Hợp đồng dân sự và giao kết hợp đồng dân sự

hợp đồng dân sự và giao kết hợp đồng dân sự MỞ BÀI Hợp đồng dân sự được xác lập sẽ làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng. Tuy nhiên, nếu như hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận và thống nhất ý chí của các chủ thể tham gia thì hợp đồng dân sự được xác lập phải tuân theo những nguyên tắc và trên cơ sở một trình tự nhất định. Quá trình xác lập sự thỏa thuận của hợp đồng chính là quá trình giao kết hợp đồng. Giao kết hợp đồng dân sự phải tuân theo những nguyên tắc và trình tự nhất định. NỘI DUNG I. Khái niệm hợp đồng dân sự và giao kết hợp đồng dân sự. 1. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng dân sự. 1.1. Khái niệm hợp đồng dân sự. Khái niệm hợp đồng dân sự quy định tại Điều 388, BLDS 2005:“Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Hợp đồng dân sự không chỉ là sự thỏa thuận để một bên chuyển giao quyền, nghĩa vụ đó. Hợp đồng dân sự là hành vi có ý thức của chủ thể nhằm đạt được mục đích nhất định nên hành vi này mang tính ý chí của chủ thể tham gia hợp đồng với mục đích nhất định. 1.2. Đặc điểm của hợp đồng dân sự. Hợp đồng dân sự là hình thức pháp lý quan trọng và phổ biến nhất thực hiện bản chất là sự thỏa thuận, sự thống nhất ý chí của các bên nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ pháp lý. Hợp đồng dân sự có đặc điểm: + Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận, thống nhất ý chí của hai hoặc nhiều chủ thể dân sự. Trong hợp đồng dân sự, ý chí của một bên đòi hỏi sự đáp lại của bên kia, tạo thành sự thống nhất ý chí của các bên, từ đó mới hình thành được hợp đồng. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng do các bên thỏa thuận (trừ các quyền và nghĩa vụ do pháp luật quy định). Sự thỏa thuận, thống nhất ý chí giữa các chủ thể phải được thực hiện dưới hình thức nhất định. Hình thức của hợp đồng có thể là bằng văn băn, bằng lời nói hoặc bằng hành vi cụ thể. + Mục đích của hợp đồng là nhằm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự theo quy định của pháp luật. Sự thỏa thuận giữa các chủ thể là điều kiện cần nhưng chưa đủ nếu không có mục đích làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quyền, nghĩa vụ dân sự. Hợp đồng dân sự là hành vi có ý thức của các chủ thể nhằm đạt được mục đích nhất định cho nên hợp đồng dân sự là hành vi mang tính ý chí của chủ thể tham gia giao dịch. 2. Khái niệm giao kết hợp đồng dân sự. Giao kết hợp đồng dân sự có thể hiểu là quá trình bày tỏ, thống nhất ý chí giữa các bên theo hình thức, nội dung, nguyên tắc, trình tự nhất định được pháp luật thừa nhận nhằm xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự đối với nhau. Bản chất của giao kết hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận. Trong đó, các bên thực hiện sự bày tỏ và thống nhất ý chí nhằm hướng tới những lợi ích nhất định. Việc giao kết hợp đồng dân sự cũng được xác lập trên cơ sở của sự thỏa thuận, thống nhất ý chí giữa các bên. Quá trình giao kết hợp đồng dân sự diễn ra với 2 yếu tố: sự bày tỏ ý chí và sự chấp nhận ý chí. Quá trình này có thể diễn ra nhanh chóng hay kéo dài; đơn giản hay phức tạp; diễn ra đồng thời hay tiến triển ở nhiều giai đoạn khác nhau, phụ thuộc vào yếu tố như: ý chí của các bên về nội dung, hình thức biểu hiện của hợp đồng Các bên có thể sử dụng phương thức giao kết trực tiếp (gặp nhau, trao đổi đàm phán, thương lượng ) hoặc phương thức giao kết gián tiếp (thông qua công văn, đơn chào hàng, các phương tiện điện tử ) để thỏa thuận, thống nhất ý chí với toàn bộ nội dung của hợp đồng.

doc23 trang | Chia sẻ: tlsuongmuoi | Lượt xem: 13049 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hợp đồng dân sự và giao kết hợp đồng dân sự, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t sinh các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng. Tuy nhiên, nếu như hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận và thống nhất ý chí của các chủ thể tham gia thì hợp đồng dân sự được xác lập phải tuân theo những nguyên tắc và trên cơ sở một trình tự nhất định. Quá trình xác lập sự thỏa thuận của hợp đồng chính là quá trình giao kết hợp đồng. Giao kết hợp đồng dân sự phải tuân theo những nguyên tắc và trình tự nhất định. NỘI DUNG I. Khái niệm hợp đồng dân sự và giao kết hợp đồng dân sự. 1. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng dân sự. 1.1. Khái niệm hợp đồng dân sự. Khái niệm hợp đồng dân sự quy định tại Điều 388, BLDS 2005:“Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Hợp đồng dân sự không chỉ là sự thỏa thuận để một bên chuyển giao quyền, nghĩa vụ đó. Hợp đồng dân sự là hành vi có ý thức của chủ thể nhằm đạt được mục đích nhất định nên hành vi này mang tính ý chí của chủ thể tham gia hợp đồng với mục đích nhất định. 1.2. Đặc điểm của hợp đồng dân sự. Hợp đồng dân sự là hình thức pháp lý quan trọng và phổ biến nhất thực hiện bản chất là sự thỏa thuận, sự thống nhất ý chí của các bên nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ pháp lý. Hợp đồng dân sự có đặc điểm: + Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận, thống nhất ý chí của hai hoặc nhiều chủ thể dân sự. Trong hợp đồng dân sự, ý chí của một bên đòi hỏi sự đáp lại của bên kia, tạo thành sự thống nhất ý chí của các bên, từ đó mới hình thành được hợp đồng. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng do các bên thỏa thuận (trừ các quyền và nghĩa vụ do pháp luật quy định). Sự thỏa thuận, thống nhất ý chí giữa các chủ thể phải được thực hiện dưới hình thức nhất định. Hình thức của hợp đồng có thể là bằng văn băn, bằng lời nói hoặc bằng hành vi cụ thể. + Mục đích của hợp đồng là nhằm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự theo quy định của pháp luật. Sự thỏa thuận giữa các chủ thể là điều kiện cần nhưng chưa đủ nếu không có mục đích làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quyền, nghĩa vụ dân sự. Hợp đồng dân sự là hành vi có ý thức của các chủ thể nhằm đạt được mục đích nhất định cho nên hợp đồng dân sự là hành vi mang tính ý chí của chủ thể tham gia giao dịch. 2. Khái niệm giao kết hợp đồng dân sự. Giao kết hợp đồng dân sự có thể hiểu là quá trình bày tỏ, thống nhất ý chí giữa các bên theo hình thức, nội dung, nguyên tắc, trình tự nhất định được pháp luật thừa nhận nhằm xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự đối với nhau. Bản chất của giao kết hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận. Trong đó, các bên thực hiện sự bày tỏ và thống nhất ý chí nhằm hướng tới những lợi ích nhất định. Việc giao kết hợp đồng dân sự cũng được xác lập trên cơ sở của sự thỏa thuận, thống nhất ý chí giữa các bên. Quá trình giao kết hợp đồng dân sự diễn ra với 2 yếu tố: sự bày tỏ ý chí và sự chấp nhận ý chí. Quá trình này có thể diễn ra nhanh chóng hay kéo dài; đơn giản hay phức tạp; diễn ra đồng thời hay tiến triển ở nhiều giai đoạn khác nhau, phụ thuộc vào yếu tố như: ý chí của các bên về nội dung, hình thức biểu hiện của hợp đồng…Các bên có thể sử dụng phương thức giao kết trực tiếp (gặp nhau, trao đổi đàm phán, thương lượng…) hoặc phương thức giao kết gián tiếp (thông qua công văn, đơn chào hàng, các phương tiện điện tử…) để thỏa thuận, thống nhất ý chí với toàn bộ nội dung của hợp đồng. 3. Nguyên tắc giao kết hợp đồng dân sự. Hợp đồng dân sự là kết quả của quá trình giao kết. Do đó, việc giao kết hợp đồng dân sự phải tuân theo những nguyên tắc nhất định. Theo quy định Điều 389 BLDS 2005 có quy định về các nguyên tắc giao kết hợp đồng. 3.1 Nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội. Tham gia quan hệ hợp đồng, các chủ thể nhằm đạt được những lợi ích nhất định. Xuất phát từ lợi ích mà chủ thể mong muốn được thỏa mãn, các chủ thể tham gia các hợp đồng dân sự khác nhau. Pháp luật dân sự tôn trọng sự tự do giao kết hợp đồng của các chủ thể và ghi nhận thành nguyên tắc. Theo nguyên tắc này, các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng dân sự có sự tự do ý chí trong việc lựa chọn hợp đồng mà mình giao kết, tự do lựa chọn chủ thể giao kết, tự do lựa chọn các quyền và nghĩa vụ trong quá trình giao kết. Không một chủ thể nào được phép can thiệp trái pháp luật vào sự tự do giao kết hợp đồng của các chủ thể tham gia hợp đồng. Tuy nhiên, mặc dù pháp luật thừa nhận sự tự do giao kết hợp đồng là một nguyên tắc nhưng theo Điều 4 BLDS 2005: “ Quyền tự do cam kết, thỏa thuận trong việc xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự được pháp luật bảo đảm, nếu cam kết, thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội…”. Điều này có nghĩa là: các chủ thể tham gia giao kết hợp đồng có sự tự do, nhưng sự tự do đó phải trong một khuôn khổ nhất định, đó chính là điều cấm của pháp luật và tính trái đạo đức xã hội. 3.2. Nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực, thẳn thắn khi giao kết hợp đồng dân sự. Theo nguyên tắc này, khi tham gia giao kết hợp đồng, các bên hoàn toàn tự nguyện. Khi giao kết hợp đồng, không bên nào được áp đặt, cấm đoán, cưỡng ép, đe dọa, ngăn cản bên nào. Mọi hành vi tác động làm ảnh hưởng đến sự tự nguyện của chủ thể có thể làm cho hoạt động dân sự mà các chủ thể giao kết bị vô hiệu. Nguyên tắc bình đẳng là một trong những nguyên tắc được ghi nhận trong Hiến pháp 1992. Trong quan hệ hợp đồng dân sự, sự bình đẳng luôn luôn được pháp luật dân sự của các quốc gia thừa nhận. Theo nội dung của nguyên tắc này, khi tham gia giao kết hợp đồng dân sự, các bên đều bình đẳng, không được lấy lý do khác biệt về dân tộc, giới tính, thành phần xã hội, hoàn cảnh kinh tế, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, để đối xử không bình đẳng với nhau. Trong một số trường hợp nhất định, nếu pháp luật có quy định mang tính cấm, buộc hoặc giành quyền ưu tiên nhất định cho một chủ thể nào đó thì cũng không làm mất đi tính bình đẳng của các chủ thể tham gia giao kết hợp đồng dân sự. Nguyên tắc thiện chí, trung thực không chỉ là nguyên tắc được ghi nhận cho các chủ thể khi tham gia quan hệ hợp đồng mà còn là nguyên tắc cơ bản được quy định tại Điều 6 BLDS 2005. Khi các chủ thể tự nguyện giao kết hợp đồng dân sự thì phải thể hiện sự thiện chí trước các chủ thể khác. Ngoài việc thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ của mình thì cũng cần tạo điều kiện để bên kia thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ của họ. Nguyên tắc trung thực, thẳng thắn trong việc giao kết hợp đồng dân sự cũng là yêu cầu mà pháp luật đặt ra đối với các chủ thể tham gia giao kết hợp đồng. Trong việc tham gia giao kết hợp đồng dân sự, một bên không được lừa dối bên kia, không được cố ý đưa ra các thông tin không đúng để bên kia giao kết hợp đồng dân sự với mình. II. Trình tự giao kết hợp đồng dân sự trong pháp luật dân sự. 1. Đề nghị giao kết hợp đồng dân sự. 1.1. Khái niệm, nội dung đề nghị giao kết hợp đồng dân sự. Khoản 1 Điều 390 BLDS 2005 quy định: “Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định cụ thể”. Đề nghị giao kết hợp dân sự là khâu đầu tiên nhưng lại được coi là khâu quan trọng nhất của quá trình giao kết hợp đồng. Đề nghị giao kết hợp đồng dân sự được hiểu là một phía chủ thể bày tỏ ý chí trước chủ thể cụ thể về việc mong muốn giao kết hợp đồng với chủ thể đó và cũng mong muốn chủ thể đó tham gia quan hệ hợp đồng với mình. Đề nghị thường hướng tới một hoặc một số người xác định. Người nhận đề nghị có thể là một cá nhân hoặc pháp nhân: cá nhân được xác định bởi họ tên, quốc tịch, hộ khẩu thường trú (hoặc địa chỉ tạm trú); pháp nhân được xác định bởi tên gọi, trụ sở và quốc tịch. Tính xác định của người được đề nghị thường được thể hiện khi bên đề nghị gửi đề nghị giao kết hợp đồng, vì khi đó bên đề nghị đã xác định được họ muốn giao kết hợp đồng với ai. Có thể xác định đề nghị giao kết hợp đồng ở các tiêu chí sau: + Đề nghị giao kết hợp đồng phải có các nội dung chủ yếu của hợp đồng. + Ý định giao kết hợp đồng phải có thực, + Bên được đề nghị phải được xác định cụ thể; + Bên đề nghị phải truyền đạt nội dung của lời đề nghị đến bên được đề nghị, tức là bên được đề nghị phải được biết đến lời đề nghị; + Bên đề nghị giao kết hợp đồng phải chịu sự ràng buộc về lời đề nghị này; Đề nghị phải thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và mong muốn được ràng buộc của bên đưa ra đề nghị đối với bên được đề nghị về những nội dung của đề nghị. Điều này thể hiện ở chỗ khi đề nghị được gửi tới cho bên được đề nghị làm cho bên được đề nghị tin tưởng rằng chỉ cần trả lời chấp nhận là hợp đồng được ký kết, sự chắc chắn đó tạo ra những ràng buộc pháp lý đối với bên đưa ra đề nghị. BLDS 2005 có quy định về hình thức hợp đồng dân sự nhưng không quy định cụ thể về hình thức của đề nghị giao kết hợp đồng dân sự. Tuy nhiên, trong các văn bản pháp luật có liên quan và thực tế cho thấy việc đề nghị giao kết hợp đồng dân sự được thực hiện với nhiều hình thức khác nhau và có thể thực hiện dưới các hình thức bất kỳ hình thức nào. Hình thức đề nghị giao kết hợp đồng dân sự chỉ thể hiện ý chí của bên đề nghị giao kết và do bên đề nghị giao kết tự chọn cách thức thể hiện ý chí đó để chủ thể khác nhận biết được. Hình thức của đề nghị giao kết hợp đồng cũng không phụ thuộc vào hình thức của hợp đồng dân sự. Đề nghị giao kết hợp đồng dân sự có thể được thực hiện bằng lời nói nhưng hợp đồng dân sự lại có thể được các bên ký kết bằng văn bản. Điều 390 BLDS 2005 đã cụ thể hóa trách nhiệm của bên đề nghị như sau: “Trong trường hợp đề nghị giao kết hợp đồng có nêu rõ thời hạn trả lời, nếu bên đề nghị lại giao kết hợp đồng với người thứ ba trong thời hạn chờ bên được đề nghị trả lời thì phải bồi thường thiệt hại cho bên được đề nghị mà không được giao kết hợp đồng nếu có thiệt hại phát sinh”. Như vậy, khi trong lời đề nghị nêu rõ thời hạn nếu bên đề nghị giao kết hợp đồng với người thứ ba