tân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 91(03): 63 - 69 65 các hiệu ứng về hình ảnh, âm thanh, màu sắc trong nhiều trường hợp gây phản cảm, phân tán sự tập trung của sinh viên; Một số thày dần sao lãng kĩ năng quản lí, điều tiết không khí lớp học do quá chú tâm vào bàn phím, nhắp chuốt và màn hình máy tính, sinh viên ngồi khoanh tay “xem” bài giảng của thày, mà mất dần kĩ năng tham gia xây dựng bài học, một số bắt đầu ngủ gật hay quay ra nói chuyện riêng (!) Trong các giảng đường đại học, tình hình cũng không khả quan hơn. Xin minh chứng bằng một ví dụ “người thực việc thực”, lấy từ Sổ tay sinh viên trên trang web của một trường đại học: lưu lượng sinh viên năm học 2010-2011 là 6000, thuộc 9 hệ đào tạo, với 5 mã ngành đại học, 23 mã ngành sau đại học, 4 mã ngành trung học, 2 mã ngành cao đẳng, số cán bộ thực giảng (có bằng thạc sĩ trở lên) khoảng 200, tổng số giờ giảng quy chuẩn khoảng 150.000 giờ/năm học. Như vậy, số giờ thực giảng của 1 giảng viên trung bình khoảng 800 tiết/năm học, tính cả giờ coi thi, chấm bài, con số xấp xỉ 1000, nghĩa là bình quân, mỗi thày phải đứng lớp 5- 6 tiết/ ngày (thậm chí, nhiều thày riêng số giờ giảng vượt định mức cũng xấp xỉ con số trên). Thời gian đâu giành cho nâng cao kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm, nghiên cứu khoa học, sinh hoạt bộ môn, nói gì đến việc chú trọng đổi mới phương pháp. Trong các lớp học, mặc dù đã được gọi là áp dụng phương thức đào tạo theo tín chỉ, nhưng, cách thức tổ chức và tiến trình một giờ giảng thực chất không khác gì nhiều so với cấp học phổ thông đã mô tả ở trên, nghĩa là: lớp học vẫn là “diễn đàn” riêng của thày, và trò vẫn là những người “dự khán”, đấy là chưa nói đến, tình trạng mỗi phòng học phải sử dụng đến 3 ca một ngày, lịch giảng được bố trí sít sao từ đầu năm đến từng phòng học, môn học, tiết học. (Mỗi buổi 6 tiết học, chia 2 ca, kéo từ 6h30 đến 12h00 buổi sáng, từ 12h30 đến 17h30, và từ 18h30 đến 23h00 buổi chiều và tối, ca trước chưa hết giờ, ca sau đã chờ trực tiếp quản phòng học!) ... (Tác giả xin phép không nêu tên website, tên trường, nhưng xin đảm bảo tính xác thực và chịu trách nhiệm về thông tin trích dẫn). Với một thực trạng như vậy, việc thày và trò chạy xô cho “khớp” lịch, khỏi “chồng pha”... đã là hết hết sức cố gắng, nên dù có tâm huyết, cũng khó có thể vận dụng và triển khai các phương pháp giảng dạy mới như thảo luận nhóm, đóng vai, tự phát hiện và giải quyết vấn đề, dạy và học theo dự án vv GẮN LÝ THUYẾT VỚI THỰC TIỄN, VẬN DỤNG KIẾN THỨC PHỤC VỤ CUỘC SỐNG - GIẢI PHÁP ĐƠN GIẢN VÀ THIẾT THỰC Thực trạng trên một lần nữa khẳng định: “Cải cách giáo dục mạnh mẽ, toàn diện và triệt để là mệnh lệnh khẩn cấp của cuộc sống hiện nay”. Vấn đề là ở chỗ: cải cách như thế nào? Trong lúc các nhà khoa học quản lí giáo dục còn đang luận bàn về “ triết lý giáo dục” của Việt Nam trong giai đoạn mới, các chuyên gia vẫn chưa thống nhất quan điểm cải cách giáo dục bắt đầu từ đâu, trong lúc các nhà nghiên cứu còn đang tổng kết, đánh giá và thử nghiệm các mô hình, phương pháp dạy học mới với cương vị một giáo viên Vật lý đã và đang giảng dạy tại một trường đại học, tác giả xin được tham gia ý kiến nhằm hưởng ứng phong trào “cùng suy nghĩ và hiến kế cho giáo dục” không dưới góc độ của một nhà nghiên cứu lý luận, mà đơn giản chỉ là chia sẻ một vài kinh nghiệm và giải pháp rất cụ thể đối với việc dạy môn Vật lý hiện nay. Vật lý là môn học giúp học sinh