Kết quả phẫu thuật điều trị xẹp nhĩ tại khoa tai mũi họng - Bệnh viện Bạch Mai

Xẹp nhĩ là một loại viêm tai giữa nguy hiểm vì có thể tiến triển thành cholesteatoma. Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá kết quả phẫu thuật điều trị xẹp nhĩ. Kết quả cho thấy tổn thương các xương con gặp ở 42,4% trường hợp, hay gặp nhất là xương đe. Theo dõi trung bình 5,8 tháng sau phẫu thuật thấy tỷ lệ không tái phát xẹp nhĩ chiếm 92,4%, các trường hợp thất bại đều gặp ở xẹp nhĩ toàn bộ giai đoạn III và IV chiếm 7,6%. Kết quả phục hồi sức nghe sau mổ với PTA ≤ 30 dB chiếm 45,4%, ABG ≤ 20 dB chiếm 51,5%. Phẫu thuật chỉnh hình tai giữa là biện pháp can thiệp có hiệu quả cả về mặt giải phẫu và chức năng nghe trong điều trị xẹp nhĩ.

pdf7 trang | Chia sẻ: Mịch Hương | Ngày: 29/03/2025 | Lượt xem: 28 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả phẫu thuật điều trị xẹp nhĩ tại khoa tai mũi họng - Bệnh viện Bạch Mai, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TCNCYH 82 (2) - 2013 71 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Summary THE MINIRADICAL TRANSCANAL MASTOIDECTOMY The recovery time and risk of recurrence of miniradical transcanal mastoidectomy in Viet Nam are currently unknown. In this study, we used a series of clinical cases to determine the recovery time and the recurrence of miniradical transcanal mastoidectomy. Forty (40) patients with cho- lesteatomas otitis, adhesive otitis grade IV, or attic inflammation containing small and localized lesion have been selected for this study. They are 29 female and 11 male, ages ranging from 16 to 71 years olds (mean age of 40.6). Thirty-five of forty patients (or 87.5%) had cholesteatoma. Twenty-seven of the forty (27/40) patients underwent reconstructive tympanal cavity. Within 14 + 4.4 days post-surgery, there were no visible signs of otorrhea. After 14 days post-surgery, 26/40 patients (65%) exhibited visible signs of otorrhea. After 8 weeks following the reconstructive sur- gery, all patients (100%) with miniradical mastoidectomies were stable. In these patients, minradi- cal mastoectomies were able to double the width of the external auditory canal and widen the ear- hole large enough for drainage. This is an effective mini-surgery that yields perfect cavities of mastoidectomy, and achieves a faster recover time and a better hearing ability. Keywords: cholesteatoma, adhesive otitis grade IV, retraction pocket, attic inflammation, transcanal antrotomy, miniradical mastoidectomy KẾT QUẢ PHẪU THUẬT ĐIỀU TRỊ XẸP NHĨ TẠI KHOA TAI MŨI HỌNG - BỆNH VIỆN BẠCH MAI Lê Công Định, Đào Trung Dũng Trường Đại học Y Hà Nội Xẹp nhĩ là một loại viêm tai giữa nguy hiểm vì có thể tiến triển thành cholesteatoma. Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá kết quả phẫu thuật điều trị xẹp nhĩ. Kết quả cho thấy tổn thương các xương con gặp ở 42,4% trường hợp, hay gặp nhất là xương đe. Theo dõi trung bình 5,8 tháng sau phẫu thuật thấy tỷ lệ không tái phát xẹp nhĩ chiếm 92,4%, các trường hợp thất bại đều gặp ở xẹp nhĩ toàn bộ giai đoạn III và IV chiếm 7,6%. Kết quả phục hồi sức nghe sau mổ với PTA ≤ 30 dB chiếm 45,4%, ABG ≤ 20 dB chiếm 51,5%. Phẫu thuật chỉnh hình tai giữa là biện pháp can thiệp có hiệu quả cả về mặt giải phẫu và chức năng nghe trong điều trị xẹp nhĩ. Từ khoá: xẹp nhĩ, túi co kéo, chỉnh hình tai giữa  I. ĐẶT VẤN ĐỀ Xẹp nhĩ là tình trạng màng nhĩ bị co lõm về phía trong, làm giảm thể tích hòm tai do hậu quả của rối loạn chức năng vòi nhĩ và tiêu lớp sợi màng nhĩ. Biểu hiện co lõm có thể ở toàn bộ màng nhĩ gọi là xẹp nhĩ toàn bộ hoặc một phần của màng nhĩ gọi là xẹp nhĩ khu trú. Xẹp nhĩ tiến triển qua nhiều giai đoạn; theo Magnan và Bremond có khoảng 30% xẹp nhĩ tiến triển thành cholesteatoma, vì vậy hiện nay trong phân loại viêm tai đã xếp xẹp nhĩ vào nhóm viêm tai giữa mạn tính nguy hiểm [1]. Việc chẩn đoán và đưa ra phương pháp điều Địa chỉ liên hệ: Lê Công Định, bộ môn Tai Mũi Họng, trường Đại học Y Hà Nội, điện thoại: 0913 557 808, Email: lecongdinh67@yahoo.com Ngày nhận: 06/01/2013 Ngày được chấp thuận: 26/4/2013 72 TCNCYH 82 (2) - 2013 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC trị phù hợp là rất cần thiết nhằm ngăn ngừa các biến chứng có thể xảy ra. Điều trị xẹp nhĩ bao gồm các phương pháp bảo tồn như theo dõi định kì, làm nghiệm pháp Valsalva, bơm hơi qua vòi nhĩ và phẫu thuật. Tuỳ theo loại xẹp nhĩ và giai đoạn xẹp nhĩ mà phẫu thuật có thể từ đơn giản như đặt ống thông khí, gia cố màng nhĩ đến chỉnh hình chuỗi xương con, mở xương chũm. Nghiên cứu này được thực hiện với mục tiêu: Đánh giá kết quả phẫu thuật điều trị xẹp nhĩ. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 1. Đối tượng 66 tai gồm 41 xẹp nhĩ toàn bộ và 25 xẹp nhĩ khu trú của 58 bệnh nhân, tuổi trung bình là 34,6 tuổi, được phẫu thuật tại khoa Tai Mũi Họng bệnh viện Bạch Mai từ tháng 01/2010 đến tháng 10/2012. Thời gian theo dõi sau mổ trung bình 5,8 tháng. Tiêu chuẩn lựa chọn: hồ sơ bệnh án đầy đủ, có hình ảnh nội soi tai, có kết quả đo thính lực và nhĩ lượng trước mổ, cách thức mổ ghi chép đầy đủ, có kết quả nội soi tai và đo thính lực sau mổ. Tiêu chuẩn loại trừ: viêm tai giữa có cholesteatoma, thủng màng nhĩ. 2. Phương pháp Nghiên cứu mô tả có can thiệp, tiến cứu. Các chỉ số và tiêu chí nghiên cứu: - Phân loại Xẹp nhĩ toàn bộ – xẹp nhĩ khu trú và các giai đoạn xẹp nhĩ theo Sadé [2]. - Tỷ lệ tổn thương xương con. - Phục hồi về mặt giải phẫu: kết quả tốt khi màng nhĩ kín, không co kéo; thất bại khi màng nhĩ bị co kéo trở lại về phía trong hòm tai. - Phục hồi sức nghe đánh giá trên 4 tần số 0,5-1-2-4 kHz theo hướng dẫn của Uỷ ban Thính học và Tiền đình của Hoa Kỳ [3]. Kết quả thành công khi ABG ≤ 20 dB, PTA ≤ 30 dB, hiệu số đường xương < ±10 dB. Các số liệu được xử lí bằng chương trình SPSS 16.0 theo các thuật toán thống kê y học. 3. Phương tiện Bộ nội soi tai mũi họng có chụp ảnh của Karl Storz, máy đo thính lực, máy đo nhĩ lượng, kính hiển vi phẫu thuật Carl Zeiss, bộ dụng cụ phẫu thuật tai xương chũm. 4. Đạo đức nghiên cứu Các bệnh nhân đã được giải thích và đồng ý tham gia nghiên cứu. Các số liệu được quản lý và giữ bí mật. III. KẾT QUẢ 1. Các giai đoạn xẹp nhĩ Bảng 1. Phân loại và các giai đoạn xẹp nhĩ  Giai đoạn xẹp nhĩ I II III IV Tổng số % Xẹp nhĩ toàn bộ 0 18 18 5 41 62,1 Xẹp nhĩ khu trú 0 4 16 5 25 37,9 Tổng số 0 22 34 10 66 100,0 Xẹp nhĩ giai đoạn II và III chiếm đa số trong nhóm Xẹp nhĩ toàn bộ (36/41 tai), trong khi đó xẹp nhĩ giai đoạn III và IV chiếm đa số trong nhóm Xẹp nhĩ khu trú (21/25 tai). TCNCYH 82 (2) - 2013 73 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 2. Tỷ lệ tổn thương xương con Bảng 2. Tổn thương xương con  Tổn thương xương con Xẹp nhĩ toàn bộ Xẹp nhĩ khu trú Tổng số Xương đe 8 11 19 Xương đe và bàn đạp 2 1 3 Xương đe và búa 2 3 5 Cả ba xương 1 0 1 Không tổn thương 28 10 38 Tổng số (n) 41 25 66 Tổn thương xương con gặp ở 28/66 tai (42,4%); tất cả các trường hợp này đều có tổn thương xương đe trong đó có 26 trường hợp gây gián đoạn chuỗi xương con. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ tổn thương xương con giữa hai nhóm Xẹp nhĩ toàn bộ là 31,7% (13/41) và Xẹp nhĩ khu trú là 60% (15/25) (p < 0,05, test χ2). 3. Các phương pháp phẫu thuật đã thực hiện Bảng 3. Các phương pháp phẫu thuật  Các phương pháp  phẫu thuật Xẹp nhĩ toàn bộ  (n = 41) Xẹp nhĩ khu trú  (n = 25) Tổng số S + CHXC + OTK 3 (M: 2) 0 3 S + CHXC 8 15 (M: 3) 23 S + OTK 2 3 5 S 10 5 15 OTK 18 2 20 Gia cố màng nhĩ bằng sụn lát mỏng đơn thuần hoặc kết hợp (chỉnh hình xương con, đặt ống thông khí) là phương pháp phổ biến nhất chiếm 46/66 trường hợp. Có 26/28 trường hợp có tổn thương xương được phẫu thuật chỉnh hình xương con. 5 trường hợp kết hợp mở xương chũm đều ở xẹp nhĩ giai đoạn IV. 4. Đánh giá kết quả sau phẫu thuật 4.1. Kết quả phục hồi giải phẫu Sau thời gian theo dõi trung bình 5,8 tháng, tỷ lệ màng nhĩ không xẹp lại chiếm 92,4%. Có 5 trường hợp tái phát đều gặp ở nhóm Xẹp nhĩ toàn bộ trong đó 3 trường hợp độ IV, 2 trường hợp độ III. 74 TCNCYH 82 (2) - 2013 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 4.2. Kết quả phục hồi thính lực Bảng 4. Kết quả thính lực trước và sau mổ  Kết quả về thính lực Trước phẫu thuật Sau phẫu thuật Xẹp nhĩ toàn bộ (n = 41) Xẹp nhĩ khu trú  (n = 25) Xẹp nhĩ toàn bộ (n = 41) Xẹp nhĩ khu trú (n = 25) PTA (dB) ≤ 30 9 4 17 13 > 30 32 21 24 12 Trung bình 45,5 42,8 35,9 32,9 ABG (dB) ≤ 20 11 3 19 15 > 20 30 22 22 10 Trung bình 30,1 31,1 21,4 20,4 Trung bình PTA và ABG sau mổ ở hai nhóm xẹp nhĩ toàn bộ và xẹp nhĩ khu trú đều nhỏ hơn kết quả tương ứng trước mổ (p < 0,001, test t ghép cặp). Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về mức độ cải thiện PTA và ABG giữa hai nhóm xẹp nhĩ toàn bộ và xẹp nhĩ khu trú (p > 0,05). IV. BÀN LUẬN Các giai đoạn xẹp nhĩ Chiếm đa số trong nhóm xẹp nhĩ toàn bộ là giai đoạn II và III, trong nhóm xẹp nhĩ khu trú là giai đoạn III và IV, cho thấy các bệnh nhân xẹp nhĩ khu trú thường được phát hiện bệnh ở giai đoạn muộn hơn so với xẹp nhĩ toàn bộ. Điều này theo chúng tôi có thể là do trong xẹp nhĩ khu trú diện tích rung động hiệu quả của màng nhĩ và thể tích hòm nhĩ giảm không nhiều như trong xẹp nhĩ toàn bộ. Do đó biểu hiện triệu chứng như nghe kém, ù tai, thường xuất hiện muộn hơn và ở giai đoạn nặng hơn so với xẹp nhĩ toàn bộ. Tỷ lệ tổn thương xương con Trong nghiên cứu này, tổn thương xương con gặp ở 42,4% (bảng 2) thấp hơn của Yung là 78-80% [5]. Sự khác biệt này do các tai bệnh trong nghiên cứu của chúng tôi gặp ở từ giai đoạn II có thể chưa có tổn thương xương con đến giai đoạn IV. Xương con hay bị tổn thương nhất là xương đe đặc biệt là ngành xuống xương đe gây gián đoạn khớp đe đạp, do ngành xuống xương đe được ít mạch máu nuôi dưỡng hơn các phần khác của chuỗi xương con, các mạch nuôi lại nhỏ nên dễ bị các quá trình bệnh lý gây tổn thương hơn. Tổn thương xương con gặp ở 60% trong nhóm xẹp nhĩ khu trú nhiều hơn trong nhóm xẹp nhĩ toàn bộ là 31,7%, có thể do tỷ lệ giai đoạn III và IV của nhóm xẹp nhĩ khu trú nhiều hơn xẹp nhĩ toàn bộ. Các phương pháp phẫu thuật Phẫu thuật điều trị xẹp nhĩ nhằm tái tạo lại sự vững chắc của màng nhĩ, ngăn ngừa màng nhĩ co kéo gây tiêu huỷ xương con, tiến triển thành cholesteatoma và phục hồi sức nghe. Chỉ định phẫu thuật được đặt ra khi tổn thương hệ thống truyền âm gây nghe kém, túi co kéo không kiểm soát được đáy túi (độ IV), xẹp nhĩ tiến triển qua theo dõi định kì hoặc TCNCYH 82 (2) - 2013 75 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC nghi ngờ có cholesteatoma. Các phương pháp phẫu thuật bao gồm đặt ống thông khí để tái tạo thông khí tai giữa, bóc tách và nâng màng nhĩ về vị trí giải phẫu thông thường, gia cố phần màng nhĩ xẹp, phục hồi khoảng không được thông khí của hòm tai và tái tạo sự liên tục của chuỗi xương con. Do lớp sợi bị tiêu, màng nhĩ trở nên rất mỏng nên việc bóc màng nhĩ co kéo khỏi thành trong hòm tai và các cấu trúc khác trong hòm tai khá khó khăn. Đôi khi màng nhĩ bị rách trong quá trình bóc tách gây nguy cơ sót biểu bì đặc biệt là ở vùng ngách mặt, ngách nhĩ hay quanh chuỗi xương con, từ đó có thể tạo thành cholesteatoma thứ phát. Để làm giảm nguy cơ này, chúng tôi cố gắng tiêm tê thật tốt để góp phần bóc tách một phần màng nhĩ xẹp và thường bắt đầu bóc tách từ phía hạ nhĩ nơi có thể bóc nguyên vẹn màng nhĩ. Có nhiều loại vật liệu khác nhau như sụn, màng sụn, cân cơ được sử dụng gia cố cho màng nhĩ để tránh co