Khảo sát sinh kế nông nghiệp và thủy sản đang sử dụng hệ sinh thái dọc sông Hậu tại thành phố Long Xuyên, An Giang

Vùng sinh thái hạ lưu sông Hậu tại địa bàn nghiên cứu đã tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động sinh kế của người dân sản xuất nông nghiệp và TS. Kết quả nghiên cứu cho thấy, sản xuất lúa (52,67%; 5/5 điểm) và TS (28%; 4,5/5 điểm) là hai ngành sinh kế phổ biến và quan trọng nhất tại địa bàn nghiên cứu. Các nhóm hộ sản xuất này được đánh giá là các hoạt động quan trọng nhất dựa vào mức độ phổ biến và giá trị kinh tế đóng góp vào sự phát triển kinh tế của địa phương. Nhóm nông hộ trồng lúa có sinh kế đa dạng và khá ổn định với thu nhập 131,17 ± 85,57triệu đồng/hộ/năm. Nhóm nuôi TS khác có đời sống ổn định, thu nhập cao (600 triệu đồng/hộ/năm) và ít rủ ro hơn so với nhóm khác. Nhóm nuôi cá tra mặc dù có thể đạt được lợi nhuận rất cao nhưng mức độ rủi ro quá lớn và ngày càng không phù hợp cho kinh tế hộ gia đình vì vậy người dân đã dần dần chuyển đổi sang hình thức sinh kế khác. KTTS và trồng rau là nhóm có sinh kế bất ổn nhất với thu nhập thấp và người dân đang phụ thuộc quá nhiều vào một ngành sản xuất chính để mưu sinh.

pdf14 trang | Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 23/03/2022 | Lượt xem: 244 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát sinh kế nông nghiệp và thủy sản đang sử dụng hệ sinh thái dọc sông Hậu tại thành phố Long Xuyên, An Giang, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 44 – 57 44 KHẢO SÁT SINH KẾ NÔNG NGHIỆP VÀ THỦY SẢN ĐANG SỬ DỤNG HỆ SINH THÁI DỌC SÔNG HẬU TẠI THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, AN GIANG Nguyễn Thị Kim Quyên1, Chau Thi Đa2 1Trường Đại học Cần Thơ 2Trường Đại học An Giang Thông tin chung: Ngày nhận bài: 27/05/2016 Ngày nhận kết quả bình duyệt: 15/07/2016 Ngày chấp nhận đăng: 04/2017 Title: An evaluation on livelihoods of key agriculture, aquaculture and fishery groups using the natural ecosystems services along Hau river in Long Xuyen, An Giang Keywords: Ecosystem along Hau river, agriculture, aquaculture, livelihoods, fisherman, income Từ khóa: Hệ sinh thái sông Hậu, nông nghiệp, thủy sản, sinh kế, khai thác thủy sản, thu nhập ABSTRACT The study was conducted to analyze and evaluate livelihoods of key agriculture, aquaculture and fishery groups who used directly and indirectly the natural ecosystems services along Hau river. The study was employed along with 140 households in Long Xuyen, An Giang through a survey and KIP interviews. The results showed that rice cultivation (52.67%, 5/5 score) and aquaculture cultivation (28%; 4.50 ± 0.53 score) were the most pupolar and important livelihoods. Rice farming households had a relative diversified and stable livelihoods with a total income about 131.17 ± 85.57 million VND/household/year. Whereas, the groups of vegetable farmers had an unstable livelihood and a lower income compared to the other groups. Moreover, a small scale of Pangasius farming sector had a high ratio of risk (47.62%) due to many reasons, such as unstable market, high costs of feed and fish diseases. Therefore, they have gradually transformed and moved to other production modes. The other aquacuture species farming (not Pangasius catfish) groups had more stable livelihoods and higher incomes (more than 600 million VND/household/year). Fisherman groups who have used rudimentary fishing gear and simple tools have had a low yield (2629.55±4365.13 kg/year), a low income (34.92 ± 52.10 million VND/household/year) compared to the groups of aquaculture and agriculture cultivation framings. Currently, all farmer groups were greatly concerned about the market prices and productivity to improve the people’s livelihoods in Long Xuyen, An Giang particularly and the Mekong Delta area generally. TÓM TẮT Nghiên cứu được tiến hành nhằm phân tích và đánh giá sinh kế của các nhóm hộ sản xuất nông nghiệp, thủy sản đang sử dụng trực tiếp và gián tiếp các hệ sinh thái tự nhiên từ sông Hậu được thực hiện bằng cách phỏng vấn KIP và khảo sát 140 nông hộ dọc sông Hậu tại địa bàn thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang. Kết quả nghiên cứu cho thấy sản xuất lúa (52,67%; 5/5 điểm) và sản xuất thủy sản (28%; 4,5/5 điểm) là hai ngành sinh kế phổ biến và quan trọng nhất tại địa bàn nghiên cứu. Nhóm nông hộ trồng lúa có sinh kế đa dạng và ổn định với tổng thu nhập 131,17 ± 85,57 triệu đồng/hộ/năm. Tuy nhiên, đối