thì bên được đề nghị có quyền yêu cầu bên đề nghị phải bồi thường thiệt hại. 1.2. Thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực. Thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực là thời điểm phát sinh nghĩa vụ của bên đề nghị với bên được đề nghị. Có thể hiểu rằng, kể từ thời điểm giao kết hợp đồng có hiệu lực thì bên đề nghị chịu sự ràng buộc về mặt pháp lý, chịu trách nhiệm về nội dung của lời đề nghị, không được giao kết hợp đồng với người thứ ba nếu bên được đề nghị biết đến lời đề nghị và có thời hạn cho việc trả lời. Thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực được xác định như sau: + Do bên đề nghị ấn định: Đồng thời với việc đưa ra lời đề nghị thì bên đề nghị ấn định thời điểm có hiệu lực của lời đề nghị. Đây là trường hợp thời điểm có hiệu lực của đề nghị giao kết hợp đồng phụ thuộc hoàn toàn vào ý chí của bên đề nghị. + Nếu bên đề nghị không ấn định thì đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực kể từ khi bên được đề nghị nhận được đề nghị đó. Việc nhận được đề nghị trong từng trường hợp khác nhau là khác nhau. Do đó, theo quy định của pháp luật thì các trường hợp sau đây được coi là đã nhận được đề nghị của giao kết hợp đồng: + Đề nghị được chuyển đến nơi cư trú, nếu bên được đề nghị là cá nhân; được chuyển đến trụ sở, nếu bên được đề nghị là pháp nhân; + Đề nghị được đưa vào hệ thống thông tin chính thức của bên được đề nghị; + Khi bên được đề nghị biết được đề nghị được giao kết hợp đồng thông qua các phương thức khác (chuyển qua các cơ sở dữ liệu, thông điệp điện tử như gửi bản fax, thư điện tử…) 1.3. Thay đổi, rút lại đề nghị giao kết hợp đồng. Bên đề nghị phải chịu trách nhiệm về đề nghị của mình, đặc biệt khi bên được đề nghị đã biết đến đề nghị giao kết hợp đồng. Tuy nhiên, pháp luật cho phép bên đề nghị có quyền rút lại đề nghị giao kết hợp đồng, điều này đồng nghĩa với việc bên đề nghị sẽ không chịu sự ràng buộc pháp lý về đề nghị giao kết hợp đồng của mình. Khoản 1 Điều 392 BLDS 2005 quy định bên đề nghị giao kết hợp đồng có thể thay đổi, rút lại đề nghị giao kết hợp đồng trong các trường hợp sau đây: + Nếu bên được đề nghị nhận được thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị trước hoặc cùng với thời điểm nhận được đề nghị; + Điều kiện thay đổi hoặc rút lại đề nghị phát sinh trong trường hợp bên đề nghị có nêu rõ về việc được thay đổi hoặc rút lại đề nghị khi điều kiện đó phát sinh. + Nếu bên đề nghị thay đổi nội dung của đề nghị thì đề nghị đó được coi là đề nghị mới. Trong trường hợp này, xác định tiêu chí của đề nghị, căn cứ thay đổi hoặc rút lại đề nghị giao kết hợp đồng được áp dụng giống như đề nghị giao kết hợp đồng mới. 1.4. Hủy bỏ đề nghị giao kết hợp đồng. Pháp luật cho phép bên đề nghị có quyền hủy bỏ đề nghị giao kết hợp đồng theo Điều 393 BLDS. Tuy nhiên, việc hủy bỏ giao kết hợp đồng chỉ được thừa nhận nếu đáp ứng các điều kiện sau đây: + Quyền hủy bỏ đề nghị phải được nêu rõ trong lời đề nghị; + Bên đề nghị phải thông báo cho bên được đề nghị về việc hủy bỏ đề nghị giao kết hợp đồng. + Thông báo hủy bỏ đề nghị chỉ có hiệu lực khi bên được đề nghị nhận được thông báo trước khi bên được đề nghị trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. 1.5. Chấm dứt đề nghị giao kết hợp đồng. Chấm dứt đề nghị giao kết hợp đồng là cứ để chấm dứt sự ràng buộc của bên đề nghị đối với đề nghị giao kết hợp đồng. Đề nghị giao kết hợp đồng được chấm dứt và bên đề nghị, bên được đề nghị không xác lập mối liên hệ pháp lý với nhau thông qua đề nghị giao kết hợp đồng. Điều 394 BLDS 2005 quy định đề nghị giao kết hợp đồng chấm dứt trong trường hợp: + Bên nhận được đề nghị trả lời không chấp nhận; + Hết thời hạn trả lời chấp nhận; + Khi thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị có hiệu lực; + Khi thông báo về việc hủy bỏ đề nghị có hiệu lực; + Theo thỏa thuận của bên đề nghị và bên nhận được đề nghị trong thời hạn chờ bên được đề nghị trả lời. BLDS 2005 quy định khá cụ thể các trường hợp chấm dứt đề nghị giao kết hợp đồng dân sự dựa trên sự thể hiện ý chí của các bên trong quá trình giao kết hợp đồng. Tuy nhiên, trên thực tế có các trường hợp cũng có thể làm chấm dứt đề nghị giao kết hợp đồng dân sự như: trường hợp 1 bên hoặc 2 bên ( bên đề nghị giao kết và bên được đề nghị giao kết hợp đồng) chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị phá sản trước khi bên được đề nghị trả lời chấp nhận đề nghị. Đối tượng của hợp đồng dân sự dự kiến giao kết được nêu trong đề nghị giao kết không còn nữa do nguyên nhân bất khả kháng ( Hợp đồng thuê nhà ở nhưng nhà ở bị đổ do bão…) nhưng trong BLDS 2005 chưa có quy định cụ thể. 2. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng dân sự. Trong thời hạn trả lời, nếu bên được đề nghị chấp nhận giao kết hợp đồng, tức là đồng ý với nội dung của lời đề nghị thì hợp đồng được coi là giao kết. Tuy nhiên, bên được đề nghị có thể chấp nhận một phần hoặc toàn bộ đề nghị: Điều 396 BLDS 2005 quy định: “Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự trả lời của bên được đề nghị đối với bên đề nghị về việc chấp nhận toàn bộ nội dung của đề nghị”. Như vậy, chỉ coi là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng với điều kiện bên được đề nghị chấp nhận toàn bộ nội dung của đề nghị giao kết hợp đồng. Nếu bên được đề nghị đã chấp nhận giao kết hợp đồng, nhưng có nêu điều kiện hoặc sửa đổi đề nghị thì coi như người này đã đưa ra đề nghị mới đối với bên đề nghị. Vì chấp nhận giao kết hợp đồng chính là giai đoạn sau cùng của quá trình giao kết hợp đồng dân sự và đây được coi là sự ràng buộc chính thức về quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng nên cần xác định rõ thời hạn trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng. 2.1. Nội dung chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Khi nhận được đề nghị giao kết hợp đồng, bên được đề nghị giao kết hợp đồng dân sự có thể trả lời bên đề nghị giao kết hợp đồng dân sự với nội dung như: Đồng ý chấp nhận toàn bộ nội dung đề nghị giao kết, hoặc đồng ý một phần nội dung đề nghị giao kết hoặc có thể chỉ đồng ý việc giao kết hợp đồng nhưng không đồng ý với nội dung mà bên đề nghị đã đưa ra hoặc không đồng ý với việc giao kết hợp đồng với bên đề nghị giao kết. 2.2. Thời hạn trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng. Thời hạn hợp đồng chấp nhận giao kết hợp đồng là một khoảng thời gian hoặc một thời điểm cụ thể mà trong khoảng thời gian hoặc tại thời điểm đó bên được đề nghị trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng. Thời hạn trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng quy định tại Điều 397 BLDS 2005 quy định thời hạn trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng. Tùy từng trường hợp cụ thể mà thời hạn trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng được xác định như sau: + Khi bên đề nghị có ấn định thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu lực khi được thực hiện trong thời hạn đó; nếu bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận được trả lời khi đã hết thời hạn trả lời thì chấp nhận này được coi là đề nghị mới của bên chậm trả lời. Trong trường hợp thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng đến chậm vì lý do khách quan mà bên đề nghị biết biết hoặc phải biết về lý do khách quan này thì thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp bên đề nghị trả lời ngay không đồng ý với chấp nhận đó của bên được đề nghị. + Khi các bên trực tiếp giao dịch với nhau, kể cả trong trường hợp qua điện thoại hoặc qua các phương tiện khác thì bên được đề nghị phải trả lời ngay có chấp nhận hoặc không chấp nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận về thời hạn trả lời. Sau khi chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng được trả lời cho bên đưa ra đề nghị, nếu một trong hai bên chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì việc trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng vẫn có giá trị. Khoản 2 Điều 404 BLDS 2005 quy định: “ Hợp đồng dân sự cũng xem như được giao kết khi hết thời hạn trả lời mà bên nhận được đề nghị vẫn im lặng, nếu có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết” ,do vậy, “im lặng” cũng có thể được coi là hình thức chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng nếu các bên do thỏa thuận hoặc các bên đề nghị giao kết có nêu rõ trong đề nghị giao kết hợp đồng dân sự. Tuy nhiên, quy định này cũng khó xác định được trên thực tế vì sự im lặng cũng có thể là kết quả của các bên được đề nghị chưa được biết thông tin là có đề nghị giao kết hợp đồng dân sự. 2.3. Rút lại thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng. Khi bên đề nghị đưa ra đề nghị giao kết hợp đồng thì bên đề nghị có thể rút lại đề nghị giao kết hợp đồng, tương tự như vậy thì bên chấp nhận đề nghị có thể rút lại thông báo chấp nhận đề nghị. Để đảm bảo quyền lợi của bên được đề nghị giao kết hợp đồng, pháp luật cho phép bên được đề nghị giao kết hợp đồng có thể rút lại thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng. Rút lại thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng dân sự được hiểu là việc bên được đề nghị giao kết hợp đồng chủ động thực hiện ý định thay đổi chấp nhận giao kết theo hướng không đồng ý với chấp nhận giao kết hợp đồng đã được gửi đi trước đó. Ở Việt Nam, vấn đề rút lại thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng là một vấn đề mới được quy định tại Điều 400 BLDS 2005. Theo đó, bên được đề nghị giao kết hợp đồng có thể rút lại thông báo này đến trước hoặc cùng với thời điểm bên đề nghị được trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng. Quy định này nhằm bảo vệ quyền của bên được đề nghị giao kết hợp đồng trong việc rút lại thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng dân sự, phù hợp với tính chất của quan hệ hợp đồng dân sự. 2.4. Hậu quả pháp lý của sự chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng dân sự. BLDS 2005 còn bổ sung quy định làm rõ hậu quả pháp lý của sự trả lời chấp nhận hợp đồng giao kết dân sự trong trường hợp bên đề nghị giao kết hợp đồng chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự (Điều 398) và trường hợp bên được đề nghị giao kết hợp đồng chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự (Điều 399). Theo đó, trong trường hợp bên đề nghị giao kết hợp đồng dân sự chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự sau khi bên được đề nghị giao kết hợp đồng trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng vẫn có giá trị. Quy định này là cần thiết nhằm bảo đảm giá trị của hợp đồng dân sự đã được giao kết. Tuy nhiên, các quy định này chỉ hợp lý khi yếu tố nhân thân của các chủ thể không đóng vai trò quan trọng đối với việc thực hiện hợp đồng. Còn đối với các trường hợp đề nghị hay chấp nhận mang tính nhân thân (yếu tố nhân thân của người đề nghị hay người được đề nghị có vai trò quyết định đối với việc giao kết, ví dụ như: giao kết hợp đồng với ca sĩ, diễn viên…) thì sẽ không hợp lí vì khi ấy đề nghị (chấp nhận) sẽ hết hiệu lực nếu như bên đề nghị (bên trả lời chấp nhận) chết. BLDS cũng chưa có quy định cụ thể các trường hợp trên. 3. Địa điểm, thời điểm giao kết và hiệu lực của hợp đồng dân sự. 3.1. Địa điểm giao kết hợp đồng dân sự. Điều 403 BLDS 2005 quy định về địa điểm giao kết hợp đồng: “Địa điểm giao kết hợp đồng dân sự do các bên thỏa thuận; nếu không có thỏa thuận thì địa điểm giao kết hợp đồng dân sự là nơi cư trú của cá nhân hoặc trụ sở của pháp luật đã đưa ra đề nghị giao kết hợp đồng”. Đồng thời, Điều 771 BLDS quy định về giao kết hợp đồng dân sự vắng mặt, quy định này nhằm bảo vệ quyền lợi cho bên đề nghị giao kết, nhất là khi giải quyết tranh chấp xảy ra. Việc xác định địa điểm giao kết hợp đồng có ý nghĩa pháp lý hết sức quan trọng: Xác định địa điểm giao kết hợp đồng là căn cứ để xác định cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng, lựa chọn luật áp dụng (xung đột luật) trong tư pháp quốc tế… 3.2. Thời điểm giao kết của hợp đồng dân sự. Sau khi nhận được đề nghị giao kết hợp đồng, bên được đề nghị giao kết hợp đồng có thể trả lời đồng ý giao kết hợp đồng (chấp nhận giao kết) hoặc không chấp nhận giao kết hợp đồng. Nếu bên được đề nghị chấp nhận giao kết hợp đồng thì đây là căn cứ quan trọng để xác lập mối quan hệ giữa các bên, nói cách khác lúc này hợp đồng được coi là hình thành và các bên sẽ tiến hành thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự phát sinh theo hợp đồng. Do đó, cần thiết phải xác định thời điểm giao kết hợp đồng dân sự bởi vì kể từ thời điểm này, các bên tham gia giao kết hợp đồng dân sự có các quyền và nghĩa vụ phát sinh theo hợp đồng, nói cách khác, hợp đồng được coi là có hiệu lực. Như vậy, thông thường thì thời điểm giao kết sẽ là thời điểm có hiệu lực của hợp đồng dân sự. Theo Điều 404 BLDS 2005, thời điểm giao kết hợp đồng được xác định như sau: + Hợp đồng dân sự được giao kết vào thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết; + Hợp đồng dân sự cũng xem như được giao kết khi hết thời hạn trả lời mà bên nhận được đề nghị vẫn im lặng, nếu có thỏa thuận im lặng là sự chấp nhận giao kết; + Thời điểm giao kết hợp đồng bằng lời nói là thời điểm các bên đã thỏa thuận về nội dung của hợp đồng; + Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản. 3.3. Hiệu lực của giao kết hợp đồng dân sự. Điều 405 BLDS 2005 quy định: “Hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”. BLDS chỉ tập trung xác định thời điểm bắt đầu có hiệu lực của hợp đồng dân sự để làm cơ sở xác định quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên trong quá trình thực hiện và giải quyết các tranh chấp hợp đồng dân sự khi xảy ra trên thực tế. Tuy nhiên, hợp đồng dân sự có thể có hiệu lực khác thời điểm giao kết nếu