kéo tái phát, trong số đó sụn là vật liệu tốt nhất vì có thể chống lại được sự tiêu và co kéo, đồng thời cho kết quả phục hồi sức nghe tương đương với các vật liệu khác như cân cơ và màng sụn [4]. Nhược điểm của sụn là có màu trắng đục nên không thể quan sát vào hòm tai trong trường hợp nghi ngờ có cholesteatoma, nhưng chúng ta có thể khắc phục bằng cách theo dõi về sức nghe định kì và trong trường hợp cần thiết là chụp phim cắt lớp vi tính xương thái dương. Những trường hợp có tổn thương xương gây gián đoạn chuỗi xương con đều được chỉnh hình xương con trong một thì phẫu thuật, sử dụng thân xương đe tự thân. Khi thân xương đe bị tiêu một phần, có biểu bì bám vào, thì chúng tôi sử dụng gốm sinh học (đại học Bách Khoa Hà Nội) làm vật liệu chế tạo trụ dẫn. Đây là loại vật liệu sản xuất trong nước, giá thành rẻ, dễ chế tạo và cho kết quả tốt tương đương với các loại trụ của nước ngoài. Trong phẫu thuật điều trị xẹp nhĩ một số phẫu thuật viên cho rằng nên phối hợp mở xương chũm để tăng thể tích không khí đệm cho hòm tai, góp phần ngăn ngừa sự tái phát xẹp nhĩ. Tuy nhiên, nghiên cứu của Avraham và cộng sự [6] cho thấy kết quả phẫu thuật ở nhóm chỉnh hình tai giữa kết hợp mở xương chũm không tốt hơn so với nhóm chỉnh hình tai giữa đơn thuần. Chúng tôi chỉ tiến hành mở xương chũm cùng với mở hòm nhĩ lối sau đối với một số trường hợp xẹp nhĩ độ IV, nhằm phối hợp với đường ống tai bóc tách được toàn bộ phần màng nhĩ xẹp chui vào hậu nhĩ, đồng thời làm giảm nguy cơ tái phát xẹp nhĩ do mở khuyết sau trên quá nhiều. Kết quả sau phẫu thuật Kết quả phục hồi giải phẫu tốt không có trường hợp nào tái phát co kéo ở nhóm Xẹp nhĩ khu trú, trái lại ở nhóm Xẹp nhĩ toàn bộ tỷ lệ thất bại gặp ở 12,2% trường hợp (5/41 tai) (bảng 4). Tỷ lệ này thấp hơn tỷ lệ thất bại 50% đối với nhóm xẹp nhĩ toàn bộ trong nghiên cứu của Yung, tuy nhiên đây là kết quả theo dõi dài hạn trong 3 - 8 năm cho những trường hợp xẹp nhĩ độ III và IV [5]. Mặt khác, tỷ lệ thất bại khác nhau giữa nhóm xẹp nhĩ toàn bộ và Xẹp nhĩ khu trú là do hậu quả của rối loạn chức năng vòi nhĩ và bệnh lý tai giữa khác nhau. Đối với xẹp nhĩ khu trú, sự suy yếu và co kéo của màng nhĩ là hậu quả của rối loạn chức năng vòi nhĩ và viêm tai giữa trong quá khứ mà hiện tại rối loạn này đã hồi phục. Trong khi đó ở Xẹp nhĩ toàn bộ rối loạn chức năng vòi nhĩ diễn ra nặng hơn và kéo dài cũng như không có sự hồi phục hoàn toàn [5]. Việc đặt ống thông khí để tái tạo thông khí cho hòm tai thường cho kết quả tốt về ngắn hạn, tuy nhiên về lâu dài sau khi ống đã đẩy ra quá 76 TCNCYH 82 (2) - 2013 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC trình xẹp nhĩ có thể lại tiếp tục diễn ra [7]. Như vậy vấn đề chẩn đoán sớm, theo dõi và đưa ra biện pháp điều trị thích hợp là rất quan trọng để làm giảm tỷ lệ thất bại do can thiệp bệnh ở giai đoạn muộn. Kết quả hồi phục về