với hộ trồng rau có đời sống bất ổn với thu nhập thấp so với nhóm sinh kế khác. Nhóm nông hộ nuôi cá tra có quy mô nhỏ và rủi ro lớn (47,62%) do nhiều yếu tố tác An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 44 – 57 45 động như thị trường không ổn định, giá thức ăn cao và dịch bệnh nên dần chuyển đổi hình thức sản xuất. Nhóm nuôi thủy sản khác (ngoài cá tra) có đời sống ổn định, thu nhập cao (600 triệu đồng/hộ/năm). Hộ khai thác thủy sản sử dụng ngư cụ thô sơ nên có sản lượng và thu nhập thấp (2.629,6 ± 4.4kg; 34,92 ± 52,10 triệu đồng/hộ/năm) so với các nhóm hộ nuôi thủy sản và nông nghiệp khác. Hiện nay giá cả và năng suất là vấn đề cần quan tâm trong cải thiện sinh kế cộng đồng người dân tại địa bàn nghiên cứu và khu vực ĐBSCL nói chung. 1. GIỚI THIỆU An Giang là tỉnh đầu nguồn sông Mekong nơi có 187 km sông Tiền, sông Hậu và 5.170 km kênh rạch chảy qua đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển ngành nông nghiệp và thủy sản (Chi Cục Thủy Sản An Giang, 2015). Toàn Tỉnh có hơn hai triệu dân sinh sống, trong đó hơn 90% dân số tập trung ở khu vực nông thôn với các ngành sinh kế chủ yếu là sản xuất lúa gạo, nuôi trồng thủy sản (NTTS), khai thác thủy sản (KTTS), chăn nuôi, trồng rau màu và cây ăn trái (Nguyen Thi Kim Quyen, 2013). Giá trị từ ngành nông nghiệp và thủy sản (TS) đóng góp 33,46% trong tổng GDP của Tỉnh (InvestinVietnam, 2013). Trồng trọt là ngành nông nghiệp dẫn đầu với hơn 625.918 ha diện tích trồng lúa cả năm và 63.497 ha diện tích trồng rau màu, cung cấp 4,05 triệu tấn lúa gạo và 22,8 ngàn tấn rau màu hàng năm (Ủy ban Nhân dân tỉnh An Giang, 2014). Năm 2014, toàn Tỉnh có 308.000 tấn NTTS trên 2.396 ha diện tích mặt nước và 38.300 tấn TS khai thác, trong đó cá tra chiếm hơn 90% (Ủy ban Nhân dân tỉnh An Giang, 2014; Chi cục Thủy sản An Giang, 2015). Thành phố Long Xuyên được xem là trung tâm kinh tế - thương mại của Tỉnh nơi mà ngành kinh tế nông nghiệp và TS phát triển từ rất sớm và là ngành mũi nhọn của Tỉnh. Năm 2008, tổng diện tích gieo trồng của thành phố đạt gần 11.600 ha, cung cấp 72.314 tấn lương thực, thực phẩm. Long Xuyên là thành phố đặc trưng cho hệ sinh thái nước ngọt với nhiều ngành nghề tiêu biểu của vùng sông nước đã góp phần ổn định cuộc sống của cộng đồng phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội và định hướng phát triển của vùng. Tuy nhiên, sinh kế của các nhóm cộng đồng, đặc biệt là các nhóm nông nghiệp TS hiện nay chưa được nghiên cứu cụ thể để thấy được mức độ ổn định cũng như sự khác biệt về sinh kế của các nhóm cộng đồng đặc trưng của vùng này. Mục tiêu của nghiên cứu này nhằm để khảo sát, phân tích, đánh giá hiện trạng sinh kế nông nghiệp, TS sử dụng trực tiếp và gián tiếp các hệ sinh thái tự nhiên dọc sông Hậu tại thành phố Long Xuyên tỉnh An Giang để từ đó đề xuất kiến nghị đến nhà quản lý có định hướng phát triển sinh kế của người dân tại địa phương được bền vững. 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Sinh kế được định nghĩa là bao gồm khả năng, nguồn vốn, tài sản (kể cả nguồn lực vật chất và xã hội) và hoạt động kiếm sống cần thiết. Một sinh kế có thể được miêu tả như là sự tập hợp các nguồn lực và khả năng mà con người có được kết hợp với những quyết định và hoạt động mà họ thực thi để kiếm sống cũng như để đạt được mục tiêu và ước nguyện của họ (Quỹ Phát triển Quốc tế Anh (DFID), 1999). Theo Nguyễn Xuân Mai và Nguyễn Duy Thắng (2011), sinh kế bao gồm những khả năng, tài sản (các nguồn lực vật chất xã hội), các hoạt động cần thiết cho một kế sinh nhai. Từ các khái niệm như trên, đề tài tập trung nghiên cứu vào các hoạt động sinh kế (kiếm sống) cũng như khả năng con người tập hợp các nguồn lực và ra quyết định trong các hoạt động sản xuất nông nghiệp, NTTS và KTTS. Địa bàn nghiên cứu: Đề tài được thực hiện trong giai đoạn năm 2013 – 2014. Các đối tượng được chọn khảo sát là những hộ dân sản xuất nông nghiệp và TS đang sinh sống dọc sông Hậu trong bán kính 2 km từ bờ sông trên địa bàn thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang. Các phương pháp thu thập số liệu được áp dụng như sau: An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 44 – 57 46 Số liệu thứ cấp: được thu thập từ các sở ban ngành trong địa bàn nghiên cứu và trong Tỉnh liên quan đến các báo cáo kết quả và phương hướng hoạt động của địa phương và Tỉnh. Thu thập các kết quả nghiên cứu liên quan đến sinh kế nông nghiệp TS trong và ngoài nước đã được công bố trên các tạp