Kết luận
Mặc dù năm 2015 không có lũ, một số dòng LMN
vẫn khá cao trên 2 m và có đến 29 dòng đạt năng
suất cao hơn giống đối chứng tại địa phương. Đặc
biệt có ba dòng: CM28, TB30 và CM46 năng suất
cao hơn 3 tấn/ha. Các dòng có năng suất cao hơn
đối chứng có mức độ kháng đến hơi nhiễm đối
với bệnh đạo ôn cổ bông, thối bẹ và đốm nâu.
Kiến nghị
Chọn các dòng có năng suất cao hơn giống đối
chứng tiếp tục thực hiện so sánh năng suất có lặp
lại trên các địa phương muốn phát triển LMN
nhằm tìm ra giống/dòng thích nghi cho từng địa
phương. Bên cạnh đó cần khảo sát bệnh đạo ôn
trong điều kiện nương mạ và hàm lượng dinh
dưỡng như vitamin B, protein để nâng cao giá trị
của LMN.
9 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 24/03/2022 | Lượt xem: 214 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát các dòng lúa mùa nổi tại huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang, vụ mùa 2015-2016, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 15 (3), 40 – 48
40
KHẢO SÁT CÁC DÒNG LÚA MÙA NỔI TẠI HUYỆN CHỢ MỚI,
TỈNH AN GIANG, VỤ MÙA 2015-2016
Nguyễn Thị Thanh Xuân1, Lê Hữu Phước1
1Trường Đại học An Giang
Thông tin chung:
Ngày nhận bài: 16/06/2016
Ngày nhận kết quả bình duyệt:
28/09/2016
Ngày chấp nhận đăng: 06/2017
Title:
A survey on floating rice
farming systems in Cho Moi
district, An Giang province in
2015-2016
Keywords:
Floating rice, varieties/
lines, Cho Moi, Thanh
Binh, Tri Ton
Từ khóa:
Lúa mùa nổi, giống/dòng,
Chợ Mới, Thanh Bình, Tri
Tôn
ABSTRACT
Floating rice farming systems are friendly for agricultural ecosystem because
of not using chemicals and pesticides. However, the yield of floating rice is
quite low. Therefore, the selection of pure lines which high yiels plays an
important role. The study of 76 lines of floating rice selected from Thanh Binh
district, Dong Thap province and Cho Moi and Tri Ton district, An Giang
province was carried out in non-replicated trial at My An commue, Cho Moi
district in 2015 -2016. Grain yield, agronomic and grain traits, and diseases
were collected. The results show that most lines flowered in November and
harvested in December year?. The growth duration was from 140 to 165 days.
Plants’ heights varied from 1.6 meters to 2.5 meters. Especially, plants of the
lines - CM26, CM27, CM28, CM29, CM30, CM31 were found higher than 2
meters. The tillers increased strongly from 30 to 60 days after being sowed.
Yields ranged from 0.2 to 4.4 tons/ha. The lines CM28 gave the highest yield of
4.4 tons/ha, and 28 other lines gave their yields that were higher than the yield
of local check variety. CM33, CM45, TT42 were very resistant to panicle blast.
CM45, CM46, TB27, TT26, TT41, TT43, TT49 lines were found to be resistant
to sheath rot, and TB41, TB42, TB43, TB44, TB45, TB46, TT34 were resistant
to brown spot. Most lines were high to intermediate - gelatinization temperature
starch, and only three lines were from the average to low level. High-potential
yield lines’ further research should be on pest tolerance and grain qualities.
TÓM TẮT
Hệ thống canh tác lúa mùa nổi thân thiện với môi trường bởi vì không hoặc sử
dụng rất ít phân hóa học và thuốc bảo vệ thực vật. Tuy nhiên, năng suất lúa
mùa nổi thấp. Nghiên cứu nhằm tìm các dòng có năng suất cao hơn giống đang
trồng tại địa phương. Thí nghiệm gồm 76 dòng thu thập ở Thanh Bình (Đồng
Tháp), Chợ Mới và Tri Tôn (An Giang) được bố trí tuần tự, không lặp lại tại xã
Mỹ An, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Các chỉ tiêu nông học, năng suất, phẩm
chất và dịch hại đã được thu thập. Kết quả cho thấy, hầu hết các dòng lúa trong
bộ giống trổ vào tháng 11 dương lịch và thu hoạch trong tháng 12, thuộc nhóm
lúa mùa lỡ. Thời gian sinh trưởng của các dòng từ 140 đến 165 ngày. Chiều
cao cây từ 1,6 m đến 2,5 m, các dòng CM26, CM27, CM28, CM29, CM30,
CM31 cao hơn 2 m. Chồi tăng mạnh giai đoạn từ 30 đến 60 ngày sau khi gieo.