sức nghe đều khả quan ở cả hai nhóm Xẹp nhĩ toàn bộ và Xẹp nhĩ khu trú (bảng 5). Theo Uỷ ban Thính học và Tiền đình của Hoa Kỳ với mức PTA ≤ 30dB thì bệnh nhân có thể hoà nhập với xã hội mà không cần các biện pháp trợ thính [3]. PTA sau mổ dưới 30dB chiếm tỷ lệ 45,4% (30/66 tai) so với trước mổ là 19,7% (13/66 tai) là kết quả ban đầu rất đáng khích lệ. Chỉ số ABG sau mổ ≤ 20dB chiếm tỷ lệ 51,5% (34/66 tai) so với trước mổ là 21,2% (14/66 tai) cho thấy suy giảm sức nghe do tổn thương hệ thống truyền âm trong xẹp nhĩ có thể được hồi phục bằng phẫu thuật chỉnh hình tai giữa. Kết quả này cũng tương đồng với kết quả của các tác giả khác [4, 5]. V. KẾT LUẬN Qua nghiên cứu trên 58 bệnh nhân xẹp nhĩ được phẫu thuật chúng tôi rút ra được các kết luận sau: - Tổn thương xương con trong bệnh xẹp nhĩ gặp ở 42,4% trường hợp, trong đó tổn thương xương đe là hay gặp nhất. Tỷ lệ tổn thương xương con ở nhóm xẹp nhĩ khu trú cao hơn ở nhóm Xẹp nhĩ toàn bộ. - Tỷ lệ thành công về mặt giải phẫu không tái phát co kéo là 92,4%. Tỷ lệ thất bại chiếm 7,6% và đều thuộc nhóm Xẹp nhĩ toàn bộ ở các giai đoạn tiến triển nặng của bệnh (giai đoạn III - IV). - Kết quả phục hồi sức nghe với PTA ≤ 30 dB chiếm 45,4%, ABG ≤ 20dB chiếm 51,5% chứng tỏ phẫu thuật chỉnh hình tai giữa là một biện pháp can thiệp có hiệu quả để hồi phục sức nghe cho bệnh nhân. Lời cảm ơn Xin trân trọng cảm ơn các bác sỹ, y tá và kỹ thuật viên của khoa Tai Mũi Họng bệnh viện Bạch Mai đã hợp tác và giúp đỡ chúng tôi thực hiện nghiên cứu này. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Tấn Phong (2006). Quan điểm mới trong chẩn đoán, phân loại và điều trị viêm tai giữa ở trẻ em, Tạp chí Tai Mũi Họng, 1, 67 - 69. 2. Romanet P., Magnan J., Dubreuil C., Tran Ba Huy P. (2005). Les poches de retrac- tion tympaniques et l’otite atelectasique, L’otite chronique, Société française d’Oto-rhino- laryngologie et de Chirurgie de la Face et du Cou, 33 - 67. 3. Committee on Hearing and Equilib- rium (1995). Guidelines for the evaluation of results of conductive hearing loss, Otolaryn- gology - Head and Neck surgery, 113, 186 - 187. 4. Spielmann P., Mills R. (2006). Surgical management of retraction pockets of the pars tensa with cartilage and perichondrial grafts, The Journal of Laryngology and Otology, 120, 725 - 729. 5. Yung M.W. (1997). Retraction of the pars tensa – long-term results of surgical treat- ment, Clin. Otolaryngol., 23, 323 - 326. 6. Avraham S., Luntz M., Sadé J. (1991). The effect of mastoid surgery on atelectatic ear and retraction pockets, Eur Arch Otorhinolaryngol, 248, 335 - 336. 