chí. Số liệu sơ cấp: được thu thập thông qua các cuộc phỏng vấn KIP (Key Informant Panel) và phỏng vấn sâu nông hộ cụ thể sau đây: - Phỏng vấn KIP: được thực hiện phỏng vấn các cán bộ từ các cơ quan quản lý như: Chi cục TS, Hiệp hội nuôi cá tra, Trung tâm Khuyến nông, Phòng Kinh tế và các cán bộ phụ trách nông nghiệp, TS ở Ủy ban Nhân dân cấp xã được tham khảo ý kiến nhằm có được cái nhìn tổng quan về địa bàn nghiên cứu cũng như hiện trạng sản xuất và mối quan hệ giữa các hoạt động kinh tế nông nghiệp, TS và sinh kế cộng đồng. - Phỏng vấn sâu 140 nông hộ tại địa bàn nghiên cứu bao gồm 35 hộ nuôi cá tra, 35 hộ nuôi các loài TS khác, 32 hộ trồng lúa, 18 hộ trồng hoa màu và 20 hộ KTTS đã được chọn phỏng vấn bằng bảng câu hỏi soạn sẵn. Đối tượng phỏng vấn và kích cỡ mẫu được đề xuất bởi nhóm cán bộ quản lý từ phỏng vấn KIP sao cho mang tính đại diện và có ý nghĩa thống kê. Phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên thuận tiện từ danh sách được cung cấp của cán bộ quản lý. Các thông tin thu thập có liên quan đến thông tin chung, các hoạt động sản xuất, kỹ thuật, những thuận lợi và khó khăn, những định hướng phát triển mô hình sinh kế của người dân. Hình 2.1. Địa bàn nghiên cứu Phương pháp xử lý và phân tích số liệu: Sử dụng phương pháp thống kê mô tả, thống kê nhiều chọn lựa, thang đo mức độ Likert (1= Rất không quan trọng;; 5 = Rất quan trọng) và các nguồn sinh kế. Kết quả từ KIP và phỏng vấn nông hộ Vùng nghiên cứu An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 44 – 57 47 được phân tích và xử lý bằng mã code và tổng hợp bằng cách sử dụng phần mền IBM SPSS11. 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 3.1 Thông tin chung về các nhóm cộng đồng ở địa bàn nghiên cứu Kết quả khảo sát cho thấy, tuổi trung bình của người dân là 45 tuổi; trong đó, nông dân làm lúa có độ tuổi trung bình cao nhất do truyền thống nghề lúa nước lâu đời tại địa phương. Đây cũng là lý do giải thích vì sao kinh nghiệm sản xuất của nhóm trồng lúa là lâu nhất (21,10 ± 10,80 năm). Kinh nghiệm sản xuất của nhóm NTTS là thấp nhất do việc chuyển đổi qua lại giữa các đối tượng nuôi và sự phát triển của các doanh nghiệp trong thời gian gần đây (7,81 – 8,05 năm). Số người trong gia đình tương đối cao, đặc biệt là nhóm trồng màu (5,33 ± 2,06) do sự thiếu kiểm soát của kế hoạch hóa gia đình trong quá khứ. Trình độ học vấn của các nhóm cộng đồng đã được cải thiện đáng kể khi có đến 60% nhóm cộng đồng đạt được trình độ trung học cơ sở và cao hơn. Trong đó, trình độ của nhóm nuôi cá tra là cao nhất với 31,40% người nuôi có trình độ cao đẳng/đại học (so với nhóm trồng lúa là 18,80%, nhóm hoa màu 6,20%). Bảng 1. Thông tin chung của nhóm cộng đồng tại địa bàn khảo sát Chỉ tiêu Nhóm nuôi cá tra (N = 35) Nuôi các loài TS khác (N = 35) Nhóm làm lúa (N = 32) Nhóm trồng hoa màu (N = 18) Nhóm KTTS (N = 20) - Tuổi (tuổi) 42,63±11,59 45,94±8,43 46,84±11,31 42,11±9,07 44,20±7,8 - Số người trong gia đình (người) 4,71±1,12 4,37±1,10 4,62±0,98 5,33±2,06 4,45±1,25 - Số lao động (người) 3,61±0,96 3,40±1,00 3,41±1,21 3,06±1,26 3,25±1,02 - Kinh nghiệm sản xuất (năm) 8,05±4,40 7,81±6,13 21,10±10,80 15,39±10,13 12,50±8,81 -Trình độ học vấn (%) + Tiểu học 17,10 37,10 17,2 17,2 65,00 + Trung học cơ sở 25,70 51,40 26,3 12,3 25,00 + Trung học phổ thông 25,70 8,60 17,6 - 5,00 + Cao đẳng/đại học 31,40 2,90 18,8 6,2 - (Ghi chú: TS: thủy sản; KTTS: nhóm khai thác thủy sản) (Nguồn: Kết quả điều tra nông hộ, năm 2013) Nhóm hộ KTTS có trình độ học vấn thấp nhất khi có đến 65% có trình độ tiểu học do việc KTTS hoạt động theo mùa vụ (mùa lũ), khai thác nhỏ lẻ, sử dụng ngư cụ thô sơ tự chế nên nghề này tập trung vào nhóm lao động nghèo, trình độ thấp. Thông tin chung của các bên liên quan tương tự như kết quả khảo sát của Tổng cục Thống kê Việt Nam vào năm 2012 về độ tuổi trung bình và kinh nghiệm làm việc. Tuy nhiên, đã có những cải thiện về giáo dục do những cải tiến trong điều kiện kinh tế - xã hội ở Việt Nam kết hợp với trình độ học vấn cao, tạo điều kiện cho các nhóm có liên quan dễ truy cập thông tin và kỹ thuật sản xuất tiên tiến. Vì vậy, tổng thu nhập từ nhóm NTTS là cao hơn so với các nhóm trồng trọt và thu nhập trung bình của Việt Nam (Tổng Cục Thống kê, 2012). 