Số hạt chắc/bông cao nhất 275 hạt và thấp nhất 38 hạt/bông. Có 29 dòng năng
suất cao hơn giống đối chứng, trong đó có ba dòng năng suất cao hơn 3 tấn/ha
là CM28, TB30 và CM46. Các dòng chống chịu tốt với đạo ôn cổ bông là:
CM33, CM45, TT42; chống chịu khá tốt với bệnh thối bẹ là CM45, CM46,
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 15 (3), 40 – 48
41
TB27, TT26, TT43, TT49 và chống chịu với bệnh đốm nâu gồm TB41, TB42,
TB43, TB44, TB45, TB46, TT34. Các dòng có năng suất trong bộ giống có mức
chống chịu bệnh từ kháng đến hơi nhiễm. Tỷ lệ bạc bụng cao, nhiệt độ hóa hồ
đa số dòng ở mức trung bình. Đáng chú ý có 3 dòng có mức độ hóa hồ thấp –
trung bình. Cần tiếp tục nghiên cứu các dòng có năng suất và có khả năng
kháng bệnh, đồng thời chú ý đến phẩm chất hạt.
1. GIỚI THIỆU
Hệ thống canh tác lúa mùa nổi (LMN) rất thân
thiện với môi trường vì sử dụng rất ít phân bón
hóa học và thuốc bảo vệ thực vật. Canh tác LMN
còn khai tác các nguồn lợi thủy sản, bảo tồn
nguồn gen quí hiếm, giữ được độ phì của đất và
điều tiết lượng nước lũ, giảm áp lực vỡ đê. Hơn
nữa, LMN được canh tác gần giống canh tác hữu
cơ (không hoặc ít bón phân hóa học, thuốc bảo vệ
thực vật) và có một số thành phần dinh dưỡng
quý như anthocyanin, vitamin E, B cao (Hồ
Thanh Bình & Trần Nghĩa Khang, 2013).
Kết quả khảo sát và thu thập các dòng LMN vụ
mùa năm 2014 phát hiện còn 02 nhóm LMN là
lúa mùa sớm (thu hoạch vào tháng 11 dương lịch
(dl)) ở Chợ Mới (An Giang) và Thanh Bình
(Đồng Tháp) và nhóm lúa mùa lỡ (thu hoạch
tháng 12dl hoặc tháng 01dl) còn trồng tại Tri Tôn,
An Giang (Lê Thanh Phong & Lê Hữu Phước,
2015). Tại Tri tôn, An Giang nông dân gọi giống
đang trồng là “Bông sen”. Tuy nhiên, quan sát và
thu mẫu đã phát hiện có rất nhiều dạng khác nhau.
Các giống lẫn tạp được nông dân am hiểu tại địa
phương xác nhận là các giống Chệt Cụt, Nàng
Tây Đùm, Nàng Tây Nút, Nàng Pha, Lúa Trời (Lê
Thanh Phong & Lê Hữu Phước, 2015). Ở Chợ
Mới (An Giang) và Thanh Bình (Đồng Tháp),
quần thể LMN đang trồng gồm các giống Tây
Đùm, Chệt Cụt, Nàng Chồi, Tây Bông Dừa Lê
Thanh Phong và Lê Hữu Phước (2015) đã chọn từ
các quần thể giống ở ba huyện các dạng bông
khác nhau (178 dạng). Các dạng này đã được
phân thành các nhóm khác nhau như có vỏ cám
đỏ/trắng, dạng bông đùm hoặc xòe, dạng lá cờ to,
dài hoặc ngắn. Số lượng hạt chắc trên bông cũng
biến động khá lớn từ 50 đến hơn 300 hạt.
Tuy nhiên, năng suất LMN tại Tri Tôn còn rất
thấp, 1,5 - 2 tấn/ha (Nguyen Van Kien, 2013),
dạng hạt không đồng đều (Lê Thanh Phong & Lê
Hữu Phước, 2015). Lẫn tạp giống là nguyên nhân
chính dẫn đến sản phẩm gạo không đồng đều về
kích cỡ lẫn màu sắc. Kích cỡ không đồng đều
cũng có thể ảnh hưởng đến tỉ lệ xay chà. Để có
thể bảo tồn hoặc mở rộng diện tích LMN, vấn đề
sản phẩm cho thương mại cần phải được quan
tâm đặc biệt. Vấn đề này đồng nghĩa với việc phải
chọn lọc quần thể LMN. Vì vậy, đề tài “Khảo sát
76 dòng lúa mùa nổi tại Chợ Mới, An Giang, vụ
mùa 2015-2016” được thực hiện, với mục tiêu
tuyển chọn dòng LMN đạt năng suất bằng hoặc
cao hơn giống hiện có tại địa phương, thích ứng
với vùng Chợ Mới, An Giang.
2. PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1 Phương tiện
Nguồn vật liệu: 76 dòng LMN được chọn lọc từ 3
vùng còn trồng LMN, trong đó 26 dòng chọn ở
huyện Tri Tôn, 25 dòng thuộc Chợ Mới tỉnh An
Giang và 25 dòng thuộc huyện Thanh Bình, tỉnh
Đồng Tháp và giống đối chứng địa phương tại
điểm thí nghiệm (Mỹ An, Chợ Mới, An Giang),
nông dân chỉ gọi “Lúa Mùa Nổi” nên chúng tôi
tạm đặt tên là CMĐC. Các dòng đã được đặt tên
ngắn ngọn gồm phần chữ thể hiện nơi đã chọn
dòng và số là thứ tự các dòng đã thực hiện thí
nghiệm của nhóm nghiên cứu.