biết cách đặt ra và trả lời câu hỏi “tại sao” và “như thế nào” trước tất cả các sự vật, hiện tượng xảy ra trong thế giới tự nhiên nói chung và trong cuộc sống hàng ngày nói riêng. Theo cách hiểu đó, Vật lý học là một môn khoa học ứng dụng, lấy thực nghiệm làm nền tảng để phát hiện và làm sáng tỏ bản chất, cơ chế, động lực của các hiện tượng và các quá trình tự nhiên, nghiên cứu tác động và ảnh hưởng của các tác nhân vật lý lên thế giới tự nhiên và vận dụng một cách khoa học vào thực tế cuộc sống, phục vụ thiết thực cho lợi ích của con người. Như vậy, bên cạnh những vấn đề mang tính lý luận như cần phải xác định mục tiêu, nhiệm vụ, đối tượng, và các phương pháp dạy học, thì trước hết, và không kém phần quan trọng, là tạo được sự hào hứng trước mỗi một nhiệm vụ học tập, kích thich sự tích cực, sáng tạo Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Nguyễn Minh Tân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 91(03): 63 - 69 66 của học sinh thông qua việc chỉ cho các em thấy được sự cần thiết, tính thực tiễn (thậm chí có thể coi là thực dụng) của mỗi kiến thức, mỗi bài học mà các em sắp tiến hành. Nói cách khác, ngoài cái đích chung là kiến thức, kỹ năng và thái độ, thì trước hết, học sinh phải hình dung được: bài học hôm nay, các em sẽ được học cái gì? học để làm gì? Muốn vậy, người thày phải luôn cố gắng tìm tòi để gắn kết được những kiến thức của bài học đó với thực tiễn, chỉ ra được ứng dụng hữu ích, gợi ý cách vận dụng một cách cụ thể vào cuộc sống hàng ngày. Chưa có một công trình nào liệt kê một cách đầy đủ và toàn diện các đề tài, chương trình, dự án nghiên cứu về đổi mới trong giáo dục và đào tạo, tuy nhiên, theo những điều tra ban đầu qua các kênh thông tin trên mạng, tại các thư viện và các nguồn tham khảo của các tác giả có công trình, sách và bài viết liên quan, Tác giả thống kê và tạm phân loại một số hướng nghiên cứu trọng tâm như sau: - Cơ sở phương pháp luận của lí luận dạy học, bản chất và tính quy luật của quá trình dạy học - Mô hình dạy học, cấu trúc nội dung, chương trình. - Đổi mới về mục đích dạy học và mục tiêu của giáo dục, đối tượng, tính chất và nguyên tắc giáo dục, các mô hình phát triển giáo dục, các phương pháp tiếp cận giá trị trong khoa học giáo dục và những định hướng cho giáo dục đại học Việt nam. - Lịch sử phát triển và các tư tưởng triết học giáo dục của các nước trên thế giới và của Việt Nam. - Mô hình tổ chức đào tạo, kiểm định và đánh giá chất lượng, các phương thức đào tạo tiên tiến - Đặc biệt, tập trung nhất, sôi động nhất là các nghiên cứu đổi mới phương pháp dạy học (PPDH), như: PPDH tự nghiên cứu, phát hiện lại, PPDH nêu và giải quyết vấn đề, PPDH tương tác, dạy học theo dự án, dạy học theo góc vv, đó là các PPDH cụ thể thuộc hệ thống các PPDH tích cực, lấy người học làm trung tâm, gọi tắt là hệ thống các phương pháp dạy – tự học. Trong khuôn khổ bài báo, rất khó để ra các nghiên cứu và các tác giả trong lĩnh vực này, chỉ xin được đơn cử một số tác giả liên quan đến môn học Vật lí như: Richard Feynman, Renikop, A.V. Pêrưskin, P.A. Znamenxki, A.V. Muraviep, Thái Duy Tuyên, Nguyễn Cảnh Toàn, Phạm Minh Hạc, Đặng Vũ Hoạt, Lê Khánh Bằng, Nguyễn Văn Khải, Tô Văn Bình, Nguyễn Đức Thâm, Phạm Xuân Quế, Phạm Hữu Tòng... Như vậy, có thể khẳng định, vấn đề bài báo nêu ra không mới, rất nhiều người đã phân tích, nhiều sách đã viết, song từ sách vở đến thực tế còn khoảng cách khá xa. Lý do không phải vì quá khó, nhưng