3.2 Các ngành nghề sinh kế chính của các nhóm cộng đồng Kết quả nghiên cứu cho thấy ngành sản xuất nông nghiệp và NTTS được xem là các ngành sinh kế chính đặc trưng cho từng nhóm cộng đồng tại địa bàn nghiên cứu. Ngoài ra, các nông hộ này còn An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 44 – 57 48 tiến hành đồng thời từ 2 đến 4 các hoạt động khác (trong đó có từ 1 đến 2 hoạt động gắn liền với hệ sinh thái sông Hậu) nhằm nâng cao thu nhập. Ở đây đề tài chỉ tập trung phân tích các hoạt động sinh kế nông nghiệp, TS chính. Hình 1 thể hiện mức độ phổ biến và quan trọng của các ngành sinh kế nông nghiệp, TS chính được thực hiện bởi cộng đồng tại địa bàn nghiên cứu thông qua phỏng vấn KIP và thang đo Likert. Trồng lúa là hoạt động phổ biến nhất được thực hiện bởi phần lớn các hộ gia đình (52,67%) do truyền thống trồng lúa nước lâu đời ở vùng Tứ giác Long Xuyên cũng như điều kiện tự nhiên thích hợp. Gần 28% người dân tiến hành nuôi trồng các loài TS nước ngọt khác nhau trong khi 24% hộ dân chọn cá tra là đối tượng nuôi chính. Trồng rau màu chiếm 19,33% trong các hoạt động sinh kế của cộng đồng và số người dân địa phương tham gia vào các hoạt động sinh kế đa dạng khác như KTTS, làm vườn, chiếm tỷ lệ từ 3,00 đến 14,00%. Trồng lúa được đánh giá là ngành sinh kế quan trọng nhất tại địa bàn nghiên cứu (5/5 điểm), kế tiếp là nuôi cá tra với 4,63 ± 0,52 điểm. Nuôi các loài TS khác ngoài cá tra là hoạt động quan trọng thứ 3 (4,50 ± 0,53 điểm); trong khi trồng rau màu, KTTS, làm vườn cây ăn trái kết hợp du lịch sinh thái được đánh giá là khá quan trọng (từ 3,00 đến 3,5 điểm). Các hoạt động khác gắn liền với hệ sinh thái sông Hậu như dịch vụ đò phà, khai thác cát, đan lục bình hay khai thác trùng đất ven bờ sông có mức độ quan trọng tương đối thấp với 2,63/5 điểm. (a) An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 44 – 57 49 (b) Hình 1. Các ngành sinh kế nông nghiệp, thủy sản chính (a) và mức độ quan trọng tương ứng của từng ngành sinh kế (b) (Nguồn: kết quả phỏng vấn KIP và thang đo Likert, năm 2013) Chăn nuôi gia súc, gia cầm là hoạt động ít quan trọng nhất tại địa bàn nghiên cứu với 2,13 ± 0,83 điểm do ít hộ tham gia và hầu hết ở dạng nhỏ lẻ, quy mô hộ gia đình. Kết quả phỏng vấn KIP và ý kiến của cán bộ quản lý về việc đánh giá mức độ quan trọng của các hoạt động sinh kế dựa vào giá trị kinh tế mà các ngành này mang lại cho nền kinh tế địa phương cho thấy, các ngành trồng lúa, NTTS và du lịch được đánh giá cao về mức độ quan trọng. Đây là ngành chính được khuyến khích phát triển để đẩy mạnh sản lượng và giá trị sản xuất mà các ngành này mang lại cho địa phương. Kết quả này phù hợp với báo cáo của Ủy ban Nhân dân tỉnh An Giang năm 2014. Các ngành kinh tế này đã cung cấp 1,8 triệu tấn lúa/năm; 204.273 tấn cá tra/năm và gần 60.000 tấn các loại TS khác (Ủy ban Nhân dân tỉnh An Giang, 2014). 3.3 Phân tích hiệu quả sinh kế của các nhóm cộng đồng 3.3.1 Cộng đồng trồng lúa Lúa được nhóm nông hộ sản xuất với hai đến ba vụ/năm và 3,76 tháng/vụ (bao gồm cả thời gian nghỉ giữa hai vụ và chuẩn bị đất). Mỗi hộ gia đình có từ 18.000 ± 1.623,30 m2. Năng suất trung bình là 7,60 ± 1,46 tấn/ha/vụ và có thể đạt cao hơn vào vụ mùa đông xuân (gieo vào tháng 10 âm lịch) do đất trồng được phù sa bồi đắp sau mùa lũ. Năng suất lúa ngày càng được nâng cao, gấp 1,3 lần so với năm 2013 (Trung tâm Khuyến nông thành phố Long Xuyên, 2014) do sự phát triển nhanh chóng của công nghệ sản xuất cũng như sự gia tăng mạnh trong việc sử dụng phân bón (475,12 kg/ha/vụ) và thuốc bảo vệ thực vật. Độ lệch chuẩn khá cao do có sự đa dạng trong đối tượng được phỏng vấn canh tác nhiều giống lúa khác nhau. Với chi phí đầu tư trung bình là 17,45 ± 6,20 triệu đồng/ha/vụ, người dân có thể thu được lợi nhuận đạt 16,72 ± 9,72 triệu đồng/ha/vụ, tương đương với hơn 65 triệu đồng/hộ/năm. Nhóm nông hộ sản xuất lúa có sự đa dạng sinh kế khá cao khi tham gia thêm từ ba đến bốn các hoạt động sinh kế khác ngoài sản xuất lúa, trong đó chủ yếu là công nhân viên chức, công nhân, thợ may hoặc người tận dụng thời gian nhàn rỗi để đi làm thêm. Tổng thu nhập của hộ gia đình là An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 44 – 57 50 131,17 ± 85,57 triệu đồng/hộ/năm, tương đương với 28,4 triệu đồng/người/năm, trong đó, thu nhập từ lúa chiếm 49,55% (Bảng 2). Kết quả này cao hơn mức thu nhập bình quân đầu người ở vùng nông thôn theo điều tra về mức sống hộ gia đình của Tổng cục Thống kê năm 2012 (18,95 triệu đồng/người/năm). Cộng đồng trồng lúa có mức chi tiêu khá thấp (45,48 ± 13,20 triệu đồng/hộ/năm) nên mức tiết kiệm khá cao (85,69 ± 45,12 triệu đồng/hộ/năm). Kết quả nghiên cứu cho thấy, thu nhập của nhóm nông hộ sản xuất lúa vùng nghiên cứu được cải thiện đáng kể, người dân có khoảng tiết kiệm khá lớn từ thu nhập. Tuy nhiên, việc sinh sống ở nông thôn và các hạn chế về cơ sở hạ tầng đã gây ra một số khó khăn trong việc vui chơi, giải trí và học tập. Bảng 2. Hiệu quả kinh tế nghề trồng lúa (N = 35) Chỉ tiêu Đơn vị tính Trung bình Độ lệch chuẩn - Số vụ/năm Vụ 2,16 0,45 - Số tháng/vụ Tháng 3,76 3,07 - Diện tích lúa/hộ m2 18.000,00 1.623,30 - Năng suất/vụ/ha Tấn 7,06 1,46 - Giá bán trung bình 1.000 đ 4,84 0,75 - Doanh thu/vụ/ha Tr.