Thời gian thực hiện: Vụ mùa 2015 - 2016 (tháng
07/2015 – 01/2016), tại xã Mỹ An, Chợ Mới, An
Giang.
2.2 Phương pháp
Thí nghiệm khảo sát bộ 76 dòng LMN được bố trí
tuần tự, không lặp lại với diện tích mỗi lô 7,5 m2,
khoảng cách giữa các lô 0,5 m. Sử dụng phương
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 15 (3), 40 – 48
42
pháp gieo 1 hạt/hốc với mật độ 15 x 30 cm. Lúa
được gieo dự phòng ở mỗi cuối băng để cấy dậm.
Các lô được giăng cố định dây thừng dưới mặt đất
(chia lô) nhằm giúp định vị từng lô. Khi lúa cao,
cắm cây mỗi góc của lô và giăng dây cao khoảng
60 cm để giữ bông lúa của mỗi lô. Thí nghiệm
không bón phân vô cơ và chỉ sử dụng Basudin 10,
1kg/1000 m2 sau khi gieo để phòng tránh chim
chuột ăn hạt giống.
Đặc điểm nông học
- Số chồi/bụi: đếm toàn bộ số chồi trên bụi,
chồi được tính phải có từ 03 lá.
- Chiều cao cây: Chiều cao cây được đo từ
mặt đất đến chót lá cao nhất (khi chưa trổ
bông), đến chót bông (khi lúa đã trổ).
Chiều cao cây và số chồi đo, đếm 3 lần: 30, 60
ngày sau khi gieo (NSG) và thu hoạch, đo/đếm: 5
bụi/dòng.
Thành phần năng suất
Mỗi dòng chọn ngẫu nhiên 5 bụi đếm:
- Đếm số bông, số hạt chắc, lép, đếm 1000
hạt.
- Cân trọng lượng hạt của 5 bụi, cân 1000 hạt
và ẩm độ để quy về trọng lượng 1000 hạt ở
ẩm độ 14%.
Tính thành phần năng suất: Số bông/m2, số hạt
chắc/bông, tỉ lệ lép (%), trọng lượng 1000 hạt
(gam).
Năng suất: Mỗi lô thu hoạch hết các bụi lúa ở 3
hàng giữa, không thu 2 hàng bìa. Đếm tổng số
bụi, tách hạt, giê sạch, cân trọng lượng, đo ẩm độ
quy về ẩm độ chuẩn (14%), tính năng suất.
Phẩm chất hạt: Bạc bụng và độ hóa hồ đã được
đánh giá trên các dòng có năng suất khá cao. Các
phương pháp thực hiện theo tiêu chuẩn IRRI
2002.
Bệnh hại: Bệnh đốm nâu (Bipolaris oryzae):
đánh giá giai đọan trước khi lúa trổ, bệnh đạo ôn
cổ bông (Pyricularia oryzae), bệnh thối bẹ
(Soracladium oryzae) đánh giá giai đoạn thu
hoạch theo tiêu chuẩn đánh giá của IRRI 2002.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1 Điều kiện tự nhiên và mực nước lũ
Trước khi trồng LMN, nông dân trồng bắp non.
LMN được trồng sau khi thu hoạch bắp hoặc sạ
gởi vào ruộng bắp vào đầu tháng 7. Đối với ruộng
thí nghiệm, sau khi thu hoạch bắp, ruộng được xới
bằng máy xới nhỏ, lật gốc bắp rồi gieo LMN.
Năm 2015 là năm hạn hán của Đồng bằng sông
Cửu Long do hiện tượng El Nino với mức độ trầm
trọng. Giai đoạn mới xuống giống, ruộng không
có nước. Tháng 8 và tháng 9, thí nghiệm không bị
ngập, cây lúa sử dụng nước chủ yếu từ mưa.
Tháng 10 trong ruộng duy trì mức nước từ 5 - 15
cm. Cuối tháng 10, mức nước cao hơn 10 - 35 cm.
Ghi nhận mực nước trung bình tại 5 điểm trên
ruộng ngày 16/10/2015 và 31/10/2015 là 7,2 cm
và 20,0 cm. Đến ngày 15/11/2015 mực nước đã
cạn đến cuối vụ.
3.2 Côn trùng và bệnh hại
Bệnh hại:
Bệnh đạo ôn (Pyricularia oryzae)
Bệnh đạo ôn cổ bông chiếm tỷ lệ rất cao ở các
dòng LMN Thanh Bình (26,2%), tương đương với
giống đối chứng (27,7%). Hai nhóm này cao hơn
gấp đôi so với nhóm Chợ Mới: 10,1% và nhóm
Tri Tôn: 12,5%. Các dòng có khả năng kháng
bệnh gồm CM33, CM45, TB47, TT42 và các
dòng nhiễm bệnh nặng gồm TB29, TB34, TB43.