7. Saunder J. (2008). Does early interven- tion of middle ear atelectasis improve long-term results and prevent cholesteatoma, Arch Otolaryngol Head Neck Surg, 134(10), 1040 - 1044. TCNCYH 82 (2) - 2013 77 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Summary THE EFFICACY OF SURGICAL TREATMENT FOR MIDDLE EAR ATELECTASIS AT ENT DEPARTMENT − BACHMAI HOSPITAL Middle ear atelectasis is a form of dangerous otitis media because it can develop into cholesteatoma. The objective of this study was to evaluate results of surgical treatment for middle ear atelectasis. Results 42.4% of the ears examined had ossicular damages; and damage of the incus was the most common lesion. After about 5.8 months post corrective tympanoplasty, 92.4% of the ears were free of recurrent retraction. Five out of 66 ears (7.6%) had re-collapsed resulting from generalized atelectasis of grade III or grade IV. The post-operative hearing results were excellent with 45.4% of the ears had PTA values of ≤ 30 dB and 51.5% of the ears had ABG val- ues of ≤ 20 dB. In conclusion, tympanoplasty is an effective surgical method to restore normal anatomy and function of the atelectatic ears. Key words: atelectasis, retraction pockets, tympanoplasty CHỈ ĐỊNH VÀ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT BỆNH BASEDOW Lê Công Định Bộ môn Tai Mũi Họng Trường đại học Y Hà Nội Nghiên cứu được thực hiện nhằm phân tích các chỉ định và kết quả điều trị Basedow bằng phẫu thuật trên 20 bệnh nhân. Kết quả cho thấy độ tuổi trung bình là 37, nữ giới chiếm 90%; thời gian điều trị nội khoa > 2 năm: 50%. Các chỉ định phẫu thuật bao gồm điều trị nội khoa thất bại: 50%; bướu giáp quá to: 35%; bướu nhân kèm theo: 20%; lồi mắt mắt: 20%; biến chứng do điều trị nội khoa: 20%; muốn có thai: 15%. Hầu hết được thực hiện cắt toàn bộ tuyến giáp (95%). Biến chứng sau mổ chủ yếu hạ canxi máu tạm thời (55%). Phẫu thuật là một trong những biện pháp đem lại kết quả tốt, lâu dài và ít biến chứng để điều trị bệnh Basedow. Từ khóa: cường giáp, cắt toàn bộ tuyến giáp Địa chỉ liên hệ: Lê Công Định, bộ môn Tai Mũi Họng, trường Đại học Y Hà Nội Email: lecongdinh67@yahoo.com Ngày nhận: 11/1/2013 Ngày được chấp thuận: 26/4/2013 I. ĐẶT VẤN ĐỀ Basedow là bệnh được biết đến từ rất lâu. Graves. R (1835) lần đầu tiên mô tả bệnh biểu hiện có bướu cổ và lồi mắt. Năm 1840, K. Basedow mô tả bệnh bướu cổ, nhịp tim nhanh và lồi mắt. Ngày nay bệnh mang tên cả hai tác giả này. Phương pháp điều trị bằng phẫu thuật đã có lịch sử khá lâu, bắt đầu từ năm 1869 với kỹ thuật cắt bỏ một phần tuyến giáp bởi Valdenver. Sau đó các tác giả như Lister (1877), Tillaux (1880) thực hiện nhưng tỷ lệ tử vong và biến chứng cao. Với sự cải tiến về kĩ thuật cắt tuyến giáp của Kocher (1920), phẫu thuật đã mang lại kết quả đáng khích lệ. Đặc biệt việc sử dụng Lugol 1% trước mổ đã làm giảm đáng kể biến chứng. Năm 1950, với sự ra đời của thuốc kháng giáp tổng hợp và Iốt đồng vị phóng xạ, việc điều trị Basedow đã có

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfket_qua_phau_thuat_dieu_tri_xep_nhi_tai_khoa_tai_mui_hong_be.pdf
Tài liệu liên quan