cũng không thật đơn giản, ngoài những khó khăn khách quan như đã phân tích trên, về mặt chủ quan, đòi hỏi người thày phải có nghiệp vụ sư phạm, phải có một vốn kiến thức chắc và trải nghiệm thực tế, thêm vào đó, người thày còn phải đầu tư nhiều thời gian sưu tầm tài liệu, phải đọc, nghiền ngẫm, phải làm thử và vận dụng thử Qua thực tế nhiều năm được hướng dẫn, góp ý cho các bài giảng và “xét duyệt” giáo án cho các đồng nghiệp trẻ, tác giả nhận thấy, hạn chế nói trên thể hiện ngay từ việc xác định mục tiêu của từng bài học, môn học, trong đó mặc dù hầu hết các thày cô giáo trẻ đều làm đúng công thức, nghĩa là đã chỉ ra đủ cả các mục tiêu về kiến thức, kỹ năng và thái độ, nhưng các mục tiêu đó đều chung chung, dường như có thể áp dụng cho tất cả các tiết học, môn học, mà rất hiếm có được các mục tiêu như rõ ràng, cụ thể, có tính định hướng cho tiết học, đặc biệt là các mục tiêu có tính thực tiễn, thực dụng, gắn với nhu cầu cuộc sống Về lý thuyết, trước mỗi bài giảng, các thày đều thực hiện bước “vào đề”, song cách đặt vấn đề thường khô cứng, máy móc, hầu hết chỉ đơn thuần là liệt kê những nội dung hay những công việc chính của bài học sắp tiến hành. Kỹ năng khơi dậy hứng thú học tập, tạo sự hào hứng thông qua việc gắn lý thuyết với thực hành, ứng dụng kiến thức sách vở phục vụ tiễn cuộc sống cần tránh mang tính công thức: nêu ra trong phần “mở bài” hay liệt kê khi kết thúc bài học, mà nên vận dụng linh hoạt và xuyên suốt trong tiến trình bài học, ở bất cứ thời điểm nào, nội dung kiến thức nào có thể. Ví dụ: Định luật bảo toàn năng lượng được coi là kinh điển nhất, tất cả học sinh đều nhớ, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Nguyễn Minh Tân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 91(03): 63 - 69 67 thuộc và phát biểu trôi chảy khi được hỏi, nhưng hiểu sâu sắc và biết cách vận dụng trong thực tế thì không phải đơn giản. Vì vậy, sự hào hứng và hiệu quả giờ hoc sẽ cao hơn rất nhiều, nếu đầu, giữa hoặc cuối bài học, thày đưa ra một số mô hình về ý tưởng “động cơ vĩnh cứu” để học sinh tranh luận và phản biện, từ đó, tạo nhu cầu và hứng thú để giải quyết “mâu thuẫn” giữa cách lý giải của tác giả và thực tế mà học sinh quan sát,trải nghiệm hàng ngày! Cũng có nêu ra một vài hiện tượng rất thường gặp trong thực tế như: tại sao những người có tuổi thường đạp xe theo kiểu “đánh võng” khi lên dốc? Tại sao người ta không làm đường thẳng vắt qua đỉnh mà lại làm con đường ngoằn nghèo quanh sườn núi khi qua đèo? Thày có thể gợi ý các em vận dụng kiến thức của bài học để giải thích Trong bài Lực ma sát, ngoài những ví dụ chỉ ra trong sách giáo khoa, hay những bài tập “kinh điển”, thày có thể nêu ra tình huống rất “thật” như: cần di chuyển một cái tủ nặng từ góc này sang góc kia của căn phòng, các em hãy hiến kế xem có cách nào đỡ tốn sức nhất? Đễ định hướng tranh luận, thày có thể đưa ra những hình vẽ, bức ảnh về các giải pháp thực. Không khí lớp học sẽ hào hứng hơn rất nhiều nếu thầy cho các em xem một đoạn video về việc “thần đèn” Việt Nam di chuyển cả một tòa nhà bằng các thân cây gỗ khiến cả thế giới phải kính nể! Hiện tượng thẩm thấu, mao dẫn sẽ rất dễ hiểu, dễ nhớ nếu thày gợi ý để học sinh vận dụng để giải thích những hiện tượng hàng ngày mà các em không ngờ tới: Tại sao nước lại “chảy ngược” từ gốc lên ngọn cây? Tại sao cá biển sống nhiều năm trong nước biển mà vẫn ngọt thịt, nhưng ngâm trong nước muối, chỉ một vài ngày sẽ mặn chát (cá