Bệnh thối bẹ (Soracladium oryzae)
Phân nhóm theo phân cấp của IRRI (2002) cho
thấy, có 7 dòng hoàn toàn không bị nhiễm bệnh
thối bẹ: CM45, CM46, TB27, TT26, TT41, TT43,
TT49. Trong khi đó, có 3 dòng: CM29, TT28,
TT33 nhiễm bệnh cấp 7. Nhiễm thối bẹ trung bình
được thể hiện ở hơn 50% số dòng.
Bệnh đốm nâu (Bipolaris oryzae)
Chỉ có 1 dòng TB43 rất kháng đốm nâu, 6 dòng:
TB41, TB42, TB44, TB45, TB46, TT34 kháng
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 15 (3), 40 – 48
43
cấp 1 và 10 dòng cấp 2. Còn lại các dòng nhiễm
bệnh ở từ cấp 3 đến cấp 7. Chú ý các dòng TT32,
TT48, CMĐC nhiễm cấp 7.
Côn trùng: Một số loài côn trùng xuất hiện như
sâu đục thân hai chấm (Scirpophaga
incertulas Walker), nhện gié (Steneotarsonemus
spinki Smiley), rầy nâu (Nilaparvata lugens), sâu
cuốn lá nhỏ (Cnaphaclocrocia medinalis) nhưng
không gây hại đáng kể.
Trong suốt vụ không phun thuốc trừ dịch hại. Do
đó, kết quả về nhiễm hoặc kháng bệnh có thể
tham khảo như khả năng chống chịu của dòng lúa
với bệnh nêu trên.
3.3 Nông học
Thời gian trổ: Thời điểm trổ của đa số các dòng
(59 dòng) vào 2 tuần đầu tháng 11 dl, 12 dòng trổ
vào tuần thứ 3 của tháng 11 và có 6 dòng trổ sớm
cuối tháng 10. Các dòng trổ sớm phần lớn có
nguồn gốc từ Thanh Bình.
Thời gian sinh trưởng: Những dòng có thời gian
sinh trưởng ngắn thuộc nhóm Chợ Mới là CM50
(143 ngày), các dòng thuộc Thanh Bình: TB26,
TB27, TB30, TB31, TB32, TB28, TB29, TB34,
TB35, TB36, TB37, TB38, TB39, TB40, TB44,
TB48, TB49 (140- 143 ngày), dòng thuộc Tri Tôn
là TT26, TT38 (143 ngày).
Chiều cao
Ở hai thời điểm đo chiều cao 30 NSG và 60 NSG,
trung bình cả 3 nhóm dòng thuần Chợ Mới, Thanh
Bình và Tri Tôn không khác biệt nhau nhiều. Ở 30
NSG, chiều cao dao động trong khoảng 55 đến 59
cm; ở 60 NSG chiều cao tăng gần gấp đôi, trung
bình từ 100 cm (Tri Tôn), 114 cm (CMĐC). Thời
điểm thu hoạch: chiều cao của các dòng từ 180 -
210 cm. Các dòng có nguồn gốc Chợ Mới (210
cm) có chiều cao trung bình lúc thu hoạch cao hơn
các dòng thuộc Thanh Bình và Tri Tôn (Bảng 1).
Chiều cao của cây LMN ảnh hưởng rất lớn bởi
mức nước lũ và thời điểm ngập. Năm 2015, không
có nước lũ, ruộng khảo sát này do nằm trong đê
bao lửng nên có thể chặn cống lại giữ mực nước
khi nước ròng cho cây LMN phát triển do đó
chiều cao của một số dòng vẫn khá cao. Nghiên
cứu trước đây của Đặng Kim Sơn & Nguyễn
Minh Châu (1987), các giống Ba Bông, Chệt Cụt,
Nàng Tây cao 250 - 260 cm hoặc giống Leb Mue
Nahng 111 của Thái Lan cũng chỉ cao 250 - 270
cm với mức nước lũ trong năm 1982 và 1986 khá
cao: 1,05 đến 1,6 m (Denning & Võ Tòng Xuân,
1995).
Số chồi
Giai đoạn 30 NSG: chồi phát triểm chậm, chỉ từ 5
chồi/bụi (Tri Tôn và Thanh Bình) đến 6 chồi/bụi
(Chợ Mới). Giai đoạn 60 NSG: lúc này có nước
lên ruộng, cây lúa nảy chồi khá nhanh, số chồi/bụi
khá cao, từ 12-13 chồi/bụi. Thời điểm thu hoạch,
số chồi trung bình của nhóm dòng thuộc Tri Tôn
cao nhất 14 chồi/bụi (Bảng 1).