đ 34,17 7,51 - Chi phí sản xuất/vụ/ha Tr.đ 17,45 6,20 - Lợi nhuận/ha/vụ Tr.đ 16,72 9,72 - Tổng thu nhập/hộ/năm Tr.đ 131,17 85,57 - % trong tổng thu nhập % 49,55 11,14 - Chi phí sinh hoạt/hộ/năm Tr.đ 45,48 13,20 - Mức tiết kiệm/hộ/năm Tr.đ 85,69 45,12 (Nguồn: Kết quả điều tra nông hộ, năm 2013) 3.3.2 Nhóm trồng rau màu Rau màu được trồng quanh năm với hệ số quay vòng là 6,17 ± 3,43 đợt. Mỗi hộ trồng kết hợp với khoảng năm loại nhằm tạo thu nhập quanh năm. Mỗi hộ có gần 3.000 m2 đất sản xuất và thu hoạch được từ 50,17 ± 33,70 tấn/ha/năm tùy thuộc vào loại rau màu. Bảng 3. Hiệu quả kinh tế nghề trồng rau màu (N = 18) Chỉ tiêu Đơn vị tính Trung bình Độ lệch chuẩn - Số vụ sản xuất/năm Vụ 6,17 3,43 - Diện tích hoa màu/hộ m2 2.958,33 1.996,78 - Năng suất trung bình/ha/hộ Tấn 50,17 33,70 - Chi phí sản xuất trung bình/ha/năm Tr.đ 94,42 57,38 - Lợi nhuận/ha/hộ Tr.đ 134,65 121,85 - Lợi nhuận từ màu/hộ/năm Tr.đ 39,82 28,56 An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 44 – 57 51 Chỉ tiêu Đơn vị tính Trung bình Độ lệch chuẩn - Tổng thu nhập/năm/hộ Tr.đ 75,11 66,72 - % trong tổng thu nhập % 53,02 41,80 - Chi phí sinh hoạt/hộ/năm Tr.đ 60,36 40,44 - Mức tiết kiệm/hộ/năm Tr.đ 14,75 6,54 (Nguồn: Kết quả điều tra nông hộ, năm 2013) Có đến 40% hộ gia đình đang vận hành trại sản xuất rau sạch theo khuyến khích của chương trình khuyến nông của thành Phố. Với chi phí sản xuất chưa đến 100 triệu đồng/ha/năm, lợi nhuận đạt được có thể lên đến 135 triệu đồng/ha/năm. Có thể nói, trồng rau màu là nghề mang lại hiệu quả kinh tế khá cao, tuy nhiên, tốn nhiều công chăm sóc và quy mô nhỏ nên thu nhập khá thấp. Phần lớn người tham gia chính là chủ hộ cùng sự trợ giúp bằng nguồn lao động của gia đình. Các thành viên còn lại chủ yếu làm những công việc hay ngành nghề khác phù hợp chuyên môn và mang lại tổng thu nhập trung bình là 75,11 ± 66,72 triệu đồng/hộ/năm. Trong đó có 53,02% thu nhập đến từ trồng rau màu. Tuy thu nhập bình quân đầu người nhóm trồng rau thấp hơn cả mức trung bình thu nhập của người dân nông thôn Việt Nam (Tổng Cục Thống kê, 2012) nhưng mức chi tiêu của nhóm này là cao nhất so với các nhóm khác (60,36 ± 40,44 triệu đồng/hộ/năm), do đó, nhóm hộ trồng rau màu có mức tiết kiệm không cao, chỉ gần 15 triệu đồng/hộ/năm (Bảng 3). 3.3.3 Nhóm nuôi cá tra Kết quả khảo sát cho thấy diện tích nuôi cá tra trung bình là 3,8 ha với khoảng bốn ao nuôi trên mỗi hộ. Nuôi cá tra có hai hình thức, bao gồm nuôi hộ gia đình nuôi nhỏ lẻ (chiếm 47,00%) và các công ty nuôi quy mô lớn (53,00%). Kết quả khảo sát cho thấy, phần lớn các hộ nuôi cá tra có quy mô nhỏ lẻ với 1,12 ha/hộ, nhỏ hơn 5,55 lần so với quy mô công ty hay doanh nghiệp (6,24 ha). Có ba mức độ quy mô bao gồm nuôi quy mô nhỏ (<1 ha), quy mô trung bình (1 – 3 ha) và quy mô lớn (> 3 ha) (Ben và cs., 2011). Bảng 4. Hiệu quả kinh tế của nghề nuôi cá tra (N = 35) Chỉ tiêu Đơn vị tính Trung bình Độ lệch chuẩn - Diện tích nuôi Ha 3,80 3,4 - FCR Lần 1,6 0,09 - Mật độ Con/m2 65,33 28,07 - Số vụ Vụ 1,5 0,32 - Tổng chi phí/ha Tr.đ 6.516,75 2.064,84 - Giá bán 1.000/kg 22,5 5,37 - Doanh thu/ha/vụ Tr.đ 6.652,65 2.749,73 - Lợi nhuận bình quân/ha/vụ Tr.đ 135,90 2.242,44 ➢ Mức lợi nhuận/ha/vụ Tr.đ 3.719,15 4.556,34 ➢ Mức thua lỗ/ha/vụ Tr.đ (2.320,88) 3.675,39 - Tỷ lệ thua lỗ % 47,62 - % trong tổng thu nhập % 92,99 54,22 An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 44 – 57 52 Chỉ tiêu Đơn vị tính Trung bình Độ lệch chuẩn - Tổng thu nhập/hộ Tr.đ 833,00 520,55 - Chi phí sinh hoạt/năm Tr.đ 53,45 14,56 - Mức tiết kiệm Tr.