các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định. III. Trách nhiệm dân sự của các bên đề nghị giao kết hợp đồng. 1. Trách nhiệm dân sự của bên đề nghị giao kết hợp đồng dân sự. Bên đề nghị giao kết hợp đồng dân sự có quyền đưa ra giao kết hợp đồng với bên chủ thể được đề nghị giao kết hợp đồng. Đồng thời, trong thời gian bên được đề nghị trả lời thì bên đề nghị không được giao kết với người khác. Trường hợp phát sinh trách nhiệm của bên đề nghị giao kết hợp đồng dân sự quy định tại khoản 2 điều 390 BLDS, quy định này cho thấy, bên đề nghị giao kết hợp đồng dân sự chỉ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với bên được đề nghị giao kết trong trường hợp đề nghị giao kết hợp đồng đó có nêu rõ thời hạn trả lời mà chưa hết thời hạn trả lời bên đề nghị giao kết lại giao kết hợp đồng dân sự với người thứ ba và việc không được giao kết hợp đồng đó dẫn đến thiệt hại của bên được đề nghị giao kết hợp đồng. Trường hợp đề nghị giao kết hợp đồng dân sự đó có nêu rõ thời hạn trả lời mà chưa hết thời hạn trả lời bên đề nghị giao kết lại giao kết hợp đồng với người thứ ba nhưng việc không được giao kết hợp đồng đó không phát sinh thiệt hại cho bên được đề nghị giao kết hợp đồng thì cũng không phải bồi thường thiệt hại. Trong trường hợp các bên có thỏa thuận sử dụng biện pháp đặt cọc để bảo đảm việc giao kết hợp đồng dân sự theo quy định tại Điều 358 BLDS. BLDS chưa quy định cụ thể trách nhiệm bồi thường thiệt hại của bên đề nghị giao kết hợp đồng khi có thiệt hại phát sinh trong quá trình giao kết hợp đồng dân sự như: Trường hợp đề nghị giao kết hợp đồng không nêu rõ thời hạn trả lời, trường hợp bên đề nghị giao kết hợp đồng vi phạm các nguyên tắc giao kết hợp đồng dân sự theo quy định tại điều 389. Hoặc thực hiện việc thay đổi, rút lại, hủy bỏ đề nghị giao kết hợp đồng dân sự không đúng các quy định tại Điều 392 và Điều 393 BLDS. 2. Trách nhiệm dân sự của bên được đề nghị giao kết hợp đồng dân sự. Việc trao đổi nội dung hợp đồng giữa bên đề nghị giao kết hợp đồng với bên được đề nghị giao kết hợp đồng để đi đến thống nhất ý chí trong quá trình giao kết hợp đồng dân sự diễn ra 1 lần thì tư cách của 2 bên không có gì thay đổi. Tuy nhiên, khi việc trao đổi thỏa thuận phải diễn ra nhiều lần thì bên đề nghị giao kết có sự hoán đổi vị trí cho nhau liên tục và chỉ có thể xác định được tư cách cụ thể của các bên (bên đề nghị giao kết hay bên được đề nghị giao kết) khi có sự chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Tuy nhiên, BLDS 2005 chưa quy định cụ thể trách nhiệm dân sự của bên được đề nghị giao kết hợp đồng trong qua trình giao kết hợp đồng dân sự. Trách nhiệm dân sự của bên đề nghị giao kết hợp đồng dân sự có thể phát sinh trong các trường hợp như: + Trong trường hợp các bên có thỏa thuận sử dụng biện pháp đặt cọc để bảo đảm việc giao kết hợp đồng dân sự thì bên được đề nghị giao kết hợp đồng cũng phải thực hiện thỏa thuận này. Nếu có vi phạm trong quá trình giao kết hợp đồng thì phải chịu trách nhiệm theo quy định Điều 358 BLDS 2005. Theo đó, nếu bên được đề nghị giao kết hợp đồng ( là bên đặt cọc) giao cho bên kia tài sản đặt cọc trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hợp đồng mà từ chối việc giao kết hợp đồng dân sự thì tài sản đặt cọc thì thuộc về bên nhận đặt cọc. Còn nếu bên được đề nghị giao kết hợp đồng là bên nhận đặt cọc mà từ chối việc giao kết hợp đồng dân sự thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và 1 khoảng tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. + Trường hợp bên được đề nghị giao kết hợp đồng vi phạm các nguyên tắc giao kết hợp đồng theo quy định trong Điều 389 BLDS như có hành vi cưỡng ép, lừa dối…mà gây thiệt hại cho bên đề nghị giao kết hợp đồng thì cũng phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại của bên được đề nghị giao kết hợp đồng. 3. Trách nhiệm dân sự của các chủ thể khác trong quá trình giao kết hợp đồng dân sự. Trách nhiệm dân sự của các chủ thể khác trong quá trình giao kết hợp đồng (không phải là bên đề nghị giao kết hợp đồng và không phải là bên được đề nghị giao kết hợp đồng) mà phát sinh thiệt hại cho bên đề nghị giao kết hợp đồng hay bên được đề nghị giao kết hợp đồng như: bên cung cấp dịch vụ bưu chính, dịch vụ chuyển phát thư, dịch vụ viễn thông, trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản…là trách nhiệm hợp đồng (phát sinh từ hoạt động cung ứng, sử dụng dịch vụ bưu chính viễn thông…). Do đó, khi có phát sinh thiệt hại các chủ thể khác này có trách nhiệm bồi thường thiêt hại theo thỏa thuận trong hợp đồng đã giao kết hoặc theo quy định của pháp luật. IV. Thực tiễn áp dụng pháp luật và phương hướng hoàn thiện pháp luật. 1. Nhận xét các quy định của pháp luật. ● Ưu điểm. Pháp luật về giao kết hợp đồng được quy định cụ thể, đầy đủ, chặt chẽ phù hợp với thực tế sẽ tạo điều kiện để các bên thực hiện tốt hợp đồng, ngăn ngừa vi phạm, góp phần hạn chế các tranh chấp phát sinh cũng như giúp giải quyết tranh chấp thuận lợi hơn. Ví dụ: A gửi cho B một đề nghị giao kết hợp đồng. Ngay sau đó, A thay đổi ý định và gửi B một thông báo về việc rút lại đề nghị vừa mới gửi. Trong tình huống trên, có hai vấn đề pháp lý đặt ra: trường hợp nào thì thông báo rút lại đề nghị của A có hiệu lực; hình thức của thông báo rút lại có phải tuân theo hình thức đã đưa ra đề nghị hay không. Điều 392 BLDS 2005 quy định: “Bên đề nghị giao kết hợp đồng có thể thay đổi, rút lại đề nghị giao kết hợp đồng trong các trường hợp sau đây: a) Nếu bên được đề nghị nhận được thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị trước hoặc cùng với thời điểm nhận được đề nghị; b) Điều kiện thay đổi hoặc rút lại đề nghị phát sinh trong trường hợp bên đề nghị có nêu rõ về việc được thay đổi hoặc rút lại đề nghị khi điều kiện đó phát sinh”. Theo đó, điều kiện duy nhất là bên B phải nhận được thông báo rút lại đề nghị của bên A trước hoặc cùng thời điểm mà bên B nhận được đề nghị ban đầu. Tuy nhiên, điểm b Khoản 1 Điều 392 BLDS còn bổ sung thêm trường hợp: bên đề nghị có thể rút lại đề nghị nếu điều kiện thay đổi hoặc rút lại đề nghị phát sinh trong trường hợp bên đề nghị nói rõ về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị khi điều kiện đó phát sinh. Quy định này tạo ra ưu thế pháp lý tuyệt đối cho bên đề nghị, khi bên đề nghị có thể áp đặt ý chí của mình đối với bên được đề nghị bằng cách ấn định trước điều kiện thay đổi, rút lại đề nghị. ● Bên cạnh đó còn một số hạn chế: Điều 393 BLDS 2005 quy định: “Trong trường hợp bên đề nghị giao kết hợp đồng thực hiện quyền huỷ bỏ đề nghị do đã nêu rõ quyền này trong đề nghị thì phải thông báo cho bên được đề nghị và thông báo này chỉ có hiệu lực khi bên được đề nghị nhận được thông báo trước khi bên được đề nghị trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng”. Theo đó, một đề nghị về nguyên tắc sẽ không bị hủy ngang, trừ khi quyền hủy ngang được bên đề nghị quy