Bảng 1. Chiều cao và số chồi của 76 dòng lúa mùa nổi phân chia theo địa phương đã thu thập, vụ mùa 2015-2016
Nhóm
Chiều cao (cm) Số chồi/bụi
30 NSG 60 NSG Thu hoạch 30 NSG 60 NSG
Thu
hoạch
Chợ Mới 59 ± 4 107 ± 8 211 ± 12 6 ± 1,4 13 ± 2 10 ± 2
Thanh Bình 55 ± 4 103 ± 8 182 ± 12 5 ± 1,7 13 ± 3 12 ± 3
Tri Tôn 55 ± 5 100 ± 11 187 ± 12 5 ± 1,5 13 ± 4 14 ± 5
CMĐC* 57 ± 4 115 ± 7 205 ± 10 6 ± 0,3 12 ± 1 13 ± 1
Chú thích: ±: độ lệch chuẩn với n = 25, (*): n = 4, NSG: ngày sau khi gieo
3.4 Thành phần năng suất và năng suất
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 15 (3), 40 – 48
44
Số bông/m2
Số bông/m2 các dòng theo nguồn gốc cho thấy
trung bình các dòng ở Tri Tôn có số bông cao
nhất, tiếp theo là Chợ Mới và cuối cùng là Thanh
Bình. Từ đó cho thấy, trong nhóm dòng có nguồn
gốc từ Tri Tôn và Thanh Bình có sự biến động lớn
giữa các dòng thể hiện ở độ lệch chuẩn cao hơn
của nhóm Chợ Mới.
Hạt chắc/bông
Nhóm dòng lúa có nguồn gốc Chợ Mới có trung
bình hạt chắc cao nhất, tiếp theo là nhóm dòng Tri
Tôn và cuối cùng là nhóm dòng thuộc Thanh Bình
lần lượt là 176, 153 và 124 hạt chắc/bông. Nhóm
dòng thuộc Thanh Bình không những có số hạt
chắc/bông thấp mà còn biến động lớn giữa các
dòng với độ lệch chuẩn cao (62) trong khi độ lệch
chuẩn của nhóm dòng thuộc Tri tôn chỉ là 31
(Bảng 2).
Trọng lượng 1000 hạt
Bảng 2 cho thấy, nhóm dòng lúa thuộc Thanh
Bình có trọng lượng nhỏ nhất (21 g) và lớn nhất
thuộc nhóm dòng Chợ Mới (24,4 g).
Tỷ lệ hạt chắc
Phân nhóm tỉ lệ hạt chắc theo nguồn gốc giống:
các dòng có nguồn gốc ở Chợ Mới có tỉ lệ cao
nhất (72,6%), trong khi các dòng ở Thanh Bình và
Tri Tôn chỉ đạt 60 - 61,5%.
Bảng 2. Thành phần năng suất của 76 dòng lúa mùa nổi phân chia theo địa phương đã thu thập, vụ mùa 2015 - 2016
Nhóm giống Số bông/m2 Hạt chắc/bông Trọng lượng 1000
hạt (g)
Tỉ lệ hạt chắc
(%)
Chợ mới 127 ± 30 176 ± 46 24,4 ± 2,1 72,6 ± 9,5
Thanh Bình 119 ± 42 124 ± 62 21,0 ± 1,4 60,0 ± 17,3
Tri Tôn 134 ± 49 153 ± 31 23,0 ± 2,0 61,5 ± 2,1
CMĐC (*) 152 ± 20 161 ±15 24,6 ± 1,2 79,7 ± 1,1
Chú thích: ±: độ lệch chuẩn với n = 25, (*): n = 4
Năng suất
Nhóm dòng có nguồn gốc Chợ Mới đạt năng suất
trung bình cao nhất, tiếp theo là nhóm thuộc Tri
Tôn và cuối cùng là nhóm dòng thuộc Thanh Bình
(Bảng 3).
Năng suất của bộ giống biến thiên từ 0,27 đến
4,41 tấn/ha. Có đến 29 dòng có năng suất cao hơn
giống đối chứng (Bảng 4). Trong đó có 16 dòng
có nguồn gốc từ Chợ Mới, 6 dòng có nguồn gốc
từ Thanh Bình và 7 dòng từ Tri Tôn (Bảng 4).