đ 779,55 569,80 (Nguồn: Kết quả điều tra nông hộ, năm 2013) Kết quả khảo sát cho thấy, nuôi cá tra có quy mô nhỏ dần chuyển đổi sang hình thức nuôi thâm canh quy mô lớn với các hình thức như tăng diện tích, tăng mật độ hoặc gia tăng mức độ đầu tư. Mặc dù có những bước tiến đáng kể trong công nghệ sản xuất nhưng những bất ổn về giá cả thị trường cũng như vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm đã dẫn đến sự thua lỗ trong sản xuất. Các trại nuôi quy mô nhỏ vì không có vốn tái sản xuất nên đã dần ngừng sản xuất hoặc trở thành vùng nuôi gia công cho các công ty chế biến lớn (De Silva & Phuong, 2011). Cá tra được nuôi trung bình 1,5 vụ/năm (6 đến 8 tháng/vụ). Hầu hết các ao nuôi không xử lý nước cấp và chỉ có 14,28% số trại có ao xử lý nước thải. Cá tra giống được thả với mật độ 65 ± 28 con/m2, hệ số tiêu tốn thức ăn (FCR) là 1,60 và năng suất đạt được là 327,78 tấn/ha/vụ. Tổng chi phí đầu tư cho nuôi cá tra là 6,5 tỷ đồng/ha/vụ, trong đó chi phí thức ăn và thuốc/hóa chất chiếm phần lớn trong tổng chi phí (87,54%). Kết quả này cao hơn kết quả nghiên cứu của Lam et al. (2009) là 75% do những thay đổi trong giá nguyên liệu đầu vào. Giá thành để sản xuất 1 kg cá tra là 20,36 ± 2,12 ngàn đồng, với giá bán 22,5 ± 5,37 ngàn đồng/kg thì người nuôi cá tra đạt lợi nhuận rất cao (3,72 tỷ đồng/ha/vụ). Tuy nhiên, mức độ rủi ro của nghề nuôi cá tra cũng rất lớn khi có hơn 45% bị thua lỗ với mức lỗ là 2,3 tỷ đồng/ha/vụ (Bảng 3.4). Mặc dù nuôi cá tra mang lại hiệu quả kinh tế lớn khi người dân có mức thu nhập và mức tiết kiệm rất cao (xét trên tổng thể). Nhưng đây cũng là ngành rủi ro rất lớn, lợi nhuận thu được chính là điều kiện cho người nuôi duy trì hoạt động (De Silva & Phuong, 2011). Việc thua lỗ liên tục trong những năm gần đây là nguyên nhân gây ra sự chuyển đổi quy mô từ nông hộ sang công ty ở thời điểm hiện tại. Do đó, cộng đồng nuôi cá tra ở mức độ nhỏ lẻ đã rất khó khăn trong việc duy trì sản xuất, họ dần chuyển đổi sang các ngành khác hoặc nuôi gia công cho các công ty. Đây là điều kiện tất yếu để duy trì cuộc sống và tái sản xuất đầu tư của nông hộ. 3.3.4 Nhóm nuôi các loài thủy sản khác Bảng 5. Hiệu quả kinh tế của cộng đồng nuôi các loài thủy sản nước ngọt (N = 35) Chỉ tiêu Đơn vị tính Trung bình Độ lệch chuẩn - Số vụ/năm Vụ 1,91 0,51 - Số ao/lồng/bè Ao/Cái 3,43 7,60 - Năng suất nuôi ao/ha/năm Tấn 205,81 203,50 - Năng suất nuôi bè/1000m3/năm Tấn 53,96 22,00 - Lợi nhuận/hộ/năm Tr.đ 602,50 591,12 - Tỷ lệ thua lỗ % 11,43 - Tổng thu nhập trung bình/hộ/năm Tr.đ 641,00 571,03 - % trong tổng thu nhập Tr.đ 93,99 - Chi phí sinh hoạt/năm Tr.đ 54,17 29,77 - Tiết kiệm Tr.đ 586,83 453,21 (Nguồn: Kết quả điều tra nông hộ, năm 2013) An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 44 – 57 53 Theo kết quả điều tra và phân tích hiệu quả kinh tế ở Bảng 5 cho thấy, các loài thủy sản nước ngọt khác ngoài cá tra cũng được người dân chọn nuôi tại vùng nghiên cứu bao gồm cá lóc, tôm càng xanh, cá rô phi và một số loài khác. Mỗi hộ chọn nuôi một loài với một mô hình nuôi đặc trưng bao gồm nuôi ao (45,71%) và nuôi bè (50,21%). Tùy thuộc vào loài nuôi và đối tượng nuôi mà người dân có thể đầu tư ở các quy mô và mức độ khác nhau. Với năng suất đạt được là 205,81 ± 203,50 tấn/ha/năm cho nuôi ao và 53,96 ± 22 tấn/1.000 m3/năm đối với nuôi bè và vèo, mỗi gia đình thu được lợi nhuận từ 600 đến 700 triệu đồng/năm, tuy nhiên chênh lệch rất lớn giữa các hộ do sự khác biệt trong loài nuôi, phương thức và quy mô nuôi. Nhìn chung, NTTS ở Long Xuyên (ngoài nuôi cá tra) được thể hiện với quy mô lớn và tập trung, do đó, người dân thường dành mọi nguồn lực sinh kế cho các hoạt động này. Đó là lý do mà thu nhập từ ngành này chiếm đến 94% trong tổng thu nhập của hộ. Đây cũng được xem là cộng đồng có mức sống cao và ổn định khi mức thu nhập cao hơn nhiều lần mức thu nhập bình quân đầu người của người dân Việt Nam (Tổng Cục Thống kê, 2012) và mức độ rủi ro thấp hơn nhiều so với nuôi cá tra (14%). 3.3.5 Cộng đồng khai thác thủy sản nhỏ lẻ An Giang là tỉnh đầu nguồn sông Hậu, nơi có truyền thống KTTS nước ngọt từ lâu đời nhất là vào mùa lũ nhờ đặc điểm tự nhiên (Huỳnh Văn Hiền, 2009). Do đó, vào mùa lũ, người dân tập trung khai thác cá bông lau (35%), còn lại là các loài cá tạp khác như cá linh, cá rô con, cá sặc, mè vinh, tép Ngư cụ khai thác chủ yếu là các loại lưới (35%), câu (30%), chài (20%) và các loại bẫy như đăng, lọp Kết quả cho thấy, nghề KTTS ngày càng giảm về cả sản lượng khai thác (2.629,55 ± 4.365,13 so với 3.458,9 ± 4.511,0 kg/hộ/năm) lẫn sự đa dạng loài so với khoảng 5 năm về trước (Huỳnh Văn Hiền, 2009) do nhiều nguyên nhân như: thay đổi về mực lũ hằng năm, gia tăng sử dụng nông dược trong sản xuất nông nghiệp, tăng áp lực khai thác cả về số người khai thác và ngư cụ cấm (Dương Văn Nhã & cs., 2003; Lê Xuân Sinh, 2005; Lê Xuân Sinh & cs., 2007). Bảng 6. Hiệu quả kinh tế nghề khai thác thủy sản (N = 20) Chỉ tiêu ĐVT Tr.bình ĐLC - Lượng khai thác/hộ/năm Kg 2.629,55 4.365,13 - Tổng doanh thu/hộ/năm Tr.