định trước trong đề nghị. Mặc dù Điều 393 BLDS 2005 đưa ra thời điểm “bên được đề nghị trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng” làm căn cứ để xác định hiệu lực của thông báo hủy bỏ đề nghị của bên đề nghị, nhưng lại không nêu rõ thời điểm nào được coi là bên được đề nghị trả lời chấp nhận đề nghị. Nếu bên được để nghị trả lời chấp nhận bằng miệng, thì thời điểm đó dễ dàng xác định là thời điểm bên đề nghị nhận được thông báo bằng miệng, nhưng nếu bên được đề nghị trả lời chấp nhận dưới dạng văn bản (bằng thư, điện tín, fax…), thì thời điểm bên được đề nghị trả lời là thời điểm người đó thể hiện xong ý chí chấp nhận của mình dưới dạng văn bản hay là thời điểm thông báo về việc chấp nhận đề nghị được gửi đi…, đó là một điểm bế tắc của BLDS. BLDS 2005 với quy định tại Điều 398 đã làm mất hiệu lực của đề nghị bởi sự kiện chết hay vô năng của người người đề nghị, kể cả trong thời hạn chờ trả lời chấp nhận, mặc dù việc thừa kế di sản của người chết và việc giám hộ đối với người vô năng đã được quy định nhiều trong Bộ luật này. Với quy định như vậy, BLDS 2005 đã vô tình tước đi quyền lợi của người được đề nghị một cách vô duyên cớ, trong khi về nguyên tắc, Bộ luật này đã khẳng định trách nhiệm của người đề nghị trong khoảng thời gian chờ chấp nhận. Sẽ giải quyết thế nào trong trường hợp người được đề nghị đã tốn chi phí cho việc hành động theo đề nghị nhưng chưa thông báo về chấp nhận cho người đề nghị, trong khi vẫn còn thời hạn chấp nhận. Việc quy định như Điều 398 BLDS 2005 là thừa và không giải quyết được vấn đề mấu chốt là hiệu lực của đề nghị. Nếu người đề nghị đã nhận được đề nghị rồi, sau đó mới chết hoặc vô năng thì không can hệ gì vì hợp đồng coi như đã được giao kết. Hợp đồng đã được giao kết thì đề nghị và chấp nhận chỉ còn lại chức năng chứng minh cho quan hệ hợp đồng đó. Đối với trường hợp thứ hai mà BLDS 2005 quy định tại Điều 399 cũng là thừa, bởi khi người đề nghị đã nhận được chấp nhận thì hợp đồng coi như đã được giao kết, có nghĩa là có mối quan hệ hợp đồng giữa các bên rồi thì việc nhắc lại hiệu lực của đề nghị hoặc chấp nhận đều là không cần thiết như trên đã phân tích. Cần hiểu rằng một người nào đó chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự không có nghĩa là tài sản hay sản nghiệp của họ “chết” theo hoặc “mất năng lực”, Theo BLDS 2005 cũng đã khẳng định người có nghĩa vụ là cá nhân chết thì nghĩa vụ chỉ chấm dứt khi nghĩa vụ đó phải do chính cá nhân đó thực hiện; và người có quyền là cá nhân chết mà quyền yêu cầu không thuộc di sản thừa kế thì mới là căn cứ để chấm dứt nghĩa vụ (Điều 374, khoản 8 và khoản 9). Nếu đã coi đề nghị và chấp nhận là các hành vi pháp lý, thì cũng phải lấy các quy tắc chung của nghĩa vụ để xem xét chúng. Vậy có thể nhận xét BLDS 2005 thiếu nhất quán. 2. Thực tiễn áp dụng pháp luật. Về mặt lí luận, nếu nhìn nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự thể hiện ý chí của bên đề nghị muốn tự ràng buộc mình trong trường hợp có trả lời chấp nhận, thì rõ ràng sự bày tỏ ý chí công khai đối với số người không xác định khi chứa đựng nội dung chủ yếu của hợp đồng có giá trị một đề nghị giao kết. Về mặt thực tiễn, việc bày tỏ ý chí công khai có nêu rõ nội dung chủ yếu của hợp đồng như thông báo công khai của doanh nghiệp vận tải, việc bày hàng ở chợ, công khai về gửi giữ xe đạp, xe máy hay cam kết hứa thưởng và thi có giải…được im lặng là thừa nhận, là đề nghị giao kết hợp đồng công cộng. Nhưng hiện nay, do đề nghị công cộng chưa chính thức được ghi nhận về mặt lập pháp nên mối quan hệ ràng buộc của đề nghị cũng như trả lời chấp nhận của khách hàng không được điều chỉnh rõ ràng. Có thể khẳng định rằng việc quy định đề nghị giao kết hợp đồng công cộng trong BLDS là việc cần thiết. + Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự thể hiện ý chí, theo đó bên nhận đề nghị đồng ý với tất cả điều kiện được nêu trong đề nghị. Bởi vì sự chấp nhận phải phù hợp với nội dung của đề nghị, nên khi bên được đề nghị nêu điều kiện bổ sung hoặc sửa đổi đề nghị thì coi như người này đưa ra đề nghị mới ( theo khoản 3 Điều 399 BLDS). Nhưng do tính mềm dẻo và linh hoạt của giao dịch dân sự thì thực tế có trường hợp ngoại lệ. Trong giao dịch thương mại quốc tế, sự phúc đáp có khuynh hướng chấp nhận kèm theo các điều khoản bổ sung nhưng không làm biến đổi 1 cách cơ bản chủ yếu của đề nghị vẫn được coi là trả lời chấp nhận nếu bên đề nghị không phản đổi ngay những điểm khác biệt đó. Trong mọi trường hợp, khi bên đề nghị bên kia giao kết hợp đồng dân sự có nêu rõ nội dung chủ yếu của hợp đồng và thời hạn trả lời thì không được mời người thứ ba giao kết trong thời hạn trả lời và phải chịu trách nhiệm về lời đề nghị của mình. Từ quy định từ Điều 396 BLDS 2005, có thể hiểu khi đề nghị giao kết hợp đồng bị thu hồi trái phép thì việc thu hồi không những không có giá trị pháp lý mà còn là căn cứ phát sinh nghĩa vụ bồi thường thiệt hại. Vấn đề là mức bồi thường thiệt hại như thế nào vẫn còn là vấn đề gây tranh cãi. Có quan điểm đề nghị áp dụng mức bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Còn quan điểm khác phổ biến hơn thì cho rằng, bên rút lại đề nghị phải gánh chịu hậu quả tương ứng như khi đơn phương phá vỡ hợp đồng. + Trường hợp bên đề nghị giao kết hợp đồng rút lại đề nghị giao kết hợp đồng. Ông Nguyễn Văn Hoàn đưa ra đề nghị giao kết hợp đồng mua bán một ngôi nhà với bà Trần Như Quỳnh và đồng ý cho bà Quỳnh được xem căn hộ chung cư tại khu đô thị Trung yên – Cầu giấy vào ngày 1-1-2010, ông Hoàn im lặng thừa nhận đề nghị giao kết có hiệu lực đến ngày đó. Nếu việc ông Hoàn rút lại đề nghị trước ngày đã hẹn sẽ là căn cứ để yêu cầu bồi thường thiệt hại, thậm chí ông Hoàn có thể buộc phải thực hiện nghĩa vụ bán căn hộ theo điều kiện đã nêu trong đề nghị. Nhưng pháp luật chưa có quy định rõ ràng về hậu quả pháp lý của việc rút lại bất hợp pháp giao kết hợp đồng. Điều này sẽ gây ra không ít khó khăn cho việc xác định mức bồi thường thiệt hại gây nên khi một bên rút lại đề nghị. + Thời hạn trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng dân sự. Một điều rõ ràng là trả lời chấp nhận chỉ có hiệu lực khi được thực hiện trong thời hạn do bên đề nghị ấn định. Quá thời hạn đó, lời chấp nhận coi như đề nghị mới của bên chậm trả lời (Điều 397 BLDS). Nhưng trên thực tế, có thể xảy ra trường hợp do nguyên nhân khách quan mà sự trả lời chấp thuận được gửi đúng hạn nhưng lại đến tay người đề nghị một cách muộn màng. Không biết về sự chậm trễ đó, bên đề nghị trả lời cho rằng thư trả lời được nhận kịp thời và người đó có thể bắt đầu xúc tiến thực hiện hợp đồng. Trong trường hợp này, thực hiện nguyên tắc này ngay tình và thiện chí nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của bên trả lời đề nghị. Pháp luật nhiều nước buộc bên đưa ra đề nghị có trách nhiệm thông báo không chậm trễ cho bên trả lời đề nghị về việc đồng ý hay từ chối tiếp nhận thư trả lời đến chậm. Sự im lặng của bên đưa ra đề nghị có giá trị 1 sự đồng ý và hợp đồng sẽ được coi là giao kết từ thời điểm nhận thư trả lời. Khoản 2 Điều 21 Công ước của Liên hợp quốc về hợp đồng mua bán quốc tế (Công ước Viên 1980) quy định: “Khi thư từ hay văn bản khác do người nhận chào hàng gửi đi chứa đựng một sự chấp nhận chậm trễ mà thấy rõ ràng nõ đã được gửi đi trong những điều kiện mà, nếu sự chuyển giao bình thường , nó đã đến tay người chào hàng kịp thời, thì sự chấp nhận chậm trễ được coi như chấp nhận đúng hạn, trừ phi không chậm trễ người chào hàng thông báo miệng hoặc gửi thông báo bằng văn bản cho người được chào hàng biết người chào hàng coi chào hàng của mình đã hết hiệu lực”. Trong trường hợp trả lời chấp nhận muộn, nên áp dụng quy định của Điều 21 Công ước viên 1980 cho phù hợp với thông lệ chung của quốc tế về giao kết hợp đồng dân sự. BLDS không quy định trường hợp đề nghị giao kết hợp đồng không nói rõ thời hạn thì sự ràng buộc của đề nghị sẽ kéo dài trong thời hạn bao lâu. Ngoài ra, hiệu lực ràng buộc của đề nghị giao hết hợp đồng cũng chấm dứt khi bên được đề nghị trả lời không chấp nhận hoặc khi hết hạn trả lời. Khi đề nghị giao kết hợp đồng chấm dứt, người đưa ra đề nghị có quyền giao kết hợp đồng với người khác. Trường hợp như: anh Nguyễn Văn Hùng có nhận được đề nghị giao kết hợp đồng của anh Trần Ngọc Hưng vào ngày 10-2-1009 về hợp đồng mua bán nhà tại số nhà 10 ngõ 48, phường Yên Hòa – Cầu giấy –Hà Nội, theo đề nghị của anh Hưng thì anh Hùng phải trả lời vào ngày 20-2-2009. Nhưng vào ngày 20-2-2009, không thấy anh Hùng trả lời nên ngày hôm đó anh Hưng lại giao kết hợp đồng với chị Hương. Việc giao kết không thành gây tổn thất lớn cho anh Hùng nên anh Hưng phải bồi thường thiệt hại cho anh Hùng. Theo quy định khoản 2 Điều 390 BLDS thì bên đề nghị phải bồi thường cho bên được đề nghị khi có thiệt hại phát sinh. Nhưng trong BLDS chưa có quy định về mức bồi thường thiệt hại như thế nào nếu thiệt hại xảy ra rất lớn nếu không có thỏa thuận. Thực tế cho thấy, đối với các trường hợp giao kết hợp đồng dân sự bằng hành vi hoặc bằng lời nói mà các bên thỏa thuận, thực hiện xong ngay như mua bán đồ dùng sinh hoạt hàng ngày mà phát sinh thiệt hại thì việc xác định thiệt hại cũng như trách nhiệm bồi thường thiệt hại giữa các bên là xảy ra trong quá trình giao kết hợp đồng dân sự là rất phức tạp. Do đó, trong những trường hợp này thông thường ta xem xét luôn trách nhiệm dân sự của các bên trong quá trình giao kết, thực hiện hợp đồng mà không tách bạch trách nhiệm xảy ra trong giao kết hay trong thực hiện hợp đồng. + Đối với loại hợp đồng thực tế và hợp đồng trọng hình thức thì cần phải có sự tuân thủ các điều kiện riêng biệt của chúng thì hợp đồng mới được xem là được kết lập. Nhà làm luật của ta lại không chú ý đến tại mục nói về giao kết hợp đồng của BLDS 2005, trong khi cả Bộ luật này nói khá nhiều về loại hợp đồng trọng hình thức và hợp đồng thực tế tại các mục khác, nhưng có ý thức chúng là hợp đồng thực tế và hợp đồng trọng hình thức không thì chưa được rõ. Đối với cả hai trường hợp, vấn đề cần phải làm rõ là “trả lời chấp nhận” được nói tới trong các Điều 398 và Điều 399 là thế nào. Có phải việc bắt đầu chuyển chấp nhận đi được hiểu là “trả lời chấp nhận”, hay việc người đề nghị nhận được chấp nhận mới được xem là “trả lời chấp nhận”? Việc xác định này rất quan trọng, vì sự kiện chết hay mất năng lực hành vi xảy ra trong khoảng thời gian kể từ thời điểm bắt đầu chuyển chấp nhận đi cho đến thời điểm người đề nghị nhận được chấp nhận khác với sự kiện chết hay mất năng lực hành vi xảy ra sau thời điểm người đề nghị đã nhận được chấp nhận. Có lẽ cân đối với tất cả các Điều luật khác của BLDS 2005, chúng ta nên giải thích “trả lời chấp nhận” là việc người đề nghị nhận được chấp nhận của người được đề nghị. + Hình thức giao kết hợp đồng điện tử. Thực trạng pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong giao kết hợp đồng điện tử. Ở Việt Nam, cùng với những chuyển biến của môi trường xã hội, hạ tầng công nghệ và khung pháp lý trong những năm gần đây, ứng dụng thương mại điện tử trong doanh nghiệp ngày càng được mở rộng, đặc biệt là các ứng dụng trên nền Internet. Hệ thống pháp luật trước đây (trước năm 2006) chưa có văn bản nào điều chỉnh vấn đề giao dịch tiến hành trên những website, mọi giao dịch trên các website vẫn được tiến hành một cách tự phát và không có cơ sở pháp lý để giải quyết những tranh chấp phát sinh. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam chưa có quy định cho phép người tiêu dùng có quyền rút lui khỏi hợp đồng, trả lại hàng hóa đã mua và không phải bồi thường, khi giao kết hợp đồng qua Internet trong một thời hạn nhất định như pháp luật của một số nước tiến tiến trên thế giới như Mỹ, Nhật Bản…Bên cạnh đó, các quy định về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong giao kết hợp đồng điện tử còn nằm rải rác ở các văn bản khác nhau, khó cho việc tra cứu và quan trọng hơn, phần lớn các quy định này mới chỉ được quy định trong một văn bản có hiệu lực pháp lý thấp (Thông tư số 09/2008/TT-BCT), nên hiệu quả điều chỉnh trong thực tiễn chưa cao. Tóm tắt vụ kiện 1: Ngày 6/4/1956, bị đơn Great Minneapolis đăng quảng cáo trên báo của thành phố Minneapolis: 9h sáng thứ bảy, những chiếc áo lông mới hiệu Sharp giá 100 USD, sẽ bán cho người có mặt đầu tiên với giá 1 USD. Ngày 13/4/1956, bị đơn tiếp tục đăng quảng cáo với nội dung: khăn choàng lông thỏ màu đen dành cho phụ nữ giá 139.50 USD, sẽ bán cho người có mặt đầu tiên với giá 1 USD. Vào một trong những ngày thứ bảy theo như đã công bố trên quảng cáo, nguyên đơn Lefkowitz là người đầu tiên có mặt tại cửa hiệu của bị đơn và trong mỗi thời điểm, nguyên đơn yêu cầu bị đơn bán áo choàng và khăn như đã quảng cáo. Trong cả hai thời điểm, bị đơn từ chối bán hàng trưng bày cho nguyên đơn và tuyên bố trong thời điểm thứ nhất rằng, do một quy tắc của hãng, quảng cáo được đưa ra và chỉ bán cho phụ nữ. Do đó, nguyên đơn đã kiện bị đơn ra tòa vì cho rằng, bị đơn đã không thực hiện đúng cam kết đã nêu trong quảng cáo. Đối với tình huống trên, điều 14, 15, 24 của CISG (Công ước Viên về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế của Liên hiệp quốc năm 1980) quy định: “một đề nghị ký kết hợp đồng gửi cho một hay nhiều người xác định được coi là một chào hàng…”; “chào hàng có hiệu lực khi nó tới nơi người được chào hàng” hoặc được coi là có hiệu lực khi “được giao bằng bất cứ phương tiện nào cho chính người được chào hàng tại trụ sở thương mại của họ, tại địa chỉ bưu chính hoặc nếu họ không có trụ sở thương mại hay địa chỉ bưu chính thì gửi tới nơi thường trú của họ”. Như vậy, quảng cáo của  Great Minneapolis chỉ là một lời mời chào hàng chứ không phải là một đề nghị giao kết hợp đồng, vì nó hướng tới công chúng, một tập hợp người không xác định. Khi đăng quảng cáo, Great