Bảng 3. Năng suất của 76 dòng lúa mùa nổi phân chia theo địa phương đã thu thập, vụ mùa 2015 - 2016
Nhóm giống Năng suất (t/ha) min max
Chợ Mới 2,0 ± 0,7 1,1 4,41
Thanh Bình 1,3 ± 0,9 0,29 3,35
Tri Tôn 1,4 ± 0,7 0,27 2,67
CMĐC(*) 1,7 ± 0,2
Chú thích: ±: độ lệch chuẩn với n = 25, (*): n = 4, max: tối đa, min: tối thiểu
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 15 (3), 40 – 48
45
Bảng 4. Năng suất và thành phần năng suất của các dòng lúa mùa nổi triển vọng vụ mùa 2015 - 2016
ST
T
Tên
dòng
Bông/
m2
Hạt
chắc/bông
Trọng lượng
1000 hạt (g)
Tỉ lệ hạt chắc (%)
Năng
suất
(T/h
a)
1 CM28 100 148 28,7 70,8 4,41
2 CM29 100 102 24,1 60 1,77
3 CM30 124 133 26,9 63,9 2,05
4 CM31 98 147 25,7 82,7 1,86
5 CM34 106 184 22,3 80,0 1,97
6 CM36 149 188 23,3 78,8 2,27
7 CM37 157 164 24,8 84,6 2,60
8 CM38 134 105 23,8 59,8 2,41
9 CM39 120 162 29,1 83 2,04
10 CM41 140 157 27,1 63,5 2,03
11 CM43 102 220 23,2 74,7 1,83
12 CM44 175 188 22,9 69 2,04
13 CM46 180 233 22,4 77,3 3,13
14 CM48 146 223 23,3 70,0 2,49
15 CM49 107 275 20,8 73,8 2,03
16 CM50 95 207 25,6 73,8 2,29
17 TB30 120 165 22,2 80,3 3,35
18 TB33 132 83 22,6 50,2 2,65
19 TB35 53 134 29,3 74,4 2,03
20 TB39 167 158 18,6 79,7 2,27
21 TB42 100 182 25,1 82,4 2,38
22 TB49 239 99 23,6 65,7 2,86
23 TT36 75 204 24,0 68,5 2,44
24 TT38 139 101 22,0 60,0 1,88
25 TT39 202 128 23,3 80,1 2,11
26 TT41 120 141 22,8 77,4 2,48
27 TT42 193 150 21,9 78,8 2,38
28 TT43 178 181 23,1 87,4 1,98
29 TT45 198 164 24,1 72,4 2,67
30 CMD
152 161 24,6 79,7 1,71
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 15 (3), 40 – 48
46
Đồng bằng Sông Cửu Long vào thập niên 80,
nước lũ phủ khắp vùng rộng lớn, chỉ có LMN
thích nghi được trong điều kiện ngập đến 3 m tại
thời điểm trổ bông và cho năng suất 1 - 2 tấn/ha
(Denning & Vo Tong Xuan, 1995). Giống Ba
Bông cho năng suất 2 - 2,5 tấn/ha, Trệt Cụt: 1,5 -
2 tấn/ha, Nàng Tây: 1,7 - 2 tấn/ha (Đặng Kim Sơn
& Nguyễn Minh Châu, 1987). Năng suất các
giống ở Campuchia chỉ đạt từ 0,7 - 1 tấn/ha
(Neang Tey Dourn, Neang Saath), giống năng
suất cao như Popeay Vea, Neang Tey đạt 1,4
tấn/ha (Seng, Puckridge & Thongbai, 1988). Ở
Thái Lan, năng suất một số dòng thử nghiệm
trong giai đoạn từ 1981 - 1986 đạt từ 2,0 đến 2,8
tấn/ha (Sittayos và cs., 1988). Trong nghiên cứu
này, năng suất cao nhất đạt 4,4 tấn/ha, hai dòng
đạt trên 3 tấn/ha và 20 dòng có năng suất trên 2
tấn/ha và đối chứng địa phương đạt 1,7 tấn/ha.
Thử nghiệm ở Tri Tôn cũng có kết quả cao hơn,
dòng có năng suất cao nhất đạt 4,5 tấn/ha và có
nhiều dòng đạt trên 3 tấn/ha (Lê Thanh Phong &
Lê Hữu Phước, 2016). Một số dòng có năng suất
rất thấp, tỉ lệ hạt chắc thấp có thể do bệnh đạo ôn
cổ bông và thối bẹ gây nên (tỉ lệ bệnh hơn 40%)
hoặc có thể do thời gian sinh trưởng ngắn trong
nhóm lúa mùa sớm (140 ngày).
Số bông/m2 trong nghiên cứu này khá cao so với
các nghiên cứu ở thập niên 80. Điển hình là thử
nghiệm ở Thoại Sơn - An Giang năm 1982, giống
Nàng Tây Đùm đạt 94 bông/m2, ở Thạnh An- Cần
Thơ, giống này chỉ đạt 74 bông/m2. Năm 1984,
giống Ba Bông đạt 76 bông/m2 và năm 1986 đạt
114 bông/m2, mặc dù giống được thử nghiệm trên
cùng địa phương, Thạnh An- Cần Thơ (Denning
& Võ Tòng Xuân, 1995). Sự khác biệt về số bông
có thể do điều kiện ngập lũ. Năm 1982 và 1986
mức nước lũ khoảng 1 - 1,25 m, năm 1986 mức
nước lũ là 1,95 m. Năm 2015 gần như không bị lũ
trong khu vực thí nghiệm. Mức nước cao nhất
trong ruộng thí nghiệm chỉ 20 cm (31/10/2015) và
không bị cầm lâu mà chỉ ngập trong thời gian
ngắn, theo con nước. Kết quả nghiên cứu của Lê
Thanh Phong và Lê Hữu Phước (2016) cho thấy
LMN không những chịu đựng điều kiện ngập mà
còn có khả năng chịu hạn trong điều kiện nghiên
cứu tại Tri Tôn.