mắm). Tại sao người bị phù phải ăn nhạt, tại sao những chỗ bị mụn, nhọt, va đập trên cơ thể lại sưng tấy? Chanh, sấu ngâm nước sẽ trương lên và nhũn dần ra, nhưng ngâm trong nước muối thì khô quắt và rắn lại vv “Sức căng mặt ngoài” là một khái niệm khó dạy và khó nhớ, tuy nhiên, tình hình sẽ khác hẳn, nếu như thày biết gợi ra cho các em quan sát và phân tích về những hiện tượng thực tiễn như: Sau khi hút thuốc vào xilanh, thày thuốc luôn đẩy pittong sao cho một tia thuốc thoát ra trước khi tiêm cho người bệnh? những người thợ lặn được khuyến cáo không lao lên khỏi mặt nước một cách đột ngột; các chuyên gia thường khuyên, khi cho trẻ sơ sinh “bú mẹ”, nên cho môi bé áp chặt quanh bầu vú (nếu thày cô khéo nêu vấn đề một cách “dí dỏm”, chắc chắn không khí lớp học sẽ rất sôi động và hào hứng!) Đến nay, nhiều thày cô quan niệm, phòng thí nghiệm là môi trường tốt nhất cho các em thực hành, điều đó đúng nhưng chưa đủ. Hầu hết các bài thí nghiệm, thực hành vật lý trong chương trình, SGK và trong PTN hiện nay đều rất cũ, đơn điệu cả về dụng cụ lẫn thao tác. Hầu hết, các bài thực hành vẫn chủ yếu mang tính minh họa lại, lặp lại những thí nghiệm của các nhà khoa học đã làm khi mày mò và phát minh ra các định luật và công thức vật lý cách đây hàng thế kỷ. Nói chung, không đáp ứng mục tiêu rèn luyện kỹ năng thao tác và khả năng vận dụng sáng tạo của học sinh. Ngay cả những phòng thí nghiệm được coi là hiện đại, được đầu tư khá đồng bộ gần đây, với những bộ dụng cụ thí nghiệm kết nối máy tính, có phần mềm điều khiển và sử lý kết quả, thí các bài thí nhiệm được triển khai, về bản chất vẫn chỉ là các bài thí nghiệm cũ, chỉ khác hình thức thí nghiệm đã được cải tiến và một số thao tác được số hóa, do đó, hiệu quả của các thí nghiệm chưa cao, chưa thực sự gắn với thực tiễn, chưa tạo ra sự hứng thú và khuyến khích sự sáng tạo. Giá như, bên cạnh các bài thí nghiệm được thiết kế “cứng”, các thày tạo cơ hội cho các em được tiến hành những bài thực hành “động” mang tính thực tế hơn, chắc chắn, sự hào hứng và hiệu quả sẽ cao hơn rất nhiều. Chẳng hạn, bên cạnh việc đo đếm, xác định một vài đại lượng điện bằng cầu winston kinh điển, hay đấu nối một vài mạch điện theo các sơ đồ mẫu có sẵn, sẽ tốt hơn nhiều, nếu đặt ra cho các em nhiệm vụ thực tế: vẽ, phân tích và đấu nối một mạch điện cầu thang, mà ở bất cứ vị trí nào cũng bật được bóng điện ở phía sắp đến và tắt được bóng điện ở phía vừa đi qua. Một ví dụ khác: vẽ sơ đồ, phân tích nguyên lý, đấu nối mạch điện của một nồi cơm điện Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Nguyễn Minh Tân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 91(03): 63 - 69 68 có 2 chế độ: nấu (nhiệt lượng cao) và ủ (nhiệt lượng thấp), tính toán dòng điện và công suất tiêu thụ thực tế theo định luật Ôm và kiểm chứng bằng đồng hồ đo điện. Ở một thí nghiệm khác: cùng với thanh nam châm và cuộn dây để chứng minh hiện tượng cảm ứng và xác định giá trị, chiều của lực điện từ, có thể gợi ý và nêu ra cho các em những công việc rất cụ thể như: vẽ và phân tích sơ đồ nguyên lý cái chuông điện, hay: đề xuất ý tưởng, mô hình thiết kế một thiết bị đếm số xe qua một trạm kiểm soát, số người vào siêu thị Trong bài thực hành: Đo mật độ bức xạ, thay vì đo đếm nguồn phóng xạ bằng hệ thống thiết bị Geiger - Muyler (rất đắt tiền và không an toàn), có thể hướng dẫn các em sử dụng bút đo phóng xạ (rất rẻ tiền, phổ biến và dễ kiếm trên thị trường), để thực hành việc