Minneapolis không biết được ai sẽ đọc quảng cáo cũng như không thể biết Lefkowitz sẽ là “người đầu tiên tới cửa hàng” trong vô số những người đã đọc quảng cáo và tới cửa hàng Great Minneapolis để mua các sản phẩm lông thú. Nếu đặt ví dụ trên vào hoàn cảnh của Việt Nam, thì rất khó giải quyết vì Điều 390 BLDS 2005 quy định: “Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định cụ thể”. Tính xác định của bên được đề nghị được giải thích căn cứ hoàn toàn vào ý chí của bên đưa ra đề nghị. Lefkowitz có thể coi là không được xác định cụ thể theo cách lập luận ở trên khi vận dụng CISG giải quyết tình huống này; nhưng cũng có thể là được xác định nếu dựa vào tiêu chí “người đầu tiên tới cửa hàng” như cách lập luận của Lefkowitz. Khi đó, việc lựa chọn phương án nào lại phụ thuộc vào cảm tính của thẩm phán. Đó chính là hạn chế trong kỹ thuật lập pháp của Điều 390 BLDS 2005, bởi theo lý thuyết chung thì quy phạm pháp luật phải rõ ràng và đơn nghĩa để đảm bảo cho pháp luật được hiểu và áp dụng một cách thống nhất. Vì vậy, Điều 390 BLDS 2005 cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng quy định rõ “tính xác định cụ thể của người được đề nghị” để tránh trường hợp nó được hiểu theo nhiều nghĩa, gây khó khăn trong hoạt động áp dụng pháp luật. 2. Phương hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật về giao kết hợp đồng dân sự. + Tiếp tục hoàn thiện pháp luật quy định về giao kết hợp đồng dân sự theo hướng BLDS là đạo luật chung. Nên dùng thuật ngữ là giao kết hợp đồng và hợp đồng để áp dụng chung cho các loại hợp đồng. Cần có những các quy định riêng về giao kết hợp đồng chỉ áp dụng cho các loại hợp đồng cụ thể như trong lĩnh vực lao động, thương mại…Do đó, sẽ bảo đảm phù hợp với thực tế cũng như tính ổn định cao của pháp luật. + Cần phải có quy định về nguyên tắc giao kết hợp đồng, để đảm bảo tính thống nhất và tranh trùng lặp. BLDS cần quy định thêm về đề nghị giao kết và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng dân sự với hình thức là văn bản, bắt buộc phải có chữ ký hoặc điểm chỉ của chủ thể giao kết hợp đồng. Đối với pháp nhân và các tổ chức thì cần có chữ ký của người có thẩm quyền và có đóng dấu của tổ chức, pháp nhân đó. + Cần bổ sung 1 số trường hợp cụ thể về việc chấm dứt đề nghị giao kết hợp đồng cho phù hợp với thực tế để bảo đảm quyền và lợi ích giữa các bên. Một số trường hợp như: 1 hoặc 2 bên chết, mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị phá sản trước khi bên được đề nghị trả lời chấp nhận đề nghị. Đối tượng của hợp đồng dân sự dự kiến giao kết được nêu trong đề nghị giao kết không còn nữa do nguyên nhân bất khả kháng. Cần sửa đổi quy định về thời hạn trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng để bảo đảm tính thống nhất khi áp dụng trong thực tế. + Điều 390 BLDS 2005 cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng quy định rõ “tính xác định cụ thể của người được đề nghị” để tránh trường hợp nó được hiểu theo nhiều nghĩa, gây khó khăn trong hoạt động áp dụng pháp luật. Theo đó, cần bổ sung thêm quy định “một bên được coi là xác định cụ thể khi bên đề nghị gửi đề nghị của mình, bằng các tiêu chí khách quan xác định được rõ bên mà đề nghị sẽ được gửi tới” vào Điều 390 BLDS. + Điều 393 BLDS 2005 cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng tiếp thu các giải pháp được thừa nhận chung được quy định tại Điều 16 của CISG (Công ước Viên về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế của Liên hiệp quốc năm 1980) và Điều 2.1.4 của PICC (Bộ nguyên tắc về hợp đồng thương mại quốc tế của UNIDROIT năm 2004); hoặc nếu giữ nguyên Điều 393 thì BLDS 2005 cũng nên quy định rõ thời điểm bên được đề nghị trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Đó là thời điểm “bên được đề nghị gửi chấp nhận đề nghị cho bên đề nghị”. + Cần sửa quy định về thời hạn trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng dân sự để đảm bảo tính thống nhất khi áp dụng BLDS có thể sửa lại theo khoản 1 Điều 397: “ Trong trường hợp bên đề nghị có ấn định thời hạn chờ trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu lực khi bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận trong thời hạn đó; nếu bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận được trả lời khi đã hết thời hạn chờ trả lời thì lời chấp nhận này được coi là đề nghị mới của bên chậm trả lời”. + Cần bổ sung quy định về nguyên tắc xác định địa điểm giao kết hợp đồng dân sự trước hết phải là nơi trực tiếp giao kết hợp đồng, sau đó mới đến các nơi khác. Điều 403 cần quy định cụ thể là: “1. Địa điểm giao kết hợp đồng là nơi các bên trực tiếp giao kết hợp đồng; 2. Trường hợp không xác định được địa điểm giao kết hợp đồng theo khoản 1 Điều này thì địa điểm giao kết hợp đồng do các bên thỏa thuận; nếu không có thỏa thuận thì địa điểm giao kết hợp đồng dân sự là nơi cư trú của cá nhân hoặc trụ sở của pháp nhân đưa ra lời đề nghị giao kết hợp đồng”. Đồng thời, cần bổ sung những quy định cụ thể về nghĩa vụ cung cấp thông tin của các bên trong quá trình giao kết hợp đồng để hạn chế đến mức thấp nhất những tranh chấp phát sinh trong quá trình giao kết hợp đồng và thiệt hại thực tế. Quy định thêm như: Bên đề nghị giao kết hợp đồng phải có trách nhiệm với lời đề nghị của mình, lời đề nghị phải rõ ràng cụ thể để bên được đề nghị biết được. + Bổ sung quy định về trách nhiệm dân sự của các bên trong quá trình giao kết hợp đồng dân sự. Có thể bổ sung cụ thể trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ thể trong quá trình giao kết hợp đồng khi có thiệt hại phát sinh theo hướng: “Người nào có lỗi cố ý hoặc vô ý trong quá trình giao kết hợp đồng mà gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật”. + Trong bối cảnh hiện nay, việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn về quy trình giao kết hợp đồng trên website thương mại điện tử là hết sức cần thiết, nhằm thiết lập những nguyên tắc và chuẩn mực chung cho hoạt động của các website, nâng cao tính minh bạch của một hình thức giao dịch thương mại điện tử phổ biến, đồng thời góp phần bảo vệ và cân bằng lợi ích giữa các bên tham gia. Do đó, BLDS nên bổ sung quy định giao kết hợp đồng dân sự bằng hình thức giao kết hợp đồng điện tử. KẾT LUẬN Các quy định của pháp luật về giao kết hợp đồng được quy định khá cụ đầy đủ, chặt chẽ phù hợp với thực tế sẽ tạo điều kiện để các bên thực hiện tốt hợp đồng, ngăn ngừa vi phạm, góp phần hạn chế các tranh chấp phát sinh cũng như giúp giải quyết tranh chấp thuận lợi hơn. Nhưng thực hiễn có rất nhiều trường hợp mà luật dân sự không điều chỉnh hết được, do đó có nhiều hạn chế trong vấn đề giao kết hợp đồng dân sự. Để khắc phục những hạn chế đó là kiến nghị đưa ra các phương hướng để luật sửa đổi cho phù hợp hơn với thực tế hiện nay.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docHợp đồng dân sự và giao kết hợp đồng dân sự.doc
Tài liệu liên quan