3.5 Phẩm chất hạt: Trong 29 dòng có năng suất
cao hơn đối chứng, chọn 25 dòng và một đối
chứng để phân tích một số đặc tính phẩm chất.
Bạc bụng
Tất cả 26 giống/dòng khảo sát đều bị bạc bụng từ
15 - 100 %. Dòng TT33 có tỉ lệ bạc bụng thấp
nhất 15%. Dòng CM39 và CM41 có nguồn gốc
Chợ Mới cùng có tỉ lệ bạc bụng cao nhất 100%.
Nhưng dòng CM39 lại có diện tích vết bạc bụng
nhỏ (< 10% diện tích hạt), dòng CM41 có diện
tích vết bạc bụng lớn (> 20% diện tích hạt). Còn
lại 23 dòng có tỉ lệ bạc bụng 21 - 91 % và phần
lớn có diện tích từ trung bình đến lớn (Bảng 5).
Nhiệt độ hóa hồ
5 dòng có nhiệt độ hóa hồ cao là dòng CM28,
CM36, CM37, TB33 và TT42. Chỉ có 3 dòng có
nhiệt độ hóa hồ trung bình - thấp là CM46, TT41,
TT45. Còn lại 18 dòng có nhiệt độ hóa hồ trung
bình (Bảng 5).
Bảng 5. Bạc bụng và nhiệt độ hóa hồ của một số dòng lúa mùa nổi có tiềm năng năng suất, vụ mùa 2015-2016
STT Tên dòng
Tỉ lệ bạc bụng
(%)
Diện tích bạc
bụng
Phân hủy do
kiềm
Nhiệt độ hóa
hồ
1 CM28 91 TB Thấp Cao
2 CM30 56 TB TB TB
3 CM34 26 TB TB TB
4 CM36 64 TB Thấp Cao
5 CM37 28 TB Thấp Cao
6 CM38 27 Lớn TB TB
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 15 (3), 40 – 48
47
STT Tên dòng
Tỉ lệ bạc bụng
(%)
Diện tích bạc
bụng
Phân hủy do
kiềm
Nhiệt độ hóa
hồ
7 CM39 100 Nhỏ TB TB
8 CM41 100 Lớn TB TB
9 CM43 21 TB TB TB
10 CM44 55 Lớn TB TB
11 CM46 40 TB TB - Cao TB - Thấp
12 CM47 28 Lớn TB TB
13 CM49 25 Lớn TB TB
14 CM50 38 Nhỏ TB TB
15 TB30 66 TB TB TB
16 TB33 15 TB Thấp Cao
17 TB35 78 TB TB TB
18 TB39 65 Nhỏ TB TB
19 TB42 47 TB TB TB
20 TB49 23 TB TB TB
21 TT36 62 Lớn TB Tb
22 TT41 74 Nhỏ TB - Cao TB - Thấp
23 TT42 37 Lớn Thấp Cao
24 TT45 85 TB TB - Cao TB - Thấp
25 TT50 22 TB TB TB
26 CMĐC 92 TB TB TB
Bạc bụng là phần đục bên trong hạt gạo, chủ yếu
là do sự sắp xếp của những hạt tinh bột trong nội
nhũ, tạo ra nhiều khoảng trống. Bạc bụng có thể
ảnh hưởng đến tỉ lệ xay xát, bạc bụng lớn hạt dễ
vỡ trong khi xay chà (Khush và De la Cruz,
1978). Trong nghiên cứu này, hầu hết các dòng
triển vọng đều bạc bụng ở cấp độ trung bình (10 -
20% diện tích hạt).
Nhiệt độ hóa hồ là nhiệt độ cần thiết mà ở đó
nước được hấp thu và các hạt tinh bột bắt đầu
phình ra trong nước nóng, đồng thời cấu trúc tinh
thể không thể phục hồi được. Nhiệt độ hóa hồ
được xác định thông qua sự phân hủy do kiềm.
Nhiệt độ hóa hồ càng cao thì thời gian nấu chín
cơm càng lâu. Điều kiện nhiệt độ trong thời gian
hạt chín sẽ ảnh hưởng đến nhiệt độ hóa hồ. Nhiệt
độ hóa hồ thấp: 55 – 69 °C, trung bình: 70 - 74
°C, cao: 75 – 79 °C (Khush và De la Cruz, 1978).
Hầu hết các dòng triển vọng trong nghiên cứu này
có nhiệt độ hóa hồ trung bình. Nghiên cứu của
Nguyễn Thanh Tường, Nguyễn Bảo Vệ và Võ
Công Thành (2005) cho thấy, các giống lúa mùa
đặc sản cũng có mức nhiệt độ hóa hồ trung bình.
4. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Kết luận
Mặc dù năm 2015 không có lũ, một số dòng LMN
vẫn khá cao trên 2 m và có đến 29 dòng đạt năng
suất cao hơn giống đối chứng tại địa phương. Đặc
biệt có ba dòng: CM28, TB30 và CM46 năng suất
cao hơn 3 tấn/ha. Các dòng có năng suất cao hơn
đối chứng có mức độ kháng đến hơi nhiễm đối
với bệnh đạo ôn cổ bông, thối bẹ và đốm nâu.
Kiến nghị
Chọn các dòng có năng suất cao hơn giống đối
chứng tiếp tục thực hiện so sánh năng suất có lặp
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 15 (3), 40 – 48
48
lại trên các địa phương muốn phát triển LMN
nhằm tìm ra giống/dòng thích nghi cho từng địa
phương. Bên cạnh đó cần khảo sát bệnh đạo ôn
trong điều kiện nương mạ và hàm lượng dinh
dưỡng như vitamin B, protein để nâng cao giá trị
của LMN.
Lời cảm tạ
Chân thành cảm ơn Trung tâm Nghiên cứu và
Phát triển Nông thôn đã tài trợ kinh phí và Ths. Lê
Thanh Phong đã cung cấp nguồn giống cho
nghiên cứu này. Cảm ơn Anh Nguyễn Văn
Trường đã hỗ trợ quản lý thí nghiệm. Cảm ơn em
Lê Minh Nhựt, Nguyễn Thị Thúy Liễu và một số
sinh viên lớp ĐH13TT, ĐH14TT, CĐ38TT đã
tham gia trong quá trình nghiên cứu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Denning, GL., & Võ Tòng Xuân. (1995). Vietnam
and IRRI: a partnership in rice research:
proceedings of a conference held in Hanoi,
Vietnam, 4-7 May 1994. Int. Rice Res. Inst.
Đặng Kim Sơn và Nguyễn Minh Châu. (1987).
Hệ thống canh tác lúa mùa nổi Đồng bằng
sông Cửu Long. Nhà xuất bản Thành phố Hồ
Chí Minh.
Khush, Gurdev S, Paule, CM and De la Cruz,
Normita M. (1978). Rice grain quality
evaluation and improvement at IRRI. Paper
presented at the Proceedings of the workshop
on chemical aspects of rice grain quality.
Hồ Thanh Bình., & Trần Nghĩa Khang. (2013).
Đánh giá chất lượng thương phẩm gạo lúa
mùa nổi xã Vĩnh Phước, huyện Tri Tôn, tỉnh
An Giang. Đề tài nghiên cứu khoa học, Trường
Đại học An Giang.
IRRI. (2002). Standard evaluation system for rice.
International Rice Research Institute,
Philippine.
Lê Thanh Phong., & Lê Hữu Phước. (2015). Phục
hồi và phát triển các giống /dòng lúa mùa nổi
địa phương tại An Giang. Đề tài nghiên cứu
khoa học, Trường Đại học An Giang.
Lê Thanh Phong., & Lê Hữu Phước. (2016). Khảo
sát và đánh giá bộ 75 dòng thuần lúa mùa nổi
(Oryza sativa) tại xã Vĩnh Phước, huyện Tri
Tôn, An Giang, vụ mùa 2015 - 2016. Đề tài
nghiên cứu khoa học, Trường Đại học An
Giang.
McCarthy, James J. (2001). Climate change 2001:
impacts, adaptation, and vulnerability:
contribution of Working Group II to the third
assessment report of the Intergovernmental
Panel on Climate Change: Cambridge
University Press.
Nguyen Van Kien (2013). Technical report for
GIZ on Assessment of current status of
conservation and cultivation of floating rice –
upland vegetables systems in Vinh
Phuoc commune, Tri Ton district of An Giang
province, Vietnam. Research Centre for Rural
Development - An Giang University, Long
Xuyen.
Nguyễn Thanh Tường., Nguyễn Bảo Vệ., & Võ
Công Thành. (2005). Đánh giá phẩm chất gạo
của 55 giống lúa trồng ven biển các tỉnh Bến
Tre, Long An, Tiền Giang, và Trà Vinh. Tạp
chí Nghiên cứu Khoa học, Trường Đại học
Cần Thơ, 2005:3 33-39, 7.
Seng, Leng Tek., Puckridge., DW., & Thongbai,
P. (1988). Cultivation of deepwater and
floating rice in Kampuchea. Paper presented at
the International Deepwater Rice Workshop,
Bangkok (Thailand), 26-30 Oct 1987.
Sittayos, P., Kupkanchanakul, K., Wiengweera,
A., Sripongpankul, S., Bangwag, J., Tuna, D.,
& Konghakote, P. (1988). Farmers' field yield
trials for deepwater rice in Thailand. Paper
presented at the International Deepwater Rice
Workshop, Bangkok (Thailand), 26-30 Oct
1987.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khao_sat_cac_dong_lua_mua_noi_tai_huyen_cho_moi_tinh_an_gian.pdf