đo mật độ bức xạ của màn hình TV, máy tính, trạm biến thế, yêu cầu các em tự kết luận và đưa ra những khuyến cáo phù hợp với thực tế Nếu chịu khó quan sát và biết cách vận dụng, lồng ghép, việc gắn kết kiến thức sách vở với thực tế cuộc sống hàng ngày còn có thể thực hiện thông qua rất nhiều các ví dụ đa dạng và phong phú, hết sức gần gũi với cuộc sống, sinh hoạt hàng ngày. Chẳng hạn: giải thích nguyên lí hoạt động của chiếc bếp từ? Thức ăn trong lò sấy cao tần của nhà em được nấu chín theo cơ chế nào?; Người thợ hàn nắm tay vào vật kim loại dẫn điện (có dòng điện khoảng 50 A, lớn gấp hàng trăm lần dòng điện chạy qua bóng đèn) mà không bị “điện giật”?, Máy phát điện từ nguồn nước khe, nước suối mà nông dân miền núi hay dùng, bình đun nước thái dương năng hoạt động như thế nào? Giải thích cơ sở Vật lí của các phương pháp chữa bệnh rất phổ biến trong khoa Vật lý trị liệu như: điện châm, điện phân, kích điện, chiếu - chụp điện, cắt đốt khối u bằng “dao điện”, chữa bệnh bằng tia hồng ngoại, tử ngoại vv Một vài ví dụ nêu trên cũng đủ để khẳng định: việc vận dụng những kiến thức sách vở vào thực tế rõ ràng rất đa dạng, hết sức phong phú và hoàn toàn khả thi nếu như các thày cô giáo chịu khó đầu tư thời gian, có ý thức chuẩn bị cho mỗi bài giảng, mỗi giờ lên lớp giống như tinh thần tập luyện của một cầu thủ chuyên nghiệp trước khi ra sân thi đấu, dù là cầu thủ giỏi, dù là đội bóng mạnh, dù là đối thủ cũ, nhưng mỗi mùa bóng, mỗi trận đấu đều chứa đựng những tình tiết mới, đem lại sự hấp dẫn mới và hứa hẹn những bất ngờ đầy hứng thú. Thêm vào đó, xưa nay, chúng ta vẫn quan niệm các phát minh mới về khoa học, kỹ thuật và công nghệ phải xuất phát từ các trường đại học, các viện nghiên cứu, các phòng thí nghiệm và đi vào thực tế đời sống. Nhưng thực tế cho thấy, những Edison, Bill Gate (ông chủ của Microsoft), Steve Jobs, (ông chủ của Aple), Sergey Brin (ông chủ của Google) với những ý tưởng, những phát minh, những công nghệ và sản phẩm được sinh ra từ những nhà kho, góc gara để xe, phòng trọ đã làm nên một cuộc cách mạng vĩ đại về khoa học công nghệ, tác động và làm thay đổi toàn bộ đời sống vật chất và tinh thần của hàng tỷ người trên trái đất, lại chỉ là những cậu bé chạy thư, những học sinh chưa hề có tấm bằng đại học. Ở Việt Nam, như chúng ta đã thấy, gần đây, xuất hiện khá nhiều sản phẩm kỹ thuật và công nghệ như “máy gặt đập liên hợp xách tay”, máy gieo xạ, máy bóc lạc, đậu, cà phê, thậm chí cả “máy bay lên thẳng phun thuốc trừ sâu”, những sản phẩm đó tỏ ra rất đắc dụng trong thực tế, nhưng hầu hết không được ra đời từ các phòng thí nghiệm, các trường đại học, các viện nghiên cứu công nghệ, tác giả cũng chẳng có bằng cấp, danh vị gì, ngoài danh xưng chung là “Hai lúa” Nên chăng, các thày cô giáo dành thời gian sưu tầm, tìm hiểu, hướng dẫn, gợi ý cho học sinh nghiên cứu những sản phẩm này, dùng những quy tắc, định luật vật lý trong các bài giảng để giúp cho các nhà “sáng chế bất đắc dĩ” phần công việc mà họ không làm được, là giải thích nguyên lí cấu tạo, nguyên tác làm việc, cơ chế hoạt động của những thiết bị mà họ đã sáng chế ra. Có thể, đó cũng là một phương thức để gắn lý thuyết với thực tế, đưa kiến thức vào thực tiễn, phục vụ đời sống?, nói cách khác, thay vì cách tư duy thông thường là đưa kiến thức sách vở vào thực tiễn, hãy tư duy theo chiều Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Nguyễn Minh Tân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 