đ 66,27 82,00 - Chi phí khai thác/hộ/năm Tr.đ 31,3 36,04 ➢ Lợi nhuận/hộ/năm Tr.đ 34.92 52,1 - Tổng thu nhập/hộ/năm Tr.đ 47,92 50,86 - % trong tổng thu nhập % 68,45 38,88 - Chi phí sinh hoạt Tr.đ 33,66 7,57 An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 44 – 57 54 Hình 2. Ngư cụ khai thác chủ yếu (Nguồn: Kết quả điều tra nông hộ, năm 2013) KTTS dần dần đã trở thành nghề phụ của các hộ từ khi có sự giảm sút hơn 70% của nguồn lợi tự nhiên (Chi cục Thủy sản, 2013). Thu nhập từ nghề KTTS tuy có cao hơn nghiên cứu của Huỳnh Văn Hiền (2009) nhưng mức tăng rất ít (34,92 ± 52,10 triệu đồng/năm so với 22,3 ± 25,8 triệu đồng/năm), không đủ bù đắp mức tăng của mức sống người dân. Nếu so sánh đời sống của cộng đồng KTTS với các nhóm khác trong vùng nghiên cứu, có thể thấy đây là nhóm có mức sống thấp nhất, đời sống không ổn định và thấp hơn cả mức sống của người dân vùng Đồng bằng sông Cửu Long nói chung theo Tổng cục Thống kê năm 2012 (thu nhập bình quân đầu người 7,8 triệu đồng/năm, chi tiêu 7,4 triệu đồng/người/năm so với 18,92 và 16,3 triệu đồng/người/năm). 3.4 Những vấn đề còn tồn tại trong sinh kế cộng đồng nông nghiệp, thủy sản và đề xuất giải pháp Kết quả của nghiên cứu cho thấy, đối với các nhóm nông nghiệp, TS tại địa bàn nghiên cứu, bên cạnh một số nhóm có cuộc sống khá ổn định như nhóm NTTS và nhóm trồng lúa, các nhóm còn lại vẫn phải đối mặt với một số khó khăn trong cuộc sống, trong đó điển hình là những khó khăn thuộc về thị trường tiêu thụ sản phẩm nông thủy sản khi mà giá cả đầu ra và thị trường bấp bênh (28,65%), cũng như yêu cầu về an toàn vệ sinh thực phẩm ngày càng cao (17,19%). Những khó khăn thuộc về yếu tố sản xuất cũng gây khó khăn cho sản xuất cũng như đời sống cộng đồng được nêu ra như năng suất sản xuất ngày càng giảm do tác động của ô nhiễm môi trường hay biến đổi khí hậu (21,87%) hay kỹ thuật sản xuất còn hạn chế (5,73%). Sinh kế cộng đồng còn phụ thuộc vào thu nhập được đóng góp từ các thành viên trong gia đình, tuy nhiên, việc có việc làm phù hợp cho các thành viên tạo ra mức đa dạng sinh kế là một trong những khó khăn trong việc nâng cao đời sống sinh kế của cộng đồng (7,81%) (Hình 3). Lưới 35% Chài 20% Câu 30% Các loại bẫy 15% An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 44 – 57 55 Hình 3. Những khó khăn trong sinh kế cộng đồng nông nghiệp/thủy sản (Nguồn: Kết quả điều tra nông hộ, năm 2013) Từ các vấn đề phát sinh như trên, một số giải pháp được đề xuất nhằm cải thiện và phát triển sinh kế cộng đồng, bao gồm: - Đào tạo nghề để đa dạng sinh kế nông hộ: tăng cường các lớp đào tạo nghề nhất là lao động phổ thông nhằm tạo ra mức độ đa dạng sinh kế cho cộng đồng nhất là nhóm KTTS. - Xây dựng các mối liên kết dọc và ngang: nhằm xây dựng mối quan hệ theo chuỗi cho các ngành hàng nông nghiệp và TS, đảm bảo đầu ra cũng như giá cả. - Tăng cường tập huấn kỹ thuật sản xuất cho nông dân: nhằm cải thiện năng suất sản xuất, nhất là kỹ thuật trồng hoa màu giá trị cao và kỹ thuật trong KTTS. - Áp dụng các tiêu chuẩn chất lượng: như Global GAP, VietGAP, ASC, organic standard nhằm đảm bảo và nâng cao tiêu chuẩn xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu của nước nhập khẩu. - Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp: mô hình nuôi cá tra hộ gia đình đã không còn phù hợp cũng như một số trở ngại trong nghề KTTS nội đồng, cần có kế hoạch chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp, tạo việc làm cho các nhóm cộng đồng có sinh kế bất ổn. 4. KẾT LUẬN Vùng sinh thái hạ lưu sông Hậu tại địa bàn nghiên cứu đã tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động sinh kế của người dân sản xuất nông nghiệp và TS. Kết quả nghiên cứu cho thấy, sản xuất lúa (52,67%; 5/5 điểm) và TS (28%; 4,5/5 điểm) là hai ngành sinh kế phổ biến và quan trọng nhất tại địa bàn nghiên cứu. Các nhóm hộ sản xuất này được đánh giá là các hoạt động quan trọng nhất dựa vào mức độ phổ biến và giá trị kinh tế đóng góp vào sự phát triển kinh tế của địa phương. Nhóm nông hộ trồng lúa có sinh kế đa dạng và khá ổn định với thu nhập 131,17 ± 85,57triệu đồng/hộ/năm. Nhóm nuôi TS khác có đời sống ổn định, thu nhập cao (600 triệu đồng/hộ/năm) và ít rủ ro hơn so với nhóm khác. Nhóm nuôi cá tra mặc dù có thể đạt được lợi nhuận rất cao nhưng mức độ rủi ro quá lớn và