91(03): 63 - 69 69 ngược lại: lấy thực tiễn cuộc sống làm sáng tỏ lý thuyết, lấy thực tế bổ sung cho kiến thức giáo khoa. Phải chẳng, đó cũng là một hướng tiếp cận, một gợi ý đối với các thày cô giáo, các nhà giáo dục? KẾT LUẬN Trong lúc chờ đợi một “triết lý giáo dục”, một giải pháp tổng thể cho cải cách giáo dục, trong lúc các Bộ, ngành, các nhà quản lý đang tìm kiếm nguồn kinh phí đầu tư để nâng cấp cơ sở hạ tầng và trang thiết bị, đồ dùng dạy học, hàng chục triệu học sinh, hàng chục vạn thày cô giáo vẫn ngày ngày đến trường, hoạt động dạy và học vẫn diễn ra và do đó, việc duy trì và đảm bảo chất lượng dạy và học vẫn luôn là trách nhiệm của mỗi thày cô, mỗi nhà trường. Ở cương vị của mình, mỗi thày cô giáo hoàn toàn có thể tham gia và góp phần tích cực vào sự nghiệp đổi mới nền giáo dục nước nhà từ những giải pháp đơn giản và thiết thực nhất. Đó chính là điều mà tác giả muốn gửi gắm qua bài viết ngắn này. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Phan Sĩ An, (2005), Lí sinh y học, Nxb Y học Hà Nội, [2]. Giáo dục học Đại học, (2000), (Tài liệu tập huấn của trường CBQL Giáo dục và Đào tạo) [3]. Đỗ Ngọc Đạt, (1997), Tiếp cận hiện đại hoạt động dạy học, Nxb ĐHQG Hà Nội. [4]. Nguyễn Văn Khải, (2008), Lí luận dạy học vật lí ở trường phổ thông, Nxb Giáo dục. [5]. Phan Trọng Ngọ, (2005), Dạy học và PPDH trong nhà trường, Nxb ĐHSP Hà Nội. [6]. Nguyễn Cảnh Toàn, (1998), Quá trình dạy- tự học, Nxb Giáo dục. SUMMARY EXCITE INTEREST AND CREATIVITY IN LEARNING PHYSICS BY MERGING THE SUBJECT KNOWLEDGE WITH PRACTICAL LIFE Nguyen Minh Tan* Thai Nguyen University The campaign "Along design thinking and dedication to education" has attracted a large response of all classes of society, including analysis of comments, reviews and recommendations profound and enthusiasm of the veteran teachers, managers, scientists, the leading education experts, such as Prof. Hoang Tuy, Prof. Pham Tat Dong and Prof. NGND Nguyen Ngoc Lanh. In their works, the issue of education reform and innovation of teaching methods are analyzed in many different angles, but boiled down to agree on one point: the actual capacity of the school students created by the much lower than the requirements of society, so every year, tens of thousands of students could not find a suitable job after graduating. This reflects the fact that education in Vietnam remains too theoretical, not attached to reality, more and more away from people, away from work, away from real life ... As a result, a large number of students completing college but no "job", not capable of integration, they do not know what and how to do else. By sketching the picture of teaching and learning in schools today and analyze the difficulties and limitations of the school system, the real existence of the organization and innovative teaching methods, the author pointed out and proposed a number of experiences and practical solutions to associate theory with practice, using knowledge of life in the service of teaching and learning physics today, to help create excitement stimulating positive learning and creativity in our students. Key words: Innovation of teaching methods, associate theory with practice, knowledge of life, positive, independence, flexiblity, creativity. * Tel: 0913005415 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfbrief_33311_37135_3182012163446912012_split_11_9499_2052391.pdf
Tài liệu liên quan