ngày càng không phù hợp cho kinh tế hộ gia đình vì vậy người dân đã dần dần chuyển đổi sang hình thức sinh kế khác. KTTS và trồng rau là nhóm có sinh kế bất ổn nhất với thu nhập thấp và người dân đang phụ thuộc quá nhiều vào một ngành sản xuất chính để mưu sinh. Giá cả thị trường bất ổn, năng suất sản xuất giảm, sức khỏe cộng đồng, vấn đề ô nhiễm nước, sự suy thoái môi trường và mức độ đa dạng sinh kế thấp được xem là những khó khăn điển hình 28.65 21.87 17.19 7.81 5.73 18.75 0 5 10 15 20 25 30 Giá cả và thị trường ngày càng khó khăn Năng suất giảm do tác động môi trường ATVSTP và sức khỏe cộng đồng Việc làm cho các thành viên Kỹ thuật sản xuất hạn chế Các vấn đề khác % Vấn đề phát sinh An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 44 – 57 56 của các nhóm cộng đồng địa phương. Nhà nước và các cơ quan chức năng cần chú ý hơn vào việc đa dạng hóa sinh kế cho người dân bằng cách đào tạo nghề, tạo nhiều công ăn việc làm, cải tiến kỹ thuật sản xuất và áp dụng các tiêu chuẩn chất lượng nhằm nâng cao chất lượng cũng như phù hợp với điều kiện sinh thái của địa phương. 5. LỜI CẢM TẠ Tác giả xin chân thành gởi lời cám ơn đến chương trình SIDA, Thụy Điển đã tài trợ kinh phí thực hiện nghiên cứu này trong dự án Quản lý dịch vụ hệ sinh thái cho việc sản xuất thủy sản bền vững. Tác giả cũng xin gởi lời cám ơn đến một số cán bộ giảng viên và sinh viên của Bộ môn Thủy sản của Trường Đại học An Giang và Khoa Thủy sản của Trường Đại học Cần Thơ đã tham gia và hỗ trợ chúng tôi hoàn thành nghiên cứu này. TÀI LIỆU THAM KHẢO Ben, B., Haque, M. M., David, C. L., & Sinh, L. X. (2011). The social relation of catfish production in Vietnam. Journal of Geoforum, 42, 567 - 577. Chi Cục Thủy Sản An Giang. (2015). Kết quả thực hiện nhiệm vụ, tình hình khai thác và nuôi trồng thủy sản tỉnh An Giang năm 2015. Báo cáo tổng kết năm 2015 và phương hướng nhiệm vụ năm 2016. De Silva, S. S., & Phuong, N. T. (2011). Striped catfish farming in the Mekong Delta, Vietnam: a tumultuous path to global success. Revews in Aquaculture, 3, 45 – 73. 53-5131.2011.01046.x/full Department for International Development. (1999). Sustainable Livelihoods Guidance sheets. Retrieved from: 0901/section2.pdf. 26 pages. Dương Văn Nhã. (2003). Đánh giá tác động của hệ thống đê bao triệt để đối với nguồn lợi thủy sản ở An Giang. Chương trình Nghiên cứu Việt Nam – Hà Lan (VNRP). Huỳnh Văn Hiền. (2009). Vai trò của khai thác thủy sản đối với sinh kế của nông hộ sống trong vùng lũ ở Đồng Bằng Sông Cửu Long. Truy cập từ: _id=157830, cơ sở dữ liệu Trường Đại học Cần Thơ. InvestinVietnam.vn. (2013). Mekong Delta/An Giang. Truy cập từ: region/85/155/An-Giang.aspx. Lam, P. T., Tam, B. M., Thuy, N. T. T., Gooley, G. J., Ingram, B. A, Hao, N. V., DeSilva, S. S. (2009). Current status of farming practices of striped catfish (Pangasianodon hypophthalmus) in the Mekong Delta, Vietnam. Journal of Aquaculture, 296, 227 – 236. 8.017 Lê Xuân Sinh. (2005). Quản lý và phát tiển nguồn lợi thủy sản ở vùng ngập lũ của Đồng Bằng Sông Cửu Long trong tình hình mới. Kỷ yếu Hội thảo Môi trường và Nguồn lợi thủy sản, Thành phố Hải Phòng, Việt Nam. Lê Xuân Sinh, Đỗ Minh Chung, Huỳnh Văn Hiền, Đặng Thị Phượng và Võ Thành Toàn. (2007). Tác động kinh tế - xã hội của tổn thất cá trong vùng tiểu dự án thủy lợi Ô Môn - Xà No. Kỷ yếu Hội thảo Sự hài hoà giữa việc giảm nghèo và môi trường. Đại học Kinh tế Quốc dân, Việt Nam. Nguyen Thi Kim Quyen. (2014). Stakeholder perceptions on the Hau river ecosystem services and the potential changes to them under hypothetical Pangasius farming An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 44 – 57 57 scenarios in An Giang province, Vietnam (Unpublished Master thesis). School of Environment, Resources and Development, Asian Institute of Technology, Thailand. No. AQ-14-02. Nguyễn Xuân Mai và Nguyễn Duy Thắng. (2011). Sinh kế của cộng đồng ngư dân ven biển: Thực trạng và giải pháp. Tạp chí Xã hội học, 4 (116), 54 – 66. Truy cập từ: aiTapChi/TCXHH 2011/So4_2011_Mai- Thang.pdf Ủy Ban Nhân Dân tỉnh An Giang. (2014). Báo cáo thực hiện phát triển kinh tế - xã hội năm 2014 và phương hướng nhiệm vụ năm 2015. Truy cập từ: ?q=cache:ANO5TzlO1WwJ:www.angiang.go v.vn/wps/portal/!ut/. Tổng Cục Thống Kê. (2012). Kết quả khảo sát mức sống dân cư Việt Nam năm 2012. Nhà Xuất bản Thống kê.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfkhao_sat_sinh_ke_nong_nghiep_va_thuy